ỦY BAN GIÁM SÁT TÀI CHÍNH QUỐC GIA CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Số: /BC-UBGSTCQG Hà Nội, ngày tháng năm 217 BÁO CÁO Tình hình kinh tế - tài chính tháng 1/217 và 1 tháng đầu năm 217 (Tài liệu phục vụ phiên họp Chính phủ tháng 1/217) ---------------------------------------------------------------- TÓM TẮT NỘI DUNG: Kinh tế thế giới o IMF (T1/217) đã nâng mức dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 217 lên mức 3,6% và theo IMF nhịp độ tăng trưởng này có thể duy trì trong năm 218. Tuy nhiên, IMF cũng khuyến cáo các ngân hàng trung ương cần duy trì chính sách lãi suất thấp kết hợp với chính sách tài khóa linh hoạt nhằm củng cố đà phục hồi của kinh tế toàn cầu; o Giá dầu tăng lên mức cao nhất trong vòng gần 8 tháng qua để đạt mức 54,7 USD/thùng (29/1), tăng 1,12% so với đầu tháng 1 sau thông tin OPEC có khả năng gia hạn thỏa thuận cắt giảm nguồn cung. Kinh tế Việt Nam o Tiếp đà hồi phục mạnh mẽ của quý III/217, kinh tế Việt Nam đang tiếp tục duy trì được đà tăng trưởng tích cực trong tháng đầu của quý IV; o Sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng cao nhờ động lực từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; o Nền tảng vĩ mô được duy trì ổn định, lạm phát và lạm phát cơ bản tiếp tục ở mức thấp; o Bội chi NSNN được giữ ở mức thấp nhờ tốc độ tăng thu cao hơn tốc độ tăng chi; o Tín dụng 1 tháng đầu năm tăng trưởng tích cực. Thanh khoản của hệ thống ngân hàng nhìn chung vẫn dồi dào; o Tỷ giá VND/USD tại các NHTM và trên thị trường tự do ổn định so với tháng trước và tiếp tục xu hướng giảm so với đầu năm, trong khi tỷ giá trung tâm tiếp tục được điều chỉnh tăng; o Chỉ số VNIndex vượt mốc 8 điểm, tăng hơn 2% so với đầu năm và xếp thứ 9 về mức tăng trưởng trong các chỉ số chứng khoán trên thế giới từ đầu năm 217. 1
I. TÌNH HÌNH KINH TẾ - TÀI CHÍNH TOÀN CẦU 1. Kinh tế thế giới - IMF (T1/217) đã nâng dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 217 lên 3,6%, tăng,1 điểm % so với dự báo hồi tháng 4 và tháng 7 và cho rằng nhịp độ tăng trưởng này có thể duy trì trong năm 218. Triển vọng kinh tế toàn cầu đang trở nên vững chắc nhờ sự gia tăng sản xuất công nghiệp, đầu tư và thương mại. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát của đa số các nền kinh tế phát triển chưa đạt được mục tiêu nên tiềm năng tăng trưởng của nhiều nước vẫn chưa cao. Do đó, IMF đã kêu gọi các ngân hàng trung ương duy trì lãi suất cho vay thấp nhằm thúc đẩy đà phục hồi vốn, bổ sung chính sách tiền tệ siêu lỏng với chính sách tài khóa linh hoạt nhằm củng cố đà phục hồi của kinh tế toàn cầu. - Các nền kinh tế chủ chốt tiếp tục xu hướng phục hồi vững chắc. Nền kinh tế Mỹ tăng trưởng vượt dự báo trong quý 3, với