ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TRẦN THÚY HIỀN CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG Ở TRUNG TRUNG BỘ TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ ( ) Chuyên ngành: Lịch sử V

Kích thước: px
Bắt đầu hiển thị từ trang:

Download "ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TRẦN THÚY HIỀN CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG Ở TRUNG TRUNG BỘ TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ ( ) Chuyên ngành: Lịch sử V"

Bản ghi

1 ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TRẦN THÚY HIỀN CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG Ở TRUNG TRUNG BỘ TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ ( ) Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Trần Ngọc Long 2. PGS.TS Trương Công Huỳnh Kỳ HUẾ - NĂM

2 DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT An toàn khu: Ban Chấp hành Trung ương: Bộ Tư lệnh: Hà Nội: Hội đồng nhân dân: Lực lượng vũ trang: Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam: Mặt trận Dân tộc giải phóng: Nhà xuất bản: Phủ Thủ tướng: Trung tâm lưu trữ: Thành phố: Ủy ban nhân dân cách mạng: Việt Nam Cộng hòa: ATK BCHTƯ BTL HN HĐND LLVT MTDTGPMN MTDTGP Nxb PTT TTLT Tp UBNDCM VNCH 1

3 MỤC LỤC Trang phụ bìa...i Lời cam đoan...ii Lời cảm ơn... iii Mục lục...2 DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT... 0 MỞ ĐẦU LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU NGUỒN TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN...12 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Tình hình nghiên cứu Nhóm các công trình nghiên cứu về căn cứ địa cách mạng nói chung Nhóm các công trình nghiên cứu về căn cứ địa cách mạng ở miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ Nhóm các công trình trực tiếp phản ánh hoạt động xây dựng và bảo vệ căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ Những vấn đề luận án kế thừa từ các công trình nghiên cứu đã xuất bản Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu CHƯƠNG 2: KHÔI PHỤC VÀ BẢO VỆ CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG Ở TRUNG TRUNG BỘ ( ) Những yếu tố tác động đến quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ

4 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội Truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Trung Trung Bộ Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong quá trình vận động Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp Quá trình phục hồi căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung bộ ( ) Âm mưu và thủ đoạn xóa bỏ căn cứ địa cách mạng của địch Chủ trương của ta Quá trình phục hồi căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước Cuộc đấu tranh bảo vệ căn cứ địa cách mạng * Tiểu kết chương CHƯƠNG 3: KẾT HỢP XÂY DỰNG VỚI BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY VAI TRÒ CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG Ở TRUNG TRUNG BỘ ( ) Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong giai đoạn chống chiến lược Chiến tranh đặc biệt ( ) Tiếp tục củng cố các căn cứ địa miền núi, phát triển căn cứ địa ở vùng đồng bằng Đẩy mạnh cuộc chiến đấu bảo vệ căn cứ địa Chủ động xây dựng kết hợp với bảo vệ căn cứ địa cách mạng, góp phần đánh thắng chiến lược Chiến tranh cục bộ ( ) Phát triển thực lực căn cứ địa cách mạng đáp ứng yêu cầu chống chiến lược Chiến tranh cục bộ Tổ chức chiến đấu, đánh thắng các cuộc hành quân càn quét của địch vào căn cứ Phát huy vai trò hậu phương tại chỗ của căn cứ địa cách mạng Khôi phục căn cứ địa cách mạng, tạo thế và lực mới góp phần kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến ( )

5 Củng cố căn cứ địa cách mạng sau Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 ( ) Đẩy mạnh phát triển thực lực căn cứ địa cách mạng ( ) * Tiểu kết chương CHƯƠNG 4: ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM Một số đặc điểm của căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ phong phú về loại hình, đa dạng về quy mô và hình thức tổ chức Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ thường xuyên có sự biến động Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ có khả năng đảm bảo sản xuất tự túc, tự cấp Hệ thống căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ dễ bị chia cắt, cô lập khi địch tập trung lực lượng đánh phá mạnh Vai trò của căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ Nơi đứng chân và hoạt động của các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy kháng chiến của Khu V và các tỉnh trên địa bàn Là hậu phương tại chỗ, trực tiếp bảo đảm cung cấp sức người, sức của cho các lực lượng kháng chiến; nơi nhân dân gửi gắm niềm tin vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Là bàn đạp xuất phát tiến công của các LLVT tổ chức các chiến dịch, trận đánh tiêu hao sinh lực địch và phát triển chiến tranh du kích Là nơi tiếp nhận sự chi viện bằng đường bộ, đường biển cho chiến trường Khu V, góp phần hình thành thế bao vây chia cắt, trực tiếp uy hiếp lực lượng của địch ở Trung Trung Bộ Một số bài học kinh nghiệm Xây dựng căn cứ địa cách mạng phải chú trọng đặc điểm địa chính trị, địa quân sự, địa kinh tế, địa văn hoá của địa phương

6 Phát huy vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân trong quá trình xây dựng và bảo vệ căn cứ địa cách mạng Tăng cường xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng Xây dựng căn cứ địa cách mạng vững mạnh toàn diện, kết hợp xây dựng với bảo vệ, bảo vệ để xây dựng Kết hợp đồng thời việc xây dựng căn cứ địa cách mạng ở miền núi với xây dựng căn cứ du kích ở vùng địch tạm chiếm, các cơ sở, lõm chính trị trong nội đô * Tiểu kết chương KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐÃ CÔNG BỐ TÀI LIỆU THAM KHẢO NHÂN CHỨNG LỊCH SỬ

7 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong các cuộc khởi nghĩa, chiến tranh hay vận động cách mạng, vấn đề căn cứ địa hậu phương trở thành vấn đề mang tính quy luật, đồng thời là nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của cuộc chiến tranh, khởi nghĩa hay các cuộc cách mạng. Tiến trình lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc Việt Nam đã khẳng định điều này. Kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc, trên cơ sở quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin về khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng vào nước ta, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam hết sức chú trọng vấn đề xây dựng căn cứ địa, đây là một trong những nhân tố tạo nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi một phần là nhờ có Căn cứ địa Bắc Sơn Vũ Nhai, Căn cứ địa Cao Bằng, Khu giải phóng Việt Bắc và hàng chục chiến khu trong cả nước. Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng chọn và xây dựng Căn cứ địa Việt Bắc trở thành trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. Nhiều vùng tự do, căn cứ địa hậu phương đã được xây dựng trên khắp cả nước: Thanh Nghệ Tĩnh, Nam Ngãi Bình Phú, Đồng Tháp Mười, U Minh, Chiến khu Đ Đây là một nhân tố hết sức quan trọng đưa đến thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mỹ ( ). Từ năm 1954 đến 1975, để chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ một nước đế quốc mạnh nhất thế giới từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, Đảng ta đã tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất Tổ quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng to lớn này, ngoài việc xây dựng miền Bắc thành hậu phương vững mạnh, thành căn cứ địa cách mạng của cả nước, Đảng ta còn chủ trương xây dựng và phát triển hệ thống căn cứ địa trên các địa bàn chiến lược ở miền Nam như Trị Thiên, Tây Nguyên, Trung Trung Bộ, Nam Trung 6

