ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN PHẠM HỮU VIỆT Bản đồ các thổ ngữ tiếng Nghi Lộc tỉnh Nghệ An LUẬN VĂN THẠC SĨ LÝ LUẬN NGÔN NGỮ Người hướng dẫn: GS.TS. Đoàn Thiện Thuật HÀ NỘI - 2004
MỤC LỤC Mở đầu 1 Chương 1 A. 1. 2. 3. B. 1. 2. 3. 4. Chương 2: A. B. I. 1. 2. II. 1. 2. 2.1. 2.2. 2.3. 2.3.1. 2.3.2. 2.3.3. Ngôn ngữ học địa lý và việc điều tra các thổ ngữ Nghi Lộc Ngôn ngữ học địa lý Định nghĩa Khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của Ngôn ngữ học địa lý Những nguyên tắc chính và phương pháp xây dựng Atlas trong Ngôn ngữ học địa lý Điều tra các thổ ngữ Nghi Lộc Nguồn tư liệu và đối tượng nghiên cứu Địa điểm điều tra Phương pháp điều tra Kết quả điều tra thổ ngữ Nghi Lộc Tiếng Nghi Lộc và các thổ ngữ đang tồn tại Lịch sử địa lý và cư dân Nghi Lộc Tiếng nói Nghi Lộc Giọng Nghi Lộc và các thổ ngữ Nghi Lộc Khái niệm giọng Nghi Lộc Các thổ ngữ Nghi Lộc Tiếng Nghi Ân Dẫn nhập Miêu tả Thanh điệu Âm đầu Phần vần Âm đệm Âm chính Âm cuối Trang 8 8 8 8 14 25 25 26 29 31 34 34 38 38 38 38 40 40 42 42 47 53 53 54 56 Chương 3: Tập bản đồ 58 Kết luận 84 Tài liệu tham khảo 87 Phụ lục 94
MỞ ĐẦU 1. Trong thời đại phát triển mạnh về kinh tế, bùng nổ công nghệ thông tin như hiện nay; bên cạnh hoạt động viết, hoạt động nói ngày càng trở nên quan trọng hơn. Đối với tiếng Việt của chúng ta cũng không nằm ngoài quy luật ấy; hoạt động nói cũng đang ngày càng trở nên quan trọng hơn, mà trong hoạt động nói không thể không chú ý đến cách phát âm của người Việt. Có thể nói một cách tổng thể rằng, cho tới thời điểm này, hoạt động viết trong tiếng Việt hầu như được thống nhất trên phạm vi toàn quốc; nhưng trong hoạt động phát âm thì vô cùng phức tạp. Ở mỗi địa phương, người dân phát âm theo cách riêng của mình. Đó là thứ tiếng nói mẹ để nơi mỗi người được sinh ra và gắn bó với nó cho tới khi không tồn tại trên cõi đời này. Thứ tiếng nói ấy, lâu nay, các nhà Ngôn ngữ học thường gọi chung là giọng địa phương (Hoàng Cao Cương [17]), hay tiếng địa phương (Hoàng Thị Châu [11]). Cũng giống như các ngôn ngữ khác trên thế giới, tiếng Việt có nhiều phương ngữ khác nhau. Các phương ngữ tiếng Việt vừa có cái chung thống nhất, vừa có cái riêng bộ phận khác biệt về các mặt ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp. Cái chung thống nhất về các mặt ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp đảm bảo cho người Việt Nam trên khắp mọi miền đất nước có thể nói, nghe và hiểu nhau một cách dễ dàng. Nhưng cái riêng bộ phận lại tạo nên diện mạo riêng của mỗi địa phương. Chúng ta vẫn thường nghe thấy người Việt phân biệt một cách dân dã rằng: giọng Nam, giọng Bắc hay tiếng Nghệ,. 2. Các nhà phương ngữ học tiếng Việt, tuy chưa thống nhất tuyệt đối nhưng ý kiến phần đông của các nhà nghiên cứu đều cho rằng tiếng Việt có 3 vùng phương ngữ lớn. Đó là phương ngữ Bắc (Bắc Bộ), phương ngữ Trung (Bắc Trung Bộ) và phương ngữ Nam (Nam Trung Bộ, Nam Bộ). Trong mỗi vùng phương ngữ lớn lại bao gồm nhiều vùng phương ngữ nhỏ. Chẳng hạn như phương ngữ Trung bao gồm 3 tiểu vùng phương ngữ: phương ngữ Thanh Hoá, phương ngữ Nghệ Tĩnh và phương ngữ Bình Trị Thiên. Cả 3 vùng phương ngữ lớn này cho tới nay đã được khảo sát nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau.