mức tăng trưởng 3% (dự báo 2,7%) nhờ chi tiêu tiêu dùng, hoạt động đầu tư tiếp tục tăng mạnh và cán cân thương mại cải thiện; Nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng 6,8% trong quý 3 và được dự báo sẽ đạt mục tiêu tăng trưởng năm 217 ở mức 6,5% nhờ vào động lực là xuất khẩu và chi tiêu chính phủ; Kinh tế khu vực Eurozone đang có những biểu hiện phục hồi tích cực khi lạm phát được duy trì ở mức 1,8%, sát mục tiêu 2%, tỷ lệ thất nghiệp ở mức 9,1%, thấp nhất kể từ năm 29; Kinh tế Nhật Bản tăng trưởng ổn định trong quý 3 do xuất khẩu đạt tốc độ tăng cao nhất trong 4 năm qua, trong khi nhu cầu trong nước tiếp tục được cải thiện nhờ niềm tin tiêu dùng tăng cao. 2. Thị trường tài chính toàn cầu Thị trường chứng khoán toàn cầu tiếp tục có nhiều dấu hiệu tích cực. Tính đến cuối tháng 1/217, hầu hết các chỉ số chứng khoán cuả các thị trường lớn đều tăng điểm khá tích cực so với đầu năm. Dẫn đầu là thị trường châu Á với mức tăng bình quân trên 23% so với đầu năm, tiếp theo là thị trường Mỹ (trên 15%). Các chỉ số chứng khoán tại thị trường Châu Âu và Nhật Bản tuy có mức tăng thấp hơn song cũng cho thấy đã có những phục hồi đáng kể. 3. Động thái của các ngân hàng trung ương - NHTW Mỹ (FED) nhiều khả năng tăng lãi suất vào cuối năm 217, sẽ có thêm 3 đợt tăng lãi suất vào năm 218, và 2 đợt tăng trong năm 219. Lạm phát có dấu hiệu tăng chậm có thể khiến mục tiêu tăng lãi suất dài hạn của Fed giảm xuống mức 2,8% thay vì mức 3% trước đây. Fed dự báo lạm phát của Mỹ khó có khả năng đạt mục tiêu 2% trước năm 219 do lạm phát được dự báo giảm xuống còn 1,5% năm 217 và chỉ đạt 1,9% năm 218. - NHTWAnh (BoE) có khả năng sẽ tăng lãi suất vào tháng 11/217 do lạm phát đã đạt mức cao nhất trong vòng 5 năm trở lại đây (ở mức 3%). Dự kiến lãi suất điều hành có thể được điều chỉnh tăng từ,25% lên mức,5%. - NHTW Châu Âu (ECB) quyết định sẽ giảm dần khối lượng mua trái phiếu của chương trình nới lỏng định lượng từ năm 218. Theo đó, khối lượng trái phiếu mua vào 2
hàng tháng từ đầu năm 218 sẽ giảm từ mức 6 tỷ euro xuống còn 3 tỷ euro và tiếp tục giữ khối lượng giao dịch như vậy ít nhất cho đến tháng 9/218. - NHTW Nhật Bản (BOJ) chưa có thay đổi trong điều hành chính sách tiền tệ, tiếp tục chính sách lãi suất -.1% đối với các khoản dự trữ vượt mức của các tổ chức tài chính gửi tại NHTW nhằm hướng tới mục tiêu lạm phát 2%. Chiến thắng của ông Abe khiến chương trình mua tài sản của BOJ và chính sách làm yếu đồng Yên Nhật so với Đô la Mỹ nhiều khả năng vẫn tiếp tục được thực hiện. - NHTW Trung Quốc (PBoC) đang phải đối mặt với nguy cơ suy giảm giá tài sản do nợ của doanh nghiệp tương đối cao và nợ của hộ gia đình đang tăng nhanh. Trong một diễn biến khác, PBoC đã dỡ bỏ quy