8 Bộ, Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ Do tác động của mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng đặt ra, cũng như các điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội ở khu vực, vùng miền mà ở miền Nam thời chống Mỹ có nhiều loại hình căn cứ địa với các quy mô khác nhau. Mặt khác, các căn cứ địa cách mạng ở miền Nam thời chống Mỹ có những điểm giống nhau nhưng cũng có nhiều nét riêng do điều kiện lịch sử địa phương quy định. Song, tất cả các căn cứ địa đã góp phần tạo ra tiềm lực to lớn để quân và dân miền Nam đánh thắng các chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Với vai trò và vị trí to lớn trên đây, vấn đề căn cứ địa trở thành một phận hữu cơ của cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam thời chống Mỹ. Đây là một đối tượng lịch sử cần được nghiên cứu để làm sáng tỏ vai trò và vị trí của một phương thức chiến tranh cách mạng, góp phần làm sáng tỏ đầy đủ về lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại do dân tộc ta tiến hành. Vấn đề căn cứ địa thời chống Mỹ không chỉ cần và phải được khôi phục, đánh giá một cách khách quan với những biểu hiện của nó, mà còn phải làm rõ những điểm nổi bật có tính vùng miền của các căn cứ địa trên các địa bàn chiến lược ở miền Nam. Để góp phần thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu trên, vấn đề nghiên cứu căn cứ địa cách mạng ở khu vực Trung Trung Bộ (bao gồm các tỉnh, thành phố: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên) cũng đặt ra hết sức cần thiết. Đây là địa bàn chiến lược hết sức quan trọng ở Khu V; là cửa ngõ từ Biển Đông vào miền Trung và Tây Nguyên; là bàn đạp để tỏa đi các hướng chiến lược và các chiến trường khác, đồng thời cũng là điểm đầu tiếp nhận sự chi viện từ miền Bắc vào bằng đường bộ và đường biển. Vì vậy, Trung Trung Bộ là địa bàn giao tranh ác liệt giữa ta và địch. Tại đây, nhiều căn cứ địa cách mạng đã được xây dựng như: Khu Sông Đà (Đà Nẵng), Nước Oa, Nước Là, Sơn Cẩm Hà, Tiên Sơn (Quảng Nam), Trà Bồng, Sơn Tây (Quảng Ngãi), Núi Bà, Hòn Chè (Bình Định), Thồ Lồ, Vân Hòa (Phú Yên) Các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ đã hoàn thành tốt chức năng và nhiệm vụ của mình, góp phần to lớn vào thắng lợi của 7

9 cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước tại địa bàn cũng như trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ nói chung của cả dân tộc. Lịch sử hình thành, phát triển cùng những đóng góp của các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ lâu đã thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu. Tuy nhiên, cho đến nay, vì nhiều lý do khác nhau, vấn đề căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ mới chỉ được đề cập một cách khái lược trong các công trình nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Khu V cũng như trong các công trình tổng kết lịch sử truyền thống địa phương. Do vậy, việc nghiên cứu vấn đề Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ ( ) sẽ mang lại nhiều ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Về ý nghĩa khoa học, luận án làm rõ quá trình hình thành, phát triển, vai trò, vị trí, đặc điểm của căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Qua đó, bổ sung một số tư liệu làm rõ vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với vấn đề căn cứ địa; sự linh hoạt, sáng tạo trong hoạt động tổ chức, xây dựng căn cứ địa cách mạng ở các vùng miền. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần làm sáng tỏ đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng và chiến lược xây dựng căn cứ địa đã được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Trung Trung Bộ. Kết quả nghiên cứu của luận án còn góp phần bổ sung kiến thức nghiên cứu về lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung, đặc biệt là đối với Trung Trung Bộ nói riêng. Về ý nghĩa thực tiễn, từ những cứ liệu nghiên cứu để bước đầu rút ra những bài học kinh nghiệm là một yêu cầu cần thiết nhằm phục vụ việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng thế trận an ninh quốc phòng trên địa bàn hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận án cũng sẽ góp phần vào việc giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng cho các tầng lớp nhân dân, là cơ sở để trùng tu và bảo tồn các di tích căn cứ địa kháng chiến thời chống Mỹ. Đây còn là nguồn tài liệu quý báu để nghiên cứu và dạy học về lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở các bậc học. 8

10 Từ những ý nghĩa khoa học và thực tiễn trên đây, chúng tôi chọn vấn đề Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ ( ) làm đề tài nghiên cứu cho luận án Tiến sĩ Lịch sử chuyên ngành Lịch sử Việt Nam. 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu: Quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò của căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Phạm vi nghiên cứu: Về thời gian: Từ năm 1954 đến năm Tuy nhiên, để việc trình bày nội dung chính được logic, luận án có đề cập khái quát các căn cứ địa cách mạng trước năm Về không gian: Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, địa bàn Trung Trung Bộ bao gồm các địa phương: Quảng Nam Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, từ tháng , chính quyền Việt Nam Cộng hòa chia Quảng Nam Đà Nẵng thành hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín. Tỉnh Quảng Nam gồm 9 quận: Điện Bàn, Duy Xuyên, Đại Lộc, Đức Dục, Hiếu Đức, Hiếu Nhơn, Hòa Vang, Quế Sơn, Thượng Đức và thị xã Đà Nẵng. Tỉnh Quảng Tín gồm 6 quận: Hậu Đức, Hiệp Đức, Lý Tín, Tam Kỳ, Tiên Phước và Thăng Bình. Về phía chính quyền cách mạng, từ cuối năm 1962 đến năm 1967, tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng được tách lại thành 2 tỉnh Quảng Nam và Quảng Đà. Tỉnh Quảng Nam (chính quyền Việt Nam Cộng hòa gọi là tỉnh Quảng Tín) gồm các huyện Quế Sơn, Thăng Bình, Tam Kỳ, Tiên Phước, Phước Sơn, Trà My. Tỉnh Quảng Đà (địch gọi là tỉnh Quảng Nam) gồm các huyện Hòa Vang, Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên, Đông Giang, Tây Giang, Nam Giang, thị xã Hội An và thành phố Đà Nẵng. Từ năm 1964 đến tháng , thực hiện sự chỉ đạo của Khu ủy V, thành phố Đà Nẵng tách ra khỏi tỉnh Quảng Đà, gồm 3 quận: quận Nhất, quận Nhì và quận Ba. Tháng , trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, tỉnh Quảng Đà và thành phố Đà Nẵng hợp nhất thành Đặc khu Quảng Đà. So với các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, mặc dù Quảng Nam Đà Nẵng là địa bàn trải qua nhiều lần tách, nhập, song về cơ bản địa giới hành chính của địa 9