Có thể phân chia các hướng nghiên cứu phương ngữ tiếng Việt theo các bình diện dưới đây: a. Nghiên cứu phương ngữ liên quan đến lịch sử tiếng Việt, đến việc phân chia và xếp tiếng Việt vào họ (ngữ hệ) nào, các tác giả tiêu biểu như: Maspero [55], Haudricourt A.G [39], Phạm Đức Dương [26], Trần Trí Dõi [22], b. Nghiên cứu liên quan đến bình diện ngữ âm của một số vùng lãnh thổ như, các tác giả tiêu biểu như: Cao Xuân Hạo [38], M. Ferlus [30], võ Xuân Trang [79], Huỳnh Công Tín [76], c. Nghiên cứu liên quan đến bình diện từ vừng có các tác giả tiêu biểu như: Nguyễn Quang Hồng [43], Hồng Dân [18], Nguyễn Quý Trọng [80], Trần Thị Ngọc Lan [49] - [50], Hoàng Trọng Canh [7],. Đặc biệt từ vựng địa phương cũng được miêu tả qua các từ điển của Nguyễn Văn Ái và các cộng sự [3], Nguyễn Nhã Bản và các cộng sự [4], d. Nghiên cứu phương ngữ gắn liền với yêu cầu chuẩn hoá vào đời sống xã hội có các nhà nghiên cứu như: Phạm Văn Hảo [34], Nguyễn Quang Hồng [42] - [43], Vũ Bá Hùng [47], Võ Xuân Trang [78], 3. Ở cấp độ tiểu vùng, phương ngữ Nghệ Tĩnh đã được nghiên cứu từ rất sớm- từ đầu thế kỷ XX- trong các công trình của L. Cadìere (1902-1911) Phương ngữ Bắc Trung Bộ, H. Maspero (1912). Trong công trình Nghiên cứu lịch sử ngữ âm tiếng Việt, các phụ âm đầu, H. Maspéro đã dẫn tư liệu các thổ ngữ Ca Xá, Nho Lâm (Diễn Châu), Yên Dũng (Hưng Nguyên) thuộc tỉnh Nghệ An. Sau đó nhiều tư liệu trong các thổ ngữ Nghệ Tĩnh được dùng làm cứ liệu cho việc nghiên cứu lịch sử tiếng Việt và phương ngữ tiếng Việt. Đáng chú ý là các công trình của các tác giả như M. B. Emeneau [90], L.C Thompson [98], M. Ferlus [91], Hoàng Thị Châu [11], Nguyễn Tài Cẩn [9],, và phương ngữ Nghệ Tĩnh cũng là đối tượng nghiên cứu của một số từ điển tiếng địa phương của các tác giả Nguyễn Văn Ái [3], Nguyễn Nhã Bản [4], một số luận án tiến sĩ của các tác giả Hoàng Trọng Canh [7], Nguyễn Văn Nguyên [63],
Thổ ngữ Nghi Lộc có đặc điểm và tính chất rất đặc biệt trong phương ngữ Nghệ Tĩnh cũng như trong cả khu vực Bắc Trung Bộ. Tính chất đặc biệt của giọng Nghi Lộc đã được phản ánh qua nhiều giai thoại dân gian cũng như bác học. Giọng Nghi Lộc đã thu hút được nhiều sự quan tâm, nghiên cứu của các nhà Việt ngữ học như: Bùi Văn Nguyên [59], Hoàng Thị Châu [11], Võ Xuân Quế [64], Trần Trí Dõi [24],. Giọng Nghi Lộc cùng là đối tượng nghiên cứu của một số luận văn tốt nghiệp Đại học của sinh viên các trường Đại học KHXH & NV, Đại học Sư phạm Vinh như: Lê Thuý Diện [19], Lê Thị Thanh Nga [56], Các nghiên cứu về phương ngữ Nghệ Tĩnh nói chung và thổ ngữ Nghi Lộc nói riêng thì tương đối nhiều và cũng đem lại nhiều đóng góp cho Ngôn ngữ học. Những kết quả đó có thể được hệ thống lại như sau: đó là những cứ liêu về lịch sử tiếng Việt, những đường đồng ngữ ở những mức độ khác nhau xét trong hệ thống phương ngữ tiếng Việt, những cái nhìn chung nhất về một thổ ngữ trong vùng, hệ thống thanh