định dự trữ bắt buộc đối với các giao dịch kỳ hạn ngoại tệ. Điều này khiến việc mua USD trở nên dễ dàng hơn, đồng thời làm giảm áp lực tăng giá của đồng Nhân dân tệ so với Đô la Mỹ. 4. Giá hàng hóa thế giới Giá dầu đã tăng lên mức cao nhất trong vòng gần 8 tháng qua để đạt mức 54,7 USD/thùng (29/1), tăng 1,12% so với đầu tháng 1 sau thông tin OPEC có khả năng gia hạn thỏa thuận cắt giảm nguồn cung và cam kết cắt giảm tình trạng dư thừa dầu thô của Arab Saudi. Thời gian tới, giá dầu thế giới sẽ tiếp tục chịu ảnh hưởng bởi thông tin về nhu cầu tiêu thụ dầu và tồn kho của thị trường Mỹ - thị trường tiêu thụ dầu lớn nhất thế giới hiện nay. Giá hàng hóa, WB (T1/217) dự báo giá năng lượng sẽ tăng lên 4% vào năm 218 sau khi tăng tới 24% vào năm 217. Trong đó, giá dầu thô dự kiến ở mức 53 USD/thùng trong năm 217 và 56 USD/thùng trong năm 218 (tăng 5,7%). Giá hàng hóa phi năng lượng dự báo tăng 5% năm 217 và chỉ tăng nhẹ,6% năm 218, trong đó, giá kim loại sau khi tăng tới 22,4% trong năm 217, sẽ giảm nhẹ,7% vào năm 218. Cùng xu hướng với giá kim loại là giá vàng với mức tăng,1% năm 217, và giảm 1% năm 218. Bảng: Giá hàng hóa thế giới, đơn vị: USD Năng lượng Nông sản Lương thực Nguyên liệu thô Kim loại Dầu thô Vàng 216 55 89 92 8 63 43 1249 217 68 89 92 82 77 53 125 218 71 9 93 83 76 56 1238 Thay đổi (%) 216-17 23.7 -.6 -.1 2.4 22.4 23.8.1 217-18 4 1.2 1.2 1.6 -.7 5.7-1 Nguồn: Worldbank Commodity Markets Outlook T1.217 3
II. KINH TẾ VIỆT NAM 1. Tổng quan kinh tế Việt Nam 1 tháng đầu năm 217 Tiếp đà hồi phục mạnh mẽ của quý III, kinh tế Việt Nam đang duy trì được đà tăng trưởng tích cực trong tháng đầu của quý IV; Trong bối cảnh ngành khai khoáng tăng trưởng âm, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trở thành động lực dẫn dắt lĩnh vực sản xuất công nghiệp đạt mức tăng cao trong nhiều năm trở lại đây. - Tính chung 1 tháng đầu năm, chỉ số IIP toàn ngành tăng 8,7% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn so với mức 7,3% của cùng kỳ năm 216 và đạt mức cao thứ 2 trong vòng 5 năm trở lại đây. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực chính của sản xuất công nghiệp khi tính chung 1 tháng tăng 13,6% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 216 tăng 11%). Ở chiều ngược lại, tăng trưởng ngành khai khoáng vẫn ở mức âm (1 tháng đầu giảm 7,4% so với cùng kỳ 216). Tuy nhiên, mức giảm đã được cải thiện đáng kể so với những quý đầu năm. - Trong bối cảnh kinh tế tăng trưởng cao, chỉ số PMI đã có những diễn biến tích cực khi đạt 51,6 điểm trong tháng 1, tiếp tục duy trì tháng thứ 23 liên tiếp đạt mức tăng trên 5 điểm. Bình quân 9 tháng đầu năm 217, chỉ số PMI đạt 52,7 điểm, cao hơn nhiều so với mức 51,9 điểm của bình quân 9 tháng đầu năm 216. Chỉ số sản xuất công nghiệp IIP, cộng dồn so với cùng kỳ, % 4 Chỉ số PMI Việt Nam Nguồn: Nikkei Tổng cầu duy trì được sự cải thiện tích cực nhờ cầu tiêu dùng tăng khá cán cân thương mại tiếp tục thặng dư do kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh và giải ngân vốn đầu tư NSNN tăng tốc trong quý IV - Cầu tiêu dùng tiếp tục xu hướng cải thiện rõ nét bắt đầu từ quý 3/217. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng 1 tháng đầu năm nay (loại trừ yếu tố giá) tăng 9,4% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn so với mức 9% của cùng kỳ năm 216. - Cán cân thương mại tháng 1 tiếp tục thặng dư (ước xuất siêu 9 triệu USD), góp phần không nhỏ vào việc cải thiện -15-25 55 54 53 52 51 5 49 15 5-5 1 2 3 4 5 6 7 8 9 1 Khai khoáng CN chế biến, chế tạo Toàn ngành CN Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng 217 (cộng dồn, loại trừ yếu tố giá), % so cùng kỳ 15 1 5 1T 2T 3T 4T 5T 6T 7T 8T 9T 1T 216 217
tổng cầu của nền kinh tế. Như vậy, cán cân thương mại trong 3 tháng gần đây đã có mức xuất siêu tới 3,76 tỷ USD (tính đến hết tháng 7, thâm hụt 2,53 tỷ USD) để đưa cán cân thượng mại 1 tháng đạt mức thặng dư 1,23 tỷ USD. Tuy nhiên, xét theo khu vực kinh tế, trong khi khu vực FDI xuất siêu 17,63 tỷ USD trong 1 tháng đầu năm, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 16,4 tỷ USD. Thực trạng này tiếp tục cho thấy sự phụ thuộc của thương mại và tăng trưởng kinh tế vào khu vực FDI. - Giải ngân vốn đầu tư NSNN cải thiện tích cực cho thấy hiệu quả của Nghị quyết số 7/NQ-CP ngày 3/8/217 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công. Nếu như đến hết tháng 7/217, vốn đầu tư từ NSNN mới giải ngân được 47,2% kế hoạch năm thì đến hết tháng 1 đã giải ngân được 72,5% kế hoạch năm, tăng 7,3% so với cùng kỳ 216. Dù vậy, việc thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công vẫn là vấn đề cần được ưu tiên trong 2 tháng cuối năm để bảo đảm mục tiêu tăng trưởng chung. 2. Về lạm phát CPI tháng 1 tăng,41% so với tháng trước, tăng 2,25% so với đầu năm và tăng 2,98% so với cùng kỳ. So với tháng trước, CPI tháng 1 tăng chủ yếu do: giá dịch vụ y tế tăng 2,14%, đóng góp làm CPI tăng khoảng,11 điểm %; nhóm nhà ở vật liệu xây dựng tăng,63% làm CPI tăng khoảng,1 điểm %. Tính chung 1 tháng đầu năm, các nguyên nhân chủ yếu khiến CPI tăng lần lượt là: dịch vụ y tế tăng 43,44% so với cùng kỳ, góp phần làm CPI tổng thể tăng 1,68 điểm %; giá thép liên tục tăng trong thời gian qua đã khiến giá nhóm nhà ở, Giá trị xuất nhập khẩu của các khu vực kinh tế 1 tháng đầu năm 217 (tỷ USD) 2 15 1-5 1.2-16.4 17.6 Vốn đầu tư thực hiện từ NSNN, cộng dồn so với kế hoạch năm 8 7 6 5 4 3 2 1 5 Tổng Trong nước Nước ngoài Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân thương mại Lạm phát tổng thể và lạm phát cơ bản T1/216-T7/217, % tăng so với cùng kỳ 6 4 2 1T 2T 3T 4T 5T 6T 7T 8T 9T 1T 216 217 Lạm phát tổng thể Lạm phát cơ bản 5