11 phương này không thay đổi. Do vậy, từ đây đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Trung Trung Bộ bao gồm: Quảng Nam, Quảng Đà, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Như vậy, về cơ bản địa bàn Trung Trung Bộ không có sự thay đổi, chủ yếu vẫn bao gồm các tỉnh, thành phố: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Về nội dung: Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận về căn cứ địa cách mạng trong chiến tranh giải phóng; những yếu tố tác động đến quá trình phục hồi, xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò căn cứ địa (điều kiện địa lý tự nhiên, dân cư, tình hình kinh tế xã hội, truyền thống lịch sử; tình hình xây dựng căn cứ địa trước khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ); những âm mưu, thủ đoạn đánh phá căn cứ của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa; chủ trương của Đảng về xây dựng căn cứ địa trong mỗi giai đoạn cách mạng; hoạt động xây dựng căn cứ về các mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa xã hội; các cuộc chiến đấu bảo vệ căn cứ; đặc điểm, vai trò và một số bài học đúc rút từ quá trình xây dựng và bảo vệ căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ( ). 3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU Mục đích: Nghiên cứu, phục dựng một cách căn bản và tương đối đầy đủ về hệ thống căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ nhằm phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy, giáo dục truyền thống và bổ sung tư liệu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân trên địa bàn. Bên cạnh đó, luận án góp phần cung cấp những luận cứ cho việc xây dựng thế trận an ninh quốc phòng ở địa bàn Trung Trung Bộ trong tình hình mới. Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích nêu trên, luận án tập trung giải quyết một số nhiệm vụ chủ yếu sau: - Luận giải và làm rõ những yếu tố tác động đến quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ. 10

12 - Phân tích những âm mưu, thủ đoạn của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa trong việc xóa bỏ căn cứ địa; chủ trương, biện pháp xây dựng và bảo vệ căn cứ địa cách mạng của Trung ương Đảng và đảng bộ các địa phương; hoạt động của quân và dân các tỉnh Trung Trung Bộ trong quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò của căn cứ địa, hậu phương tại chỗ. - Luận giải và làm rõ những đặc điểm của căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ đặt trong mối quan hệ đối sánh với căn cứ địa ở một số vùng miền; đúc rút những bài học kinh nghiệm về xây dựng, bảo vệ căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ. 4. NGUỒN TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nguồn tư liệu bao gồm: - Các văn kiện: Hệ thống các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước và Quân đội nhân dân Việt Nam về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. - Tác phẩm của các vị lãnh tụ và lãnh đạo: Tác phẩm của Hồ Chí Minh, lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quân đội về cách mạng giải phóng dân tộc, về cuộc kháng chiến chống Mỹ, về căn cứ địa cách mạng trong chiến tranh giải phóng dân tộc. - Tài liệu lưu trữ: Các tài liệu liên quan đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hiện được lưu trữ ở Bộ Tư lệnh Quân khu V; Trung tâm lưu trữ Quốc gia II, thành phố Hồ Chí Minh; Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam; Viện Lịch sử Đảng; Ban Tuyên giáo các tỉnh, thành phố: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. - Các công trình nghiên cứu đã công bố: Các công trình nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Viện Mác Lênin, Viện Lịch sử Đảng; Các chuyên khảo, bài viết, báo cáo khoa học đã được công bố trên các tạp chí chuyên ngành trong những năm gần đây; Các công trình Lịch sử Đảng bộ, Lịch sử kháng chiến và Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân địa phương các tỉnh, thành phố, quận (huyện) trên địa bàn; Các luận án, luận văn về đề tài căn cứ địa cách mạng đã được bảo vệ và xuất bản. - Tài liệu khảo sát thực tế: Tài liệu khảo sát thực địa tại các di tích căn cứ địa cách mạng trên địa bàn nghiên cứu. 11

13 - Các hồi ký cách mạng: Hồi ký và lời kể của các cán bộ lão thành cách mạng, nhân chứng lịch sử sống và hoạt động ở địa bàn Trung Trung Bộ. Phương pháp nghiên cứu: Kết hợp sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic là chủ yếu. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu còn sử dụng một số phương pháp: so sánh, thống kê, phân tích, tổng hợp, khái quát trên cơ sở khảo cứu các nguồn tư liệu văn bản, thực địa và tiếp xúc nhân chứng lịch sử. Riêng đối với nguồn tư liệu khai thác từ các nhân chứng lịch sử, tác giả tiến hành đối chiếu, so sánh với các tư liệu văn bản để chọn lọc, khai thác những thông tin có giá trị tin cậy. 5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN - Luận án phục dựng một cách tổng thể về hệ thống căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. - Thông qua những phân tích, luận giải có tính khoa học, luận án khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo trong quá trình vận dụng quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng căn cứ địa, hậu phương vào thực tiễn cách mạng ở Trung Trung Bộ. - Đánh giá một cách tương đối khách quan về vai trò của căn cứ địa đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Trung Trung Bộ. - Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy lịch sử kháng chiến chống Mỹ, lịch sử địa phương và giáo dục truyền thống ở Trung Trung Bộ. 6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN Ngoài Mở đầu (7 trang), Kết luận (4 trang), Danh mục các công trình khoa học liên quan đã công bố (1 trang), Tài liệu tham khảo (15 trang), Phụ lục (34 trang), nội dung chính của luận án được chia làm 4 chương. Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu (19 trang) Chương 2: Khôi phục và bảo vệ căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ ( ) (48 trang) Chương 3: Kết hợp xây dựng với bảo vệ và phát huy vai trò căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ ( ) (44 trang) Chương 4: Đặc điểm, vai trò và bài học kinh nghiệm (34 trang) 12

14 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu Liên quan đến nội dung luận án đã có một số công trình trong nước phản ánh, đề cập với nhiều cấp độ và từ nhiều cách tiếp cận khác nhau. Trong đó, tựu trung lại có thể khu trú vào các nhóm như sau: Nhóm các công trình nghiên cứu về căn cứ địa cách mạng nói chung Vấn đề căn cứ địa được đề cập trước hết phải kể đến là công trình Chiến thuật du kích của Hồ Chí Minh (Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2011) và Chọn căn cứ địa của Trường Chinh (Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, Tập 1, Nxb Sự Thật, HN, 1976). Các công trình này xác định căn cứ địa là nơi có địa thế hiểm yếu, vừa có lợi cho việc tiến công, vừa có lợi cho việc phòng ngự của lực lượng du kích. Việc xây dựng căn cứ địa gắn liền với xây dựng lực lượng vũ trang (LLVT). Một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định trong việc lựa chọn địa bàn xây dựng căn cứ địa là phải có sự ủng hộ, giúp đỡ của đông đảo quần chúng nhân dân. Vấn đề căn cứ địa còn được đề cập khá cụ thể ở một số công trình, trong đó có thể kể đến là Bài giảng về đường lối quân sự của Đảng của Võ Nguyên Giáp (Viện Khoa học Quân sự, HN, 1974). Ở công trình này, tác giả đã khái quát những đặc trưng cơ bản của căn cứ địa cách mạng trong chiến tranh giải phóng; phân tích và luận giải về vai trò của căn cứ địa cách mạng. Trong đó, nhấn mạnh sự cần thiết phải giải quyết vấn đề xây dựng địa bàn đứng chân và tiềm lực kháng chiến, nếu không có đường lối đúng đắn để thực hiện vấn đề này thì không thể tiến hành chiến tranh cách mạng lâu dài nhằm đi đến thắng lợi. Tác giả khẳng định chỗ đứng chân của cách mạng để tiến hành khởi nghĩa và chiến tranh là cơ sở chính trị, căn cứ địa, hậu phương. Đây là vấn đề quan trọng trong đường lối quân sự của Đảng. Bên cạnh đó, tác giả cũng vạch ra quy luật hình thành và phát triển của cơ sở chính trị, căn cứ 13