điệu hay từ vụng của vùng thổ ngữ hay phương ngữ được xét đến. Tuy nhiên do xuất phát điểm phương pháp nghiên cứu khác nhau, vì những mục đích khác nhau nên thổ ngữ Nghi Lộc nói riêng, phương ngữ Nghệ Tĩnh nói chung vẫn còn những vấn đề bỏ ngỏ. Chúng ta đều biết rằng tiếng Nghi Lộc rất đặc biệt, sự khác biệt ở đây chủ yếu là về mặt ngữ âm; nhưng sự khác biệt ấy thể hiện ở vị trí cụ thể nào? trên địa điểm nào?. Trong các cuốn từ điển địa phương Nghệ Tĩnh hiện có, các tác giả thu thập được không ít các từ giống nhau về nghĩa nhưng lại khác nhau hoàn toàn về vỏ ngữ âm, lại có cả những từ là những từ biến âm từ từ phổ thông; liệu trong địa bàn thổ ngữ Nghi Lộc có phải tất cả các xã đều người dân đều dùng chung một biến thể theo những quy luật nhất định? trên từng địa điểm ra sao? Những câu hỏi như vậy hiện vẫn chưa có lời giải đáp. Nói một cách khác đi, cho tới nay trong Việt ngữ học chúng ta mới chỉ dừng ở cách tiếp cận nghiên cứu phương ngữ (dialectology) để nghiên cứu phương ngữ, chưa áp dụng cách tiếp cận nghiên cứu của Ngôn ngữ học địa lý (dialect geography) đối với các phương ngữ. Kết quả là đến thời điểm này chúng ta vẫn chưa có một Atlas tiếng Việt.
4. Trước thực trạng như vậy, nhiều vấn đề đặt ra khiến chúng ta cần phải suy nghĩ và cần phải giải quyết ngay. Các nghiên cứu xưa nay đều thừa nhận rằng Bắc Trung Bộ nói chung, Nghi Lộc nói riêng là nơi lưu giữ nhiều vết tích nhất về tiếng Việt cổ đại. Không ít những từ cổ được tìm thấy ở vùng này, nhưng trong thời đại phương tiện thông tin truyền thông phát triển như vũ bão hiện nay, khoảng cách giữa các vùng các miền bị phá vỡ; thế hệ trẻ đến lớp đến trường được giảng dạy bằng tiếng phổ thông; kết quả là đường ranh giới giữa các phương ngữ dần dần được xoá bỏ. Một tương lai không xa chúng có nguy cơ mất hẳn. Chúng tôi mạnh dạn thực hiện luận án Bản đồ các thổ ngữ tiếng Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An với một hy vọng nhỏ là bước đầu thử xây dựng một Atlas thổ ngữ Nghi Lộc. Ngay từ tên của đề tài đã nêu lên đối tượng nghiên cứu: đó là các thổ ngữ Nghi Lộc; tuy nhiên không phải chúng tôi xây dựng Atlas của tất cả các từ trong tiếng Nghi Lộc, mà chúng tôi chỉ đặt ra cho mình nhiệm vụ là thể hiện những từ đơn tiết khác nhau biểu đạt cùng một khái niệm (tức là chỉ biểu diễn trên bản đồ những từ khác nhau về mặt từ vựng diễn ra ít nhất là trên 2 địa điểm điều tra). Chúng tôi muốn thể nghiệm một phương pháp nghiên cứu nghiên cứu mới và hy vọng sẽ đặt ra được một số vấn đề bằng cách trình bày dữ liệu trên bản đồ. Các nhà Ngôn ngữ học căn cứ vào đây có thể giải thích và tìm ra nguyên nhân của những sự khác biệt, bàn luận thêm về tiếng Nghi Lộc và các thổ ngữ Nghi Lộc trong phạm vi có thể. Tư liệu của chúng tôi là khoảng gần 600 từ đơn tiết được chúng tôi sưu tập và chắt lọc trong các cuốn từ điển tiếng địa phương Nghệ Tĩnh của Nguyễn Văn Ái và tập thể các