Lương thực Thực phẩm Dịch vụ y tế Dịch vụ giáo dục Giao thông Nhà ở, điện nước, chất đốt điện nước tăng 5,18%, góp phần làm CPI tổng thể tăng,81 điểm %; nhóm giao thông tăng 5,21% so với cùng kỳ góp phần làm CPI tổng thể tăng,49 điểm %; nhóm dịch vụ giáo dục tăng 7,26% so với cùng kỳ góp phần làm CPI tổng thể tăng,4 điểm %. Ở chiều ngược lại, giá thực phẩm giảm 2,81% so với cùng kỳ làm CPI giảm khoảng,64 điểm %. Như vậy, có thể thấy sức ép khiến lạm phát gia tăng chủ yếu do tăng giá dịch vụ công (y tế, giáo dục), giá thép và giá xăng dầu. Nếu loại trừ tăng giá dịch vụ công, CPI tháng 1 tăng 1,1% so với cùng kỳ và tăng,72% so với đầu năm; Lạm phát cơ bản tiếp tục duy trì ở mức thấp, tăng 1,32% so với cùng kỳ (cùng kỳ 216 tăng 1,86%). 3. Tình hình cân đối ngân sách nhà nước Đóng góp làm tăng lạm phát, điểm %,so với cùng kỳ Tốc độ tăng thu NSNN đạt mức cao nhất trong 3 năm gần đây nên bội chi NSNN được giữ ở mức thấp. Lũy kế đến 15/1/217, tổng thu NSNN tăng 17,5% so cùng kỳ (cùng kỳ 216 tăng 3,8% và cùng kỳ 215 tăng 5,6%), trong khi tổng chi NSNN chỉ tăng 3,8% so cùng kỳ. Nhờ tốc độ tăng thu cao nên bội chi NSNN được giữ ở mức thấp, chỉ bằng 53,1% dự toán, tương đương 1,89% GDP. Theo đánh giá của UBGSTCQG, với tiến độ thực hiện như hiện tại, các chỉ tiêu NSNN năm 217 về cơ bản sẽ được đảm bảo. Dự kiến năm 217, thu NSNN sẽ tăng 2,3% so dự toán chủ yếu do vượt thu của ngân sách địa phương, do đó, bội chi NSNN giảm khoảng 4 nghìn tỷ đồng so với dự toán, ở mức 174,3 nghìn tỷ đồng. Bên cạnh đó, tăng trưởng kinh tế năm 217 dự kiến đạt kế hoạch (6,7%) sẽ đảm bảo chỉ tiêu bội chi NSNN so GDP. Bội chi NSNN năm 217 ước đạt 3,5% so với GDP, thấp hơn so cùng kỳ 2 năm trước (năm 215: 4,26%; năm 216: 3,64%), đảm bảo mục tiêu theo Nghị quyết của Quốc hội. Thu ngân sách đến tháng15/1/217 (%) Chi ngân sách đến tháng 15/1/217 (%) 71.4 68.6 91.8 82.7 2.5 2 1.5 1.5 -.5-1 69.1 217 216 5.6 77.7 17.5 15. 14.1 33. 3.8 17.3 8.2 Tổng thu NSNN Thu nội Thu từ địa dầu thô % tăng giảm cùng kỳ 216 % thực hiện dự toán Thu từ XNK Tổng chi NSNN Chi Đầu tư Chi Thường xuyên % tăng giảm cùng kỳ 216 % thực hiện dự toán Nguồn: BTC, UBGSTCQG tổng hợp 6