15 địa, hậu phương trong chiến tranh nhân dân ở nước ta là phải triệt để dựa vào nhân dân, đi từ xây dựng cơ sở chính trị của quần chúng đến xây dựng căn cứ địa, hậu phương từ không đến có, từ nhỏ đến lớn, từ chưa hoàn chỉnh đến ngày càng hoàn chỉnh. Bài giảng xác định trong chiến tranh nhân dân rộng lớn, địa bàn nông thôn là chỗ dựa vững chắc và lâu dài của cách mạng. Do vậy, việc xây dựng căn cứ địa, hậu phương vững mạnh ở nông thôn rừng núi và đồng bằng là yêu cầu có tính chất chiến lược của chiến tranh nhân dân [103, tr. 231]. Ngoài ra, cũng phải hết sức coi trọng việc xây dựng cơ sở chính trị ở thành thị. Có xây dựng được căn cứ địa, hậu phương tại chỗ ở khắp nơi, cách mạng mới có thể xây dựng, phát huy được tiềm lực của từng địa phương, từng chiến trường để đánh địch một cách rộng khắp, tạo thành thế cài răng lược giữa ta và địch. Do đó, có thể uy hiếp và tiến công địch một cách thường xuyên. Tập Bài giảng đường lối quân sự của Đảng thể hiện sự chỉ đạo hết sức sâu sắc của Võ Nguyên Giáp đối với vấn đề xây dựng căn cứ địa hậu phương trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong công trình Nghiên cứu văn kiện của Đảng về chống Mỹ, cứu nước của Viện Mác Lênin và Viện Lịch sử Quân sự Bộ Quốc phòng, (Nxb Sự Thật, HN, 1986) có bài Vấn đề hậu phương căn cứ địa và tuyến hậu cần chiến lược trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Ngô Vi Thiện. Bài viết phân tích chủ trương của Đảng trong việc lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng hậu phương lớn miền Bắc, xây dựng căn cứ địa ở chiến trường miền Nam và tuyến hậu cần vận tải chiến lược trong kháng chiến chống Mỹ. Căn cứ địa cách mạng: truyền thống và hiện tại của Văn Tạo đăng trên Tạp chí Lịch sử quân sự số , phân tích nội dung và bản chất của căn cứ địa cách mạng. Trong đó, tác giả luận giải điều kiện hình thành căn cứ địa, tính chất dân tộc và cách mạng của căn cứ địa thể hiện trên các mặt: địa chính trị, địa quân sự, địa kinh tế, địa văn hóa; đặc điểm, vai trò của căn cứ địa cách mạng trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Nhìn chung, những công trình trên đã khái quát những điều kiện hình thành cũng như việc lựa chọn địa bàn xây dựng căn cứ địa; đồng thời luận giải, phân tích 14

16 vai trò của căn cứ địa trong chiến tranh giải phóng. Những vấn đề mang tính lý luận này sẽ trở thành tư tưởng chỉ đạo và kim chỉ nam cho quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò căn cứ địa cách mạng. Vấn đề căn cứ địa cách mạng cũng được đề cập cụ thể hơn trong một số công trình lịch sử trong đó có thể kể đến như: Quân khu 5. Thắng lợi và những bài học trong kháng chiến chống Mỹ, Tập Hai, (Nxb Quân đội nhân dân, HN, 1982); Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thắng lợi và bài học (Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 1996); Chiến tranh cách mạng Việt Nam ( ). Thắng lợi và bài học (Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2000). Đây là những công trình tổng kết sự lãnh đạo của Đảng đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong đó tập trung vào một số nội dung cơ bản và cốt yếu: đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp cách mạng; những bài học kinh nghiệm được đúc kết trong quá trình tiến hành chiến tranh cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ở các công trình này, vấn đề căn cứ địa được luận giải, phân tích dưới góc độ là một vấn đề lớn trong đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước [11, tr. 237], vấn đề cốt tử trong chiến tranh cách mạng [61, tr. 161]. Vai trò của căn cứ địa trong quá trình kháng chiến được làm rõ: là nơi đứng chân của các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy kháng chiến, nơi xây dựng lực lượng cách mạng; là bàn đạp xuất phát của LLVT tiến công địch, nơi tiếp nhận mọi nguồn chi viện và khai thác tại chỗ ngày càng nhiều sức người sức của phục vụ cho nhu cầu chiến trường. Một trong những bài học cơ bản được các công trình luận giải khá sâu sắc là phải dựa vào nhân dân, phát huy sức mạnh nhân dân trong xây dựng và bảo vệ căn cứ vững mạnh. Đánh giá về vấn đề xây dựng hệ thống căn cứ địa và hậu phương trong hai cuộc kháng chiến, các công trình khẳng định đây là bước phát triển mới về lý luận chiến tranh nhân dân, chiến tranh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bộ Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ( ) gồm 9 tập của Bộ Quốc phòng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (Nxb Chính trị Quốc gia Sự Thật, HN, 2013) là công trình nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ở Tập IX của bộ sách này có đề cập khá sâu vấn đề căn cứ 15

17 địa cách mạng ở miền Nam với tư cách là nhân tố trực tiếp bảo đảm thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ [44, tr. 368]. Công trình khái quát những đóng góp của căn cứ địa cách mạng miền Nam: cung cấp sức người, sức của cho chiến trường; cơ sở để xây dựng, duy trì và phát triển lực lượng cách mạng; địa bàn đứng chân của bộ đội chủ lực; một trong những nhân tố cơ bản để xây dựng thế chiến lược của chiến tranh nhân dân; nơi tiếp nhận, bảo quản, phân phối vũ khí, phương tiện chiến tranh, hàng hóa từ miền Bắc chi viện cho miền Nam; một trong những nhân tố cơ bản để xây dựng và tăng cường tiềm lực, sức mạnh của cách mạng. Tuy nhiên, do đối tượng nghiên cứu và phạm vi phản ánh rộng, bao gồm các chiều cạnh của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nên vấn đề căn cứ địa cách mạng chỉ được đề cập, phản ánh một cách khái lược, chủ yếu tập trung vào đánh giá vai trò của căn cứ địa cách mạng, chưa có điều kiện tập trung khảo cứu quá trình phát triển cũng như đặc điểm của căn cứ địa cách mạng trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Dưới góc độ nghiên cứu sâu về hậu phương căn cứ địa trong chiến tranh cách mạng Việt Nam, cuốn Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam ( ) (Nxb Quân đội nhân dân, HN, 1997) là công trình nghiên cứu có tính chất hệ thống và toàn diện nhất về quá trình xây dựng và phát huy vai trò của hậu phương trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Công trình tập trung kiến giải về vai trò của các căn cứ địa cách mạng với tư cách là hậu phương tại chỗ ở miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ; đồng thời khẳng định hậu phương tại chỗ là một trong những nhân tố cơ bản để xây dựng và tăng cường tiềm lực, sức mạnh của cách mạng và phát triển chiến tranh nhân dân trên khắp ba vùng chiến lược. Thế và lực của cách mạng có thể chuyển hóa từ yếu sang mạnh dựa trên cơ sở của việc xây dựng hệ thống căn cứ địa hậu phương vững chắc. Công trình đặc biệt nhấn mạnh vai trò của nhân dân trong việc xây dựng căn cứ địa hậu phương vững mạnh: nói đến căn cứ địa hậu phương là nói đến vai trò của nhân dân, căn cứ địa hậu phương vững chắc trước hết và chủ yếu là ở lòng dân. Có dân là có tất cả [33, tr ]. 16