cộng sự [3], Nguyễn Nhã Bản và các cộng sự khác [4],, các luận án tiến sĩ của Hoàng Trọng Canh [7],, luận văn tốt nghiệp Đại học của Lê Thuý Diện [19],. Về phương pháp nghiên cứu; chúng tôi dùng phương pháp của Ngôn ngữ học địa lý. Bước 1 là thu thập tư liệu. Chúng tôi phải điều tra điền dã, vừa ghi âm trên băng từ, vừa ghi bằng bút với ký hiệu phiên âm quốc tế. Để đảm bảo việc lấy thông tin sao cho khách quan chúng tôi tiến hành phỏng vấn thông qua
những câu hỏi tình huống, vẽ các đối tượng quy chiếu, tiến hành một số cuộc ghi âm tại những nơi đông người như chợ, đám đông hai bên đường, Bước 2 là phân tích tư liệu và thể hiện trên bản đồ. Cụ thể về cách thức tiến hành, áp dụng cách tiếp cận địa lý phương ngữ, xây dựng Atlas như thế nào chúng tôi sẽ trình bày cụ thể trong chương I. 5.Việc thành lập tập bản đồ thổ ngữ và phương ngữ Nghi Lộc nói riêng, của toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam là một công việc lớn, cần sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu với một quy mô rộng và công việc này cũng đòi hỏi nhiều thời gian. Mặc dù chúng tôi đã cố gắng rất nhiều trong việc thực hiện luận án này, nhưng do nhiều hạn chế như điều kiện sức khoẻ, thời gian, chúng tôi không thể thực hiện luận án này một cách tuyệt đối như mong muốn; nhẽ ra phải đi điều tra tất cả các xã trong địa bàn huyện Nghi Lộc hay chí ít cũng phải nhiều hơn 9 điểm điều tra mà chúng tôi đã thực hiện. Chúng tôi tạm thời dừng việc điều tra ở con số 9 nhằm mục đích thử nghiệm một phương pháp nghiên cứu, hướng nghiên cứu mới tức là Ngôn ngữ học địa lý. Công trình của chúng tôi có tính chất mở đường thăm dò để rút kinh nghiệm cho những công trình lớn tiếp theo. Về mặt thực tiễn, luận án này hy vọng cung cấp được những tư liệu quý cho việc nghiên cứu lịch sử tiếng Việt, cho việc chuẩn hoá ngôn ngữ và việc dạy học tiếng Việt. 6. Bố cục của luận án: ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án có 3 chương: Lộc. - Chương I: Ngôn ngữ học địa lý và việc điều tra các thổ ngữ Nghi - Chương II: Tiếng Nghi Lộc và các thổ ngữ đang tồn tại (Trong chương này chúng tôi trình bày một số nhận xét về tiếng Nghi Lộc và miêu tả một thổ ngữ Nghi Lộc điển hình tiếng Nghi Ân). - Chương III: Tập bản đồ (Trong chương này chúng tôi trình bày 1 bản đồ về các xã điều tra, 21 atlas thổ ngữ Nghi Lộc mà chúng tôi xây dựng, và đôi điều liên quan đến các bản đồ này).
Ngoài ra luận văn của chúng tôi còn có: Danh sách các tài liệu tham khảo và phần Phụ lục (Phần này gồm những thư mục sau: (i) Danh sách tư liệu viên, (ii) Bản đồ tham khảo (gồm 16 atlas ngôn ngữ tiếng Anh khác nhau do các nhà Ngôn ngữ học người Anh xây dựng được chúng tôi lựa chọn từ tài liệu Studies in linguistics geography [93], (iii) Bảng từ điều tra, và (iv) Bảng kết quả điều tra (là những biến thể khác nhau tại 9 xã điều tra được chúng tôi ghi lại bằng ký hiệu phiên âm quốc tế)).