T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T1 T11 T12 III. THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 1. Hệ thống các TCTD Về tín dụng cho nền kinh tế: - Tín dụng 1 tháng đầu năm tăng trưởng tích cực. Tính đến hết tháng 1/217, tín dụng (bao gồm trái phiếu doanh nghiệp) ước tăng khoảng 13,5% sovới cuối năm 216. - Tỷ trọng tín dụng trung dài hạn giảm trong khi tỷ trọng tín dụng ngắn hạn tăng. Tín dụng trung và dài hạn ước chiếm 53,7% tổng tín dụng (cuối năm 216 chiếm 55,1%). Tín dụng ngắn hạn ước chiếm 46,3% tổng tín dụng (cuối năm 216 là 44,9%); Tăng trưởng tín dụng 1 tháng đầu năm 216 217 Nguồn: NHNN - Tín dụng bằng ngoại tệ tăng cao hơn cùng kỳ năm 216 chủ yếu do nhu cầu nhập khẩu tăng cao so với cùng kỳ năm 216. Tín dụng bằng ngoại tệ tính đến cuối tháng 1 ước tăng 11,5% so với cuối năm 216 (cùng kỳ năm 216 tăng 4,4%). - Cơ cấu tín dụng theo ngành nghề kinh tế có chuyển biến tích cực. Tỷ trọng tín dụng vào lĩnh vực nông nghiệp chiếm khoảng 9,9% (1 tháng năm 216 là 8,3%). Tỷ trọng tín dụng vào hoạt động kinh doanh bất động sản và xây dựng giảm xuống còn 15,5% (năm 216 là 17,1%). - Tín dụng tiêu dùng tiếp tục đà tăng mạnh kể từ đầu năm 217 phù hợp với những xu hướng gia tăng cầu tiêu dùng của nền kinh tế. Tổng dư nợ cho vay tiêu dùng tăng khoảng 58,6% so với cuối năm 216. Huy động vốn Huy động vốn 1 tháng đầu năm 217 tuy giảm so với cùng năm trước nhưng vẫn đạt mức tăng trưởng khá, ước tăng 12% so với cuối năm 216 (cùng kỳ năm trước tăng 14,7%). Trong đó, tiền gửi khách hàng ước tăng 11,5% so với cuối năm 216; phát hành GTCG ước tăng 24,4%. Huy động ngoại tệ tăng 3,7%, chiếm khoảng 1,1% tổng huy động. Huy động vốn bằng VND ước tăng 13%, chiếm 89,9% tổng huy động. Về thanh khoản hệ thống ngân hàng Thanh khoản của hệ thống ngân hàng ổn định, biểu hiện là lãi suất liên ngân hàng đã liên tục giảm (bình quân giảm khoảng,2 điểm% so với tháng trước) và tiếp tục được duy trì ở mức thấp (lãi suất O/N ở mức,9%/năm, lãi suất 1 tuần là,9%/năm, lãi suất 1 tháng là 1,5%/năm). Thanh khoản hệ thống ổn định do NHNN mua được lượng lớn ngoại tệ, và cung ứng tiền ròng khoảng 13 nghìn tỷ đồng từ đầu năm đến nay. Tỷ lệ tín dụng/huy động (LDR) bình quân của hệ thống giảm nhẹ so với tháng trước, đạt khoảng 86,75% (giảm khoảng,21 điểm % so với tháng 9/217). 7 2% 15% 1% 5% % 216 217 19%
Về lãi suất Lãi suất huy động ổn định so với tháng trước. Tính đến tháng 1, lãi suất huy động bình quân kỳ hạn 1 tháng ở mức 4,7%, 6 tháng ở mức 5,7%, 12 tháng ở mức 6,8%, 12-36 tháng ở mức 7,1%. Lãi suất cho vay giảm nhẹ so với đầu năm. Hiện tại, lãi suất cho vay 5 lĩnh vực ưu tiên ở mức 6,5%, cá biệt có NHTM ở mức 6%. Với lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường, lãi suất phổ biển ở mức 9,3-11% kỳ hạn từ 6 tháng trở lên. 2. Thị trường ngại hối Tỷ giá VND/USD tại các NHTM và trên thị trường tự do ổn định so với tháng trước và tiếp tục xu hướng giảm so với đầu năm trong khi tỷ giá trung tâm tiếp tục được điều chỉnh tăng. Tính đến ngày 2/1/217, tỷ giá trung tâm ở mức 22.465 VND/USD, tăng 