18 Trên Tạp chí Phát triển Nhân lực số 3(29)-2012 có bài viết Căn cứ địa, một biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong 30 năm chiến tranh giải phóng của Trần Đơn, đã luận giải về vấn đề căn cứ địa; đồng thời khái quát làm nổi bật vai trò của căn cứ địa trong chiến tranh cách mạng Việt Nam: đó là khu vực tập kết các cơ quan đầu não và lực lượng kháng chiến; nơi đứng chân và tổ chức chiến đấu, bảo vệ các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy; nơi củng cố và huấn luyện các LLVT cách mạng của toàn miền, khu và các địa phương; là đầu mối các hành lang chiến lược, là chỗ dựa tin cậy của các lực lượng kháng chiến, nơi bảo đảm một phần quan trọng tiềm lực của cuộc kháng chiến; là chỗ dựa, nơi bày thế trận tiêu diệt đối phương tại chỗ; đồng thời làm nơi xuất phát, bàn đạp cho các lực lượng kháng chiến tiến công địch ngoài căn cứ [102, tr ]. Tác giả bài viết khẳng định: Trong chiến tranh cách mạng Việt Nam, căn cứ địa đã tồn tại như một biểu tượng của cuộc kháng chiến, tiêu biểu cho ý chí, sức mạnh tinh thần của toàn dân; là chỗ dựa về mặt chính trị tinh thần, nơi hướng về, hy vọng và khích lệ đồng bào khắp nơi kháng chiến [102, tr. 39]. Tuy nhiên, do phạm vi bài đăng trên tạp chí bị giới hạn bởi dung lượng, nên còn nhiều nội dung về căn cứ địa cách mạng chưa được khảo cứu. Tóm lại, qua các công trình nêu trên, những vấn đề lý luận về căn cứ địa đã được làm sáng tỏ bao gồm: xây dựng căn cứ địa là vấn đề chiến lược, có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của chiến tranh nhân dân; địa bàn được lựa chọn để xây dựng căn cứ phải đảm bảo thế tiến công và phòng ngự của LLVT; quy luật xây dựng căn cứ là phải dựa vào nhân dân; vai trò của căn cứ địa đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ: địa bàn đứng chân của lực lượng kháng chiến, bàn đạp xuất phát tiến công địch của LLVT, hậu phương tại chỗ của chiến tranh nhân dân Những vấn đề mang tính lý luận trên đây sẽ là cơ sở cho việc hoạch định đường lối kháng chiến và thực tiễn chỉ đạo hoạt động xây dựng, bảo vệ, phát huy vai trò của căn cứ địa cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. 17

19 Nhóm các công trình nghiên cứu về căn cứ địa cách mạng ở miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ Chủ đề căn cứ địa cách mạng ở miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ nói chung cũng đã được khảo cứu trong một số công trình nghiên cứu, luận án Tiến sĩ lịch sử: Chiến khu ở miền Đông Nam Bộ ( ),(Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1996) của Hồ Sơn Đài là công trình nghiên cứu quá trình xây dựng, đặc điểm phát triển và luận giải vai trò quan trọng của các chiến khu đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên địa bàn miền Đông Nam Bộ. Căn cứ địa kháng chiến chống Mỹ ở miền Đông Nam Bộ ( ), luận án Tiến sĩ Lịch sử của Trần Thị Nhung, Viện Khoa học Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh, 2001 đã đi sâu khảo cứu khá công phu về tổ chức và hoạt động của các căn cứ địa ở miền Đông Nam Bộ trong kháng chiến chống Mỹ ( ). Căn cứ địa cách mạng ở Tây Ninh trong chiến tranh giải phóng ( ) của Bộ Tư lệnh (BTL) Quân Khu 7 Tỉnh ủy Tây Ninh (Nxb Quân đội nhân dân, HN, 2002) là tập hợp những bài viết của nhiều tác giả về quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò của căn cứ địa cách mạng ở Tây Ninh trong kháng chiến chống Mỹ. Căn cứ địa U Minh trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược ( ), luận án Tiến sĩ Lịch sử của Trần Ngọc Long, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, 2006 là công trình nghiên cứu về quá trình hình thành, phát triển và những đóng góp của Căn cứ địa U Minh trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược ( ). Căn cứ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Cực Nam Trung Bộ ( ), luận án Tiến sĩ lịch sử của Chu Đình Lộc, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, 2011 đi sâu nghiên cứu về quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò của các căn cứ kháng chiến ở Cực Nam Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ ( ). Kỷ yếu hội thảo khoa học Căn cứ địa cách mạng tỉnh Bình Thuận trong 30 năm chiến tranh giải phóng ( ) của Quân Khu 7 và Tỉnh ủy Bình Thuận, tháng là tập hợp các bài viết về quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy vai 18

20 trò của căn cứ địa cách mạng ở Bình Thuận trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Nhìn chung, đây là những công trình chuyên khảo về một số căn cứ địa cụ thể tiêu biểu ở miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bằng nhiều cách tiếp cận, phân tích và luận giải khác nhau, các công trình nêu trên đều tập trung làm rõ những nội dung thuộc về, hoặc liên quan đến căn cứ địa cách mạng như: bối cảnh ra đời; sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền đối với sự thành lập và hoạt động của các căn cứ địa cách mạng; cuộc đấu tranh bảo vệ và phát huy vai trò của căn cứ địa trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ; đặc điểm của các căn cứ địa; những bài học kinh nghiệm được rút ra và vận dụng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Qua việc nghiên cứu những công trình kể trên, tác giả có điều kiện kế thừa về mặt phương pháp luận trong nghiên cứu về căn cứ địa cách mạng. Hơn nữa, đây cũng là một hệ thống tư liệu quý để tác giả thực hiện việc so sánh, đối chiếu, trên cơ sở đó rút ra những đặc điểm riêng của địa phương Nhóm các công trình trực tiếp phản ánh hoạt động xây dựng và bảo vệ căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ Cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi (Nxb Quân đội nhân dân, 1975) là công trình phục dựng tương đối có hệ thống và toàn diện về cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và phong trào cách mạng ở miền Tây Quảng Ngãi trong những năm Liên quan đến vấn đề căn cứ địa, công trình phản ánh cuộc chiến đấu chống lại các hoạt động càn quét của địch, bảo vệ căn cứ địa cách mạng của quân dân Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi; đồng thời tái hiện khá rõ hoạt động xây dựng, củng cố Căn cứ địa Trà Bồng trên các mặt kinh tế, văn hóa, giáo dục. Khu 5 30 năm chiến tranh giải phóng (Tập II, Tập III) của Trần Quý Cát (BTL Quân Khu 5 xuất bản năm 1989) và Nam Trung Bộ kháng chiến ( ) của Hội đồng biên soạn lịch sử Nam Trung Bộ kháng chiến (Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 1995) là những công trình chủ yếu phục dựng một cách cơ bản cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên địa bàn các tỉnh thuộc Khu V và Nam Trung Bộ. Trong các công trình này, chủ trương của Đảng về xây dựng căn cứ địa cách mạng, 19