TÀI LIỆU THAM KHẢO BẰNG TIẾNG VIỆT TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Duy Anh (?), Đất nước Việt Nam qua các đời 2. Babie V.T (1920), Ngữ âm học An Nam (dịch giả Phạm Mạnh Phan, bản chép tay), thư viện Nghệ An, ký hiệu NA.316. 3.Nguyễn Văn Ái (chủ biên) (1994), Từ điển phương ngữ Nam Bộ, Nxb T.p Hồ Chí Minh. 4. Nguyễn Nhã Bản (Chủ biên), 1999, Từ điển tiếng địa phương Nghệ Tĩnh, Nxb Văn hoá Thông tin Hà Nội. 5. Vũ Kim Bảng (1986), Nhận xét về trường độ thanh điệu qua phương ngữ Hà Nội và phương ngữ Nam Bộ (Cứ liệu thực nghiệm), Những vấn đề ngôn ngữ học về các phương ngữ phương Đông, Hà Nội 6. Hoàng Trọng Canh (1995), Một vài nhận xét bước đầu về âm và nghĩa trong các từ địa phương tiếng Nghệ Tĩnh, Ngôn ngữ (1), trang 31 46. 7. Hoàng Trọng Canh (2001), Nghiên cứu đặc điểm lớp từ địa phương Nghệ Tĩnh, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường ĐH KHXH & NV, Hà Nội. 8. Nguyễn Tài Cẩn (1979), Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nxb KHXH, Hà Nội. 9. Nguyễn Tài Cẩn (1995), Lịch sử ngữ âm tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 10. Đỗ Hữu Châu (1081), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 11. Hoàng Thị Châu (1989), Tiếng Việt trên các miền đất nước, Nxb KHXH, Hà Nội. 12. Hoàng Thị Châu (1985), Năm mươi năm hoà nhập phương ngữ, thổ ngữ vào ngôn ngữ toàn dân, Ngôn ngữ, (3), trang 8 11. 13. Nguyễn Đổng Chi, Ninh Viết Giao (1963), Hát dặm Nghệ Tĩnh, Nxb KHXH, Hà Nội. 14. Nguyễn Đổng Chi, Ninh Viết Giao (1984), Ca dao Nghệ Tĩnh, Sở Văn hoá Thông tin Nghệ An xuất bản.
15. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (1992), Cơ sỏ Ngôn ngữ học và tiếng Việt, Nxb ĐH và THCN, Hà Nội. 16. Hoàng Cao Cương (1986), Suy nghĩ thêm về thanh điệu tiếng Việt, Ngôn ngữ (3), trang 19 38. 17. Hoàng Cao Cương (1989), Thanh điệu Việt qua giọng địa phương trên cứ liệu Fo, Ngôn ngữ (4), trang 1-17. 18. Hồng Dân (1981), Từ ngữ phương ngôn với vấn đề chuẩn hoá từ vựng tiếng Việt, Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ, tập 2, Nxb KHXH, trang 304-312. 19. Lê Thuý Diện (2000), Tìm hiểu sự tương ứng từ vựng, ngữ âm tiếng Nghệ và tiếng phổ thông (qua từ điển tiếng Nghệ), Khoá luận tốt nghiệp, Khoa Ngôn ngữ học, trường ĐH KHXH & NV, Hà Nội. 20. Trần Trí Dõi (1991), Về quá trình hình thành thanh của một vài thổ ngữ, ngôn ngữ Việt Mường, Ngôn ngữ (1), trang 67-72. 21. Trần Trí Dõi (1991), Về các âm đầu tiền thanh hầu hoá trong Proto Việt Mường, Ngôn ngữ (2), trang 9-31 & 39. 22. Trần Trí Dõi (2001), Một vài đặc điểm xã hội của lịch sử tiếng Việt, Ngôn ngữ và sự phát triển văn hoá xã hội, Nxb VHTT, Hà Nội, trang 198 209. 23. Trần Trí Dõi (2001), Một vài nhận xét về lịch sử nghiên cứu phương ngữ tiếng Việt, Ngôn ngữ và sự phát triển văn hoá xã hội, Nxb VHTT, Hà Nội, trang 212-225. 24. Trần Trí Dõi (2001), Thanh điệu tiếng Việt ở Cửa Lò, Ngôn ngữ và sự phát triển văn hoá xã hội, Nxb VHTT, Hà Nội, trang 233-241. 25. Cao Xuân Dục, Cao Đức Xứng, Trần Xán (1965), Đại Nam thống nhất chí, quyển 13-14, Tỉnh Nghệ An Hà Tĩnh (dịch giả Đông Kinh Đặng, Chu Kình), Nxb Văn hoá, Bộ giáo dục Sài Gòn, Sài Gòn. 26. Phạm Đức Dương (1983), Nguồn gốc tiếng Việt: từ tiền Việt Mường đến Việt Mường chung, Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam á, UB KHXH Việt Nam, Viện Đông Nam á, Hà Nội, trang 76 133.