1,39% so với đầu năm. Trong khi đó, tỷ giá NHTM giảm,19%, tỷ giá thị trường tự do giảm 1,49% so với đầu năm. Nguồn: HSC 8 Tỷ giá USD/VND Thị trường ngoại hối vẫn đang được hỗ trợ từ các yếu tố: (i) Áp lực từ phía cầu ngoại tệ được giảm thiểu khi cán cân thương mại trở lại xuất siêu. Tính chung 1 tháng năm 217 xuất siêu 1,23 tỷ USD; (ii) Chênh lệch giữa lãi suất huy động VND và USD vẫn nghiêng về việc nắm giữ VND (chênh lệch khoảng 6,8%/năm); (iii) Dự trữ ngoại hối tăng lên mức kỷ lục 45 tỷ USD, tạo dư địa khá tốt trong việc ổn định tỷ giá. 3. Thị trường chứng khoán Thị trường cổ phiếu Chỉ số VNIndex vượt mốc 8 điểm, tăng hơn 2% so với đầu năm, xếp thứ 9 về mức tăng trưởng trong các chỉ số chứng khoán trên thế giới từ đầu năm 217.Giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu cuối tháng 1/217 tăng lên xấp xỉ 61% GDP. Nguyên nhân chủ yếu do các yếu tố hỗ trợ là các cải cách của Chính phủ được triển khai và thực hiện quyết liệt đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hồi phục, nhiều doanh nghiệp lớn niêm yết cổ phiếu và mặt bằng giá cổ phiếu hấp dẫn đối với nhà đầu tư. Thị trường trái phiếu Huy động vốn Trái phiếu Chính phủ (TPCP) trong tháng 1/217 chuyển biến tích cực. 1/217, Kho bạc Nhà nước (KBNN) huy động được 6.91 tỷ đồng TPCP tăng 41% so với tháng 9/217. Tỷ lệ giá trị trúng thầu so với giá trị gọi thầu đạt 61% (tháng 8: 24,4%, tháng 9: 47,5%). Nhu cầu đối với TPCP kỳ hạn ngắn (5 năm, 7 năm) có xu hướng tăng, trong khi nhu cầu đối với các kỳ hạn dài trên 1 năm giảm mạnh. Lũy kế đến hết tháng 1, KBNN đã hoàn thành 85% kế hoạch phát hành năm 217 (183.3 tỷ đồng), do đó KBNN không chịu áp lực tăng lãi suất huy động vốn TPCP. 23,3 23,1 22,9 22,7 22,5 Tỷ giá trần (3%, SBV) Tỷ giá NHTM Tỷ giá không chính thức
Dòng vốn nước ngoài Tổng giá trị thị trường danh mục nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài ước đạt 27,8 tỷ USD, tăng xấp xỉ 36% so với cuối năm 216. Tỷ lệ sở hữu nước ngoài trên thị trường cổ phiếu ước đạt 19,3% và trên thị trường trái phiếu ước đạt 5,3%. Giá trị mua ròng của khối ngoại trên thị trường chứng khoán có xu hướng giảm trong ngắn hạn do ảnh hưởng của việc FED dự kiến tăng lãi suất trong tháng 12/217 và một số quỹ đầu tư ngoại tiến hành tái cơ cấu danh mục đầu tư. Từ đầu tháng 1, giá trị mua ròng của khối ngoại ước đạt 23 triệu USD (tháng 8: mua ròng 115 triệu USD, tháng 9: mua ròng 33 triệu USD). Lũy kế 1 tháng đầu năm 217, khối ngoại mua ròng 1 tỷ 426 triệu USD (811 triệu USD trái phiếu, 615 triệu USD cổ phiếu). Theo UBGSTCQG, mua ròng của khối ngoại sẽ tăng trở lại từ quý 1/218 sau ảnh hưởng của việc FED tăng lãi suất vào cuối năm 217 và bắt đầu chu kỳ đầu tư mới. ỦY BAN GIÁM SÁT TÀI CHÍNH QUỐC GIA 9