21 quá trình ra đời, hoạt động chiến đấu bảo vệ căn cứ địa cách mạng của quân dân các tỉnh, thành phố: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên được trình bày một cách khái lược, đan xen với diễn biến của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên địa bàn Khu V và Nam Trung Bộ. Những sự kiện lịch sử hậu cần chiến trường Khu V ( ) của Cục hậu cần Quân Khu 5 (Nxb Đà Nẵng, 1989) và Công tác Đảng, công tác chính trị LLVT Quân Khu V ( ) Biên niên, Tập 2, Quyển 1 ( ) của Đảng ủy BTL Quân Khu V (Nxb Quân đội nhân dân, HN, 2002) là các công trình chứa đựng những thông tin thuộc về hoặc liên quan đến vấn đề căn cứ địa được trình bày dưới hình thức biên niên lịch sử bao gồm: chủ trương về xây dựng căn cứ địa cách mạng của Liên Khu ủy V và Đảng bộ các địa phương; hoạt động xây dựng, đấu tranh bảo vệ căn cứ địa cách mạng của Khu V, của các địa phương ở Trung Trung Bộ; các hoạt động sản xuất lương thực, vũ khí, tiếp nhận, vận chuyển hàng chi viện của miền Bắc cho chiến trường Khu V. Trong công trình Một số kinh nghiệm chỉ đạo chiến tranh nhân dân địa phương ở Khu 5 trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước ( ) của BTL Quân Khu 5 Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (Nxb Quân đội nhân dân, HN, 1999), các tác giả khái quát về đặc điểm tình hình và những bước phát triển của chiến tranh nhân dân trên địa bàn Khu V. Qua đó, rút ra một số bài học kinh nghiệm về chỉ đạo chiến tranh nhân dân ở địa phương trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đánh giá quá trình xây dựng căn cứ địa cách mạng trên chiến trường Khu V, công trình nhận định đây là vấn đề chiến lược cơ bản trong chỉ đạo chiến tranh [51, tr. 125]. Bàn về vấn đề căn cứ địa, hậu phương trực tiếp trên chiến trường Khu V, các tác giả chỉ rõ: căn cứ địa là những vùng ta đã giải phóng và đã được xây dựng toàn diện cả về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội [51, tr. 140]; việc xây dựng căn cứ địa phải đáp ứng yêu cầu liên hoàn, nhiều huyện, nhiều tỉnh nhằm đảm bảo mọi nhu cầu xây dựng và chiến đấu cho các lực lượng bám trụ và chiến đấu. Dựa trên thực tiễn chiến đấu ở chiến trường Khu V, công trình đưa ra một số kiến giải về điều kiện để xây dựng căn cứ địa, đó là: có cơ sở chính trị vững chắc, có LLVT mạnh, có 20

22 địa hình thuận lợi để tiến công và phòng thủ, có khả năng tối thiểu về đảm bảo cơ sở vật chất, kỹ thuật. Đối với Khu V, địa bàn để xây dựng các căn cứ địa là Tây Nguyên và miền Tây các tỉnh ven biển Nam Ngãi Bình Phú. Có thể xem đây là công trình đã đề cập tương đối sâu về căn cứ địa cách mạng trên địa bàn Khu V. Chuyên đề Xây dựng và bảo vệ hệ thống căn cứ địa phương trên chiến trường Khu 5 trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ ( ) do Bộ Tổng Tham mưu biên soạn (Nxb Quân đội nhân dân, HN, 2001) có thể được coi là công trình tổng kết có tính chất chuyên khảo đi sâu phân tích quá trình hình thành, xây dựng và bảo vệ căn cứ địa cách mạng trên địa bàn Khu V; qua đó rút ra một số bài học kinh nghiệm: xây dựng hệ thống căn cứ liên hoàn cả ở rừng núi và đồng bằng đảm bảo cho yêu cầu phát triển của từng giai đoạn kháng chiến; từ những căn cứ địa nhỏ lẻ, phát triển thành hệ thống căn cứ địa liên hoàn, hình thành hậu phương tại chỗ; xây dựng đi đôi với bảo vệ căn cứ địa; căn cứ địa hậu phương tại chỗ phải đáp ứng yêu cầu chiến đấu và xây dựng của từng thời điểm chiến tranh. Đây là một chuyên đề tổng kết; vả lại do địa bàn phản ánh khá rộng (bao gồm cả Tây Nguyên) nên những nội dung được đề cập đều mang tính khái quát, sơ lược. Đặc biệt là quá trình hình thành, phát triển, vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng căn cứ địa ở các tỉnh, thành phố thuộc Trung Trung Bộ chưa được đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống. Công trình Vành đai diệt Mỹ trên chiến trường Khu 5 một sáng tạo của chiến tranh nhân dân Việt Nam của BTL Quân Khu 5 Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (Nxb Quân đội nhân dân, HN, 2002) cũng đề cập đến căn cứ địa cách mạng thông qua cách tiếp cận từ việc khảo cứu các căn cứ lõm 0F1 trong hoạt động của vành đai diệt Mỹ. Một số bài viết trong cuốn sách đã tập trung luận giải sự khác nhau giữa căn cứ lõm và căn cứ chiến đấu; đồng thời nêu bật vai trò của một số 1 Căn cứ lõm, căn cứ của lực lượng kháng chiến nằm sâu trong vùng địch tạm chiếm trong kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ; xuất hiện trong chiến tranh nhân dân Việt Nam để đấu tranh chống địch có hiệu quả. Căn cứ lõm thường có quy mô không lớn nhưng chiếm giữ vị trí xung yếu mà lực lượng kháng chiến dựa vào đó để xây dựng và phát triển lực lượng phục vụ cho đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang trong vùng địch hậu (Bộ Quốc phòng Trung tâm Từ điển Bách khoa Quân sự (2007), Từ điển thuật ngữ Quân sự, Nxb Quân đội nhân dân, HN, tr. 96) 21