27. Phạm Đức Dương (1998), Những đặc trưng âm học và sự cảm thụ hệ thống thanh điệu tiếng Lào hiện đại, Ngôn ngữ và văn hoá Lào trong bối cảnh Đông Nam á, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, trang 95 121. 28. Phạm Đức Dương (1998), Thanh phổ các nguyên âm tiếng Lào hiện đại, Ngôn ngữ và văn hoá Lào trong bối cảnh Đông Nam á, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, trang 122-174. 29. Nguyễn Xuân Đức (1997), Tiếng Nghệ trong ngôn ngữ văn hoá dân tộc, Văn hoá dân gian, (3), trang 49 52. 30. Michel Ferlus (1997), Những sự không hài hoà thanh điệu trong tiếng Việt Mường và những mối liên hệ lịch sử của chúng (dịch giả Vương Lộc), Ngôn ngữ (3), trang 78-85. 31. Gordina. M.V (1972), Bàn thêm về vấn đề âm vị trong tiếng Việt (bản dịch tiếng Việt), Những vấn đề Ngôn ngữ học, ĐHTH Hà Nội, trang 14-21. 32. Nguyễn Thiện Giáp (1985), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb ĐH và THCN, Hà Nội. 33. Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Minh Thuyết, Đoàn Thiện Thuật (1999), Dẫn luận Ngôn ngữ học, Nxb Giáo Dục, Hà Nội. 34. Phạm Văn Hảo (1985), Về một số đặc trưng của tiếng Thanh Hoá, thổ ngữ chuyển tiếp của phương ngữ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, Ngôn ngữ (4), trang 54 56. 35. Cao Xuân Hạo (1998), Số phận các vần có nguyên âm hẹp qua các phương ngữ lớn của Việt Nam, Tiếng Việt mấy vấn đề ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp, Nxb Giáo dục, Hà Nội, trang 116 119. 36. Cao Xuân Hạo (1957-1997), Hai cách miêu tả hệ thống thanh điệu tiếng Việt, Tiếng Việt mấy vấn đề ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp, Nxb Giáo dục, Hà Nội, trang 79-87. 37. Cao Xuân Hạo (1985), Về cương vị Ngôn ngữ học của tiếng, Ngôn ngữ (2), trang 25-53. 38. Cao Xuân Hạo (1985), Nhận xét về nguyên âm của một phương ngữ tỉnh Quảng Nam, Ngôn ngữ (2), trang 22-29.
39. Haudricourt. A. G (1991), Về vị trí của tiếng Việt trong các ngôn ngữ Nam á (dịch giả Hoàng Tuệ), Ngôn ngữ, (2), trang 19 22. 40. Haudricourt. A. G (1991), Về nguồn gốc các thanh điệu tiếng Việt (dịch giả Hoàng Tuệ), Ngôn ngữ, (1), trang 23-31. 41. Bùi Đăng Hy (?), Địa dư tỉnh Nghệ An, Bản đánh máy, Thư viện tỉnh Nghệ An, ký hiệu NA. 467. 42. Nguyễn Quang Hồng (1980), Vấn đề chuẩn hoá phát âm tiếng Việt hiện thời, Ngôn ngữ, (4), trang 51-58. 43. Nguyễn Quang Hồng (1981), Các lớp từ địa phương và chức năng của chúng trong ngôn ngữ văn hoá, Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ, tập 2, Nxb KHXH, Hà Nội, trang 313-320. 44. Nguyễn Quang Hồng (1994), Âm tiết và loại hình ngôn ngữ, Nxb KHXH, Hà Nội. 45. Vũ Bá Hùng (1976), Vấn đề âm tiết tiếng Việt, Ngôn ngữ, (3), trang 37-45. 46. Vũ Bá Hùng (1978), Thanh điệu - âm vị tuyến điệu của tiếng Việt, Ngôn ngữ, (1), trang 13-23. 47. Vũ Bá Hùng (1994), Chuẩn mực ngữ âm và việc dạy tiếng Việt trong nhà trường, Ngôn ngữ, (1), trang 6-18. 48. Kasevich V.B (1998), Những yếu tố cơ sở của Ngôn ngữ học đại cương (Nhóm dịch giả: Mai Ngọc Chừ, Trần Trí Dõi, Nguyễn Hữu Đạt, Lê Đông, Đào Thanh Lan, Vũ Đức Nghiệu và Trần Ngọc Thêm), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 49. Trần Thị Ngọc Lang (1993), Những sự khác biệt về từ vựng - ngữ nghĩa giữa phương ngữ Nam Bộ và phương ngữ Bắc Bộ, Luận án Phó tiến sĩ Ngữ văn. T.p Hồ Chí Minh. 50. Trần Thị Ngọc Lan (1995), Phương ngữ Nam Bộ, Nxb KHXH, Hà Nội. 51. Trần Danh Lâm (?), Nghệ An phong thổ ký (địa dư, địa chí Nghệ An Hà Tĩnh) (dịch giả Bùi Tế Mỹ), Bản chép tay Thư viện Nghệ An, ký hiệu NA. 324. 52. Bùi Dương Lịch (1995), Nghệ An ký, Nxb KHXH, Hà Nội.
53. Nguyễn Văn Lợi (2002), Thanh điệu một vài thổ ngữ Nghệ An: từ góc nhìn đồng đại và lịch đại (dựa trên kết quả phân tích thực nghiệm bằng computer), Ngôn ngữ (1), trang 1-16. 54. J. Lyons (1996), Nhập môn Ngôn ngữ học lý thuyết (dịch giả Vương Hữu Lễ), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 55. Vương Lộc (1997), Maspero và công trình nghiên cứu lịch sử ngữ âm tiếng Việt các âm đầu, Ngôn ngữ, (3), trang 34-39. 56. Lê Thị Thanh Nga (2003), Miêu tả đặc trưng ngữ âm hệ thống thanh điệu Nghi Lộc, Khoá luận tốt nghiệp, Khoa ngữ văn, ĐHSP Vinh, Vinh. 57. Phan Ngọc (1983), Tiếp xúc ngôn ngữ và tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam á, Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam á, UB KHXH Việt Nam, Viện Đông Nam á, Hà Nội, trang 7-75. 58. Phan Ngọc (1986), Một số từ cùng gốc với từ Khơ me, Những vấn đề Ngôn ngữ học và các ngôn ngữ phương Đông, Hà Nội, trang 301-310. 59. Bùi Văn Nguyên (1977), Thử tìm hiểu giọng nói Nghệ Tĩnh trong hệ thống giọng nói chung của cả nước, Ngôn ngữ (4), trang 34-41. 60. Nguyễn Hoài Nguyên (1982), Hiện tượng chuyển đổi âm đỉnh ươ (ưa) sang a trong tiếng địa phương Nghệ Tĩnh, Tiểu luận cao học ngữ học, ĐHSP Vinh, Vinh. 61. Nguyễn Hoài Nguyên (2001), Đặc trưng ngữ âm phần vần phương ngữ Nghệ Tĩnh, Những vấn đề lý thuyết lịch sử văn học và ngôn ngữ, Nxb Giáo dục, Hà Nội, trang 232-242. 62. Nguyễn Hoài Nguyên (2001), Thanh ngã trong phương ngữ Nghệ Tĩnh, Ngữ học trẻ 2001, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội, trang 109-113. 63. Nguyễn Văn Nguyên (2003), Miêu tả đặc trưng ngữ âm phương ngữ Nghệ Tĩnh, luận án Tiến sĩ ngữ văn, ĐHSP Vinh, Vinh. 64. Võ Xuân Quế (1993), Những đặc điểm ngữ âm giọng Nghi Lộc, Luận án phó tiến sĩ ngữ văn, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội. 65. Hữu Quỳnh, Vương Lộc (1980), Khái quát về lịch sử tiếng Việt và ngữ âm tiếng Việt hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
66. Nguyễn Hữu Quỳnh (1994), Tiếng Việt hiện đại (ngữ âm ngữ pháp phong cách), Trung tâm biên soạn từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội. 67. Rozdextvenxki I. И (1997), Những bài giảng Ngôn ngữ học đại cương (dịch giả Đỗ Việt Hùng), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 68. Nguyễn Ngọc San (1996), Giáo trình lich sử ngữ âm tiếng Việt (sơ thảo) một bước tiến trên con đường nghiên cứu lịch sử ngữ âm tiếng Việt, (ngôn ngữ), (3), trang 58-61. 69. Đinh Chí Sáng (2000), Nhận xét về các nguyên âm trong tiếng địa phương Nghệ Tĩnh, Ngữ học trẻ 2000, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội, trang 92-94. 70. F. de. Saussure (1973), Giáo trình Ngôn ngữ học đại cương, (Tổ Ngôn ngữ học trường ĐHTH Hà Nội dịch), Nxb KHXH, Hà Nội. 71. Trần Thanh Tâm, Ninh Viết Giao (1975), Nghệ Tĩnh trong lòng tổ quốc Việt Nam, Ty giáo dục Nghệ An xuất bản. 72. Đinh Lê Thư (1984), Những biến thể về phương thức cấu tạo phụ âm đầu trong các tiếng địa phương miền bắc Việt Nam, Ngôn ngữ (1), trang 9-15. 73. Đinh Lê Thư, Nguyễn Văn Huệ (1998), Cơ cấu ngữ âm tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 74. Đoàn Thiện Thuật (1997), Ngữ âm tiếng Việt, Nxb ĐH & THCN, Hà Nội. 75. Huỳnh Công Tín (1996), Tiếng Việt và vấn đề phân vùng phương ngữ, Ngữ học trẻ 1996, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội, trang 30-33. 