23 căn cứ lõm tiêu biểu như: Đa Mặn Mỹ Thị, Thạc Gián ở Đà Nẵng trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Tuy nhiên, đây là một cuốn kỷ yếu Hội thảo; hơn nữa đối tượng nghiên cứu là Vành đai diệt Mỹ nên vấn đề căn cứ địa cũng chưa được phản ánh nhiều. Công trình Lịch sử Quân sự Việt Nam, Tập 11: Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ( ) của Bộ Quốc phòng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2005) cũng đề cập một cách khái lược đến sự hình thành của một số căn cứ địa cách mạng ở Hiên (Quảng Nam), Trà Bồng, Sơn Hà, Ba Tơ (Quảng Ngãi), Vĩnh Thạnh (Bình Định), Thồ Lồ, Ma Dú (Phú Yên), Bác Ái (Ninh Thuận), trong đó tập trung vào hoạt động đấu tranh chống địch dồn dân, bảo vệ căn cứ địa cách mạng của đồng bào Vĩnh Thạnh (2-1959), cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi (8-1959). Công trình Lịch sử Giao bưu Thông tin các tỉnh từ Quảng Trị đến Ninh Thuận và Tây Nguyên trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ ( ) do Bộ Bưu chính Viễn thông Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam biên soạn (Nxb Bưu Điện, 2005) cung cấp những thông tin về quá trình hình thành, xây dựng và phát triển của các tuyến hành lang, mạng lưới giao bưu, thông tin nội tỉnh, liên tỉnh phục vụ đưa đón cán bộ, liên lạc, chuyển tài liệu về căn cứ ở các tỉnh từ Quảng Trị đến Ninh Thuận và Tây Nguyên trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Công trình Lịch sử ngành hậu cần LLVT tỉnh Phú Yên ( ) do Đảng ủy Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Phú Yên xuất bản năm 2005 đã luận giải về quá trình hình thành các căn cứ địa cách mạng ở Phú Yên cũng như hoạt động tiếp nhận, cất giấu, vận chuyển vũ khí, thuốc men của Trung ương tại Vũng Rô theo tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển; công tác sản xuất tự cấp, tự túc, công tác quân y, vấn đề sản xuất vũ khí ở các căn cứ địa trên địa bàn Phú Yên trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Công trình Lịch sử An ninh Khu V thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ( ) của Bộ Công an Tổng cục Xây dựng lực lượng Công an nhân dân 22

24 Viện Lịch sử Công an, (Nxb Công an nhân dân, 2008) phản ánh sự chỉ đạo, lãnh đạo của Ban An ninh Khu V đối với hoạt động bảo vệ Đảng, bảo vệ vùng giải phóng và căn cứ địa cách mạng. Bên cạnh đó, một số cuộc chiến đấu chống địch càn quét, bảo vệ an toàn căn cứ địa cách mạng của khu, của các tỉnh thuộc Trung Trung Bộ cũng được trình bày tương đối cụ thể trong công trình này. Công trình Quá trình xây dựng và truyền thống của Ban Tổ chức Liên Khu ủy V ( ) (Ban liên lạc Ban tổ chức Liên Khu ủy V xuất bản năm 2008) đi sâu làm rõ một số nội dung liên quan đến hoạt động xây dựng căn cứ địa bao gồm: chuẩn hóa địa điểm đóng cơ quan của Liên khu V, Khu ủy V trong kháng chiến chống Mỹ; diễn biến cuộc chiến đấu bảo vệ Mật khu Đỗ Xá (4-1963); phong trào xây dựng làng chiến đấu; hoạt động sản xuất và huy động sự đóng góp của nhân dân đối với cuộc kháng chiến. Trong các công trình Lịch sử Đảng bộ cấp tỉnh: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Định ( ) (Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Định xuất bản năm 1996); Lịch sử Phú Yên kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ( ) (Ban Tuyên Giáo Tỉnh ủy Phú Yên ấn hành năm 1996); Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi ( ) (Nxb, Chính trị Quốc gia, HN, 1999); Lịch sử Đảng bộ Quảng Nam Đà Nẵng ( ) (Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2006), vấn đề căn cứ địa cách mạng được phản ánh ở nhiều khía cạnh: chủ trương của Đảng bộ địa phương về xây dựng căn cứ địa cách mạng; hoạt động chiến đấu của LLVT và nhân dân chống các cuộc hành quân càn quét của Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng hòa (VNCH), bảo vệ căn cứ địa; một số thành quả trong quá trình xây dựng căn cứ địa, vùng giải phóng trên các lĩnh vực quân sự, kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu khá rộng nên những nội dung liên quan đến vấn đề căn cứ địa cũng chỉ được trình bày một cách khái lược, không đầy đủ. Quá trình ra đời, quy mô, nhiệm vụ, vai trò của từng căn cứ địa chưa được làm rõ. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu chủ yếu dựa trên nguồn tư liệu của chính quyền cách mạng mà chưa có sự khai thác tài liệu của chính quyền VNCH để có sự so sánh, đối chiếu, kiểm chứng nhằm phân tích một cách khách quan khoa học về âm mưu, thủ đoạn đánh phá của địch đối với các căn 23

25 cứ địa cách mạng; địa điểm đóng cơ quan; tổ chức hoạt động, vai trò của các căn cứ địa Tuy nhiên, đây vẫn là nguồn tài liệu chính thống cung cấp những tư liệu, sự kiện, những đánh giá có giá trị tin cậy cao đối với tác giả trong quá trình thực hiện luận án. Các công trình của LLVT cấp tỉnh: Quảng Ngãi Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm ( ), (Nxb Tổng hợp Nghĩa Bình và Bộ Chỉ huy Quân sự Nghĩa Bình,1988); Bình Định Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm ( ), (Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Bình Định xuất bản năm 1992); Phú Yên 30 năm chiến tranh giải phóng ( ), (Bộ Chỉ huy Quân sự Phú Yên xuất bản năm 1993); Lịch sử LLVT nhân dân tỉnh Quảng Nam, Tập II ( ) (Nxb Quân đội nhân dân, HN, 2003) cũng đề cập một số nội dung thuộc về hoặc liên quan đến vấn đề căn cứ địa bao gồm: chủ trương của Đảng bộ địa phương đối với công tác xây dựng căn cứ địa cách mạng, âm mưu và thủ đoạn đánh phá của Mỹ và chính quyền VNCH đối với các căn cứ, các cuộc chiến đấu của LLVT và nhân dân làm thất bại các cuộc càn quét lớn của địch vào căn cứ địa, phong trào bố phòng chiến đấu bảo vệ căn cứ địa... Tuy nhiên, ở các công trình này, vấn đề căn cứ địa cách mạng cũng chỉ được đề cập, phản ánh một cách khái lược chủ yếu trên lĩnh vực quân sự; các hoạt động xây dựng căn cứ địa cách mạng về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội hầu như chỉ được đề cập thoảng qua. Ngoài các công trình kể trên, còn có một số bài báo đăng trên các tạp chí chuyên ngành đề cập đến hoạt động xây dựng căn cứ địa ở Khu V nói chung, hoặc một số căn cứ tiêu biểu ở các địa phương. Bài Tìm hiểu quá trình hình thành căn cứ địa miền núi Khu V trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Trần Hữu Đính, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số đã phân tích, luận giải âm mưu và thủ đoạn đánh phá của địch đối với miền núi Khu V; nhấn mạnh chủ trương của Đảng về xây dựng căn cứ địa cách mạng, quá trình phát triển các khu bất hợp pháp thành những căn cứ đứng chân vững chắc của cách mạng như căn cứ Tung Bủng, Cô Sia, Tân Túc, Đắc Min, xã Đoàn, xã Hiếu (Kon Tum), huyện 2, huyện 7 (An Khê), Nam Bắc đường 9 (Trị Thiên), 24

26 Trà Bồng, Sơn Hà, Ba Tơ (Quảng Ngãi), Tây Vĩnh Thạnh (Bình Định), Thồ Lồ, Ma Dú (Phú Yên), huyện Hiên (Quảng Nam); đồng thời trình bày khái quát diễn biến một số cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng căn cứ địa của quân dân Bác Ái (Ninh Thuận), Vĩnh Thạnh (Bình Định), Trà Bồng (Quảng Ngãi) trong giai đoạn Đi sâu phản ánh các hoạt động chiến đấu bảo vệ căn cứ địa cách mạng ở miền núi tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng có bài Vai trò của các dân tộc ít người ở miền núi tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước ( ) của Nguyễn Tiến Hỷ, Tạp chí Lịch sử Đảng tháng Ở bài viết này, tác giả phân tích làm nổi bật những đóng góp to lớn của các dân tộc miền núi Quảng Nam Đà Nẵng trong phong trào khởi nghĩa vũ trang và xây dựng căn cứ địa đầu tiên của tỉnh. Bài Về khởi nghĩa từng phần ở miền núi Khu V năm 1959 của Nguyễn Văn Minh, Tạp chí Lịch sử Đảng số đã luận giải bối cảnh ra đời và vai trò của các căn cứ địa cách mạng ở miền núi Khu V đối với cuộc Đồng khởi ( ) như: Tung Bủng, Tân Túc, Đắc Min, xã Đoàn, xã Hiếu (Kon Tum), huyện 2, huyện 7 (An Khê), Nam Bắc đường 9 (Trị Thiên), Trà Bồng, Sơn Hà, Ba Tơ (Quảng Ngãi), Tây Vĩnh Thạnh (Bình Định), Thồ Lồ, Ma Dú (Phú Yên), huyện Hiên (Quảng Nam) Bên cạnh đó, bài viết cũng phân tích tác động của cuộc khởi nghĩa từng phần của nhân dân miền núi Khu V, mà đỉnh cao là khởi nghĩa Trà Bồng đối với việc bảo vệ và phát triển căn cứ địa cách mạng ở miền núi. Bài Căn cứ Nước Là Mật khu Đỗ Xá của Trần Văn Giáp, Tạp chí Lịch sử Quân sự tháng đã tập trung khảo cứu một căn cứ cụ thể, trong đó đi sâu phân tích vị trí chiến lược của Căn cứ Nước Là Mật khu Đỗ Xá, sự chỉ đạo của Liên Khu ủy V đối với phong trào cách mạng Khu V tại căn cứ; diễn biến của một số cuộc chiến đấu tiêu biểu làm thất bại các cuộc càn quét lớn của địch đánh vào căn cứ trong những năm 1962, Bài Khu căn cứ Nước Oa, Tạp chí Lịch sử Quân sự tháng của Phan Thị Ánh Tuyết giới thiệu khái quát về địa điểm đứng chân của Khu ủy và BTL Quân Khu V trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Tuy 25

27 nhiên, bài viết chỉ ở dạng giới thiệu tư liệu, chưa làm rõ được vai trò, nhiệm vụ của Căn cứ Nước Oa trong kháng chiến chống Mỹ. Về phía tác giả luận án, cũng đã công bố một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành liên quan trực tiếp đến đề tài như: Căn cứ K20 trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Tạp chí Lịch sử Quân sự tháng ; Khu Sông Đà trong kháng chiến chống Mỹ, Tạp chí Khoa học và Giáo dục Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng tháng ; Đấu tranh bảo vệ căn cứ Trà Bồng trong kháng chiến chống Mỹ ( ), Tạp chí Khoa học và Giáo dục Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng tháng ; Các bài viết luận giải hoàn cảnh ra đời, vai trò và hoạt động đấu tranh của các căn cứ: K20, Sông Đà, Trà Bồng trong kháng chiến chống Mỹ. Riêng bài Kế hoạch chống phá căn cứ địa kháng chiến ở các tỉnh duyên hải Trung Trung Bộ của chính quyền VNCH trong Chiến tranh đặc biệt, Tạp chí Lịch sử Quân sự tháng đi sâu phân tích các thủ đoạn, biện pháp đánh phá của địch trên các phương diện quân sự, chính trị, kinh tế đối với căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Gần đây có bài Tìm hiểu một số căn cứ địa cách mạng ở các tỉnh Nam Ngãi Bình Phú trong kháng chiến chống Pháp ( ), Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Đà Nẵng tháng , đề cập đến quá trình hình thành, tổ chức và hoạt động của một số căn cứ địa cách mạng tiêu biểu ở các tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên trong kháng chiến chống Pháp. Nghiên cứu dưới góc độ luận văn Thạc sĩ, tác giả Đậu Văn Việt với đề tài Khu Đông trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở Bình Định ( ), Trường Đại học Quy Nhơn (2008), đã làm rõ cơ sở, điều kiện và chủ trương xây dựng căn cứ địa cách mạng ở Khu Đông của Tỉnh ủy Bình Định trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; một số hoạt động xây dựng căn cứ địa cách mạng ở Khu Đông. Qua công trình này, tác giả góp phần tái hiện bức tranh hiện thực lịch sử về quá trình hình thành và phát triển của căn cứ địa cách mạng ở Khu Đông, làm rõ đặc điểm, vai trò và những đóng góp của căn cứ đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ ở tỉnh Bình Định. Tuy nhiên, tác giả chủ yếu nghiên cứu diễn biến của sự kiện 26

28 lịch sử, chưa rút ra được những bài học kinh nghiệm trong xây dựng và bảo vệ căn cứ địa. Bên cạnh đó, Khu Đông chỉ là một bộ phận trong hệ thống căn cứ địa cách mạng của tỉnh Bình Định, tác giả chưa có sự so sánh đối chiếu với các căn cứ khác. Đề tài Căn cứ của Tỉnh ủy Quảng Ngãi trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ( ), luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Quy Nhơn (2011) của Nguyễn Phương Anh trình bày khái quát các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, bối cảnh ra đời, quá trình xây dựng và phát triển của căn cứ Tỉnh ủy Quảng Ngãi trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; các hoạt động chiến đấu bảo vệ căn cứ. Từ đó, rút ra đặc điểm, vai trò và những kinh nghiệm trong xây dựng căn cứ Tỉnh ủy Quảng Ngãi. Ở công trình này, do giới hạn của một đề tài Thạc sĩ, tác giả chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu toàn bộ hệ thống căn cứ địa cách mạng ở Quảng Ngãi mà chỉ giới thiệu một số căn cứ tiêu biểu. Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, nhiều cuộc hội thảo khoa học về căn cứ địa cách mạng đã được tổ chức, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học và nhân chứng lịch sử. Tháng , Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Yên phối hợp với Sở Văn hóa Thông tin và Ủy ban nhân dân huyện Sơn Hòa tổ chức Hội thảo Di tích căn cứ kháng chiến tỉnh Phú Yên. Hội thảo tập trung làm rõ một số nội dung: Phục dựng tương đối chân thực di tích một số căn cứ kháng chiến: Thồ Lồ Ma Dú (Đồng Xuân), Phước Tân, Sơn Long Sơn Định Sơn Xuân (Sơn Hòa); xác định và chuẩn hóa địa điểm trú đóng của một số cơ quan Đảng, chính quyền, mặt trận, dân vận, quân sự, công an