76. Huỳnh Công Tín (1999), Hệ thống ngữ âm của tiếng Sài Gòn (so với phương ngữ Hà Nội và một số vùng phương ngữ khác ở Việt Nam), Luận án Tiến sĩ ngữ văn, T.p Hồ Chí Minh. 77. Vương Toàn (1986), Địa lý Ngôn ngữ học, Ngôn ngữ học, khuynh hướng, lĩnh vực, khái niệm, tập 2, Nxb KHXH, trang 24-31. 78. Võ Xuân Trang (1981), Tiếng địa phương với vấn đề chuẩn hoá tiếng Việt về mặt từ ngữ, Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ, tập 2, Nxb KHXH, Hà Nội, trang 359-363. 79. Võ Xuân Trang (1997), Phương ngữ Bình Trị Thiên, Nxb KHXH Hà Nội.
80. Nguyễn Quý Trọng (1981), Dùng từ ngữ địa phương trong quan hệ với từ vựng toàn dân, Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ, tập 2, Nxb KHXH, Hà Nội, trang 321-324. 81. Trubezkoy N.S (1960), Nguyên lý âm vị học (Bản dịch tiếng Việt), (?), Hà Nội. 82. Hoàng Tụê, Lê Cận, Cù Đình Tú (1962), Giáo trình về Việt ngữ, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 83. Cù Đình Tú, Hoàng Văn Thung, Nguyễn Nguyên Trứ (1972), Giáo trình tiếng Việt hiện đại (mở đầu ngữ âm học), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 84. Đinh Xuân Vịnh (?), Sổ tay địa danh Việt Nam, 85. Trần Quốc Vượng (1998), Một cái nhìn về địa văn hoá xứ Nghệ trong bối cảnh miền Trung, Việt Nam cái nhìn địa văn hoá, Nxb VHDT, Hà Nội, trang 281-289. 86. UBND huyện, Đảng bộ huyên Nghi Lộc (?), Lịch sử Đảng bộ huyện Nghi Lộc, Nxb Nghệ An. 87. Nguyễn Như Ý (chủ biên), Hà Quang Năng, Đỗ Việt Hùng & Đặng Ngọc Lễ (2001), Từ điển giải thích thuật ngữ Ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà Nội TÀI LIỆU THAM KHẢO BẰNG TIẾNG NƯỚC NGOÀI 88. Allen, H.B (1973-1976), The linguistics Atlas of the upper Midwest, University of Minnesota Press, Minneapolis. 89. Alvar López, M (1961), Atlas linguistico y etngráfico de Andulucia, Universidad de Granada, Granada. 90. Emeneau, M.B (1951), Studies in Vietnamese (Annamese) Grammar, University of California press, Berkeley ang Los Angeles. 91. Ferlus, M (1991), Le dialecte Vietnamien de Vinh, 24 th Internaltional Conference on info, Tibetan Languages an Linguistics Bangkok. 92. Francis, W.N Review of H. Orton and N.Wright (1978), A word geography of England in American speech.
93. John M.Kirt, Stewart Sanderson and J.D.A Widdowson (1985), Studies in linguistics geography The Dialects of English in Britain and Ireland, Croom Helm. 94. Kolfb, E (1966), Phonological Atlas of the Northern region, Frank, Bern. 95. Kolfb, E, B. Glauser, W. Elmer, R. Stamm (1979), Atlas of English sound, Frank, Bern. 96. Kurath, H (1939-1943), Linguistics Atlas of new England, Brown University press, Providence. 97. Orton, H and S. Sanderson and Widdowson (1978), The linguistics atlas of England, Croom Helm, London. 98. Thompson, L.C (1965), A Vietnamese Grammar, University of Washington press, Seattle. 99. Trask, R.L (1996), Historical linguistics, University of Sussex, Arnold press, London. 100. Trudgill, P (1974), Linguistics change and diffusion: Description and explanation in sociolinguistics dialect geography, Language in society, vol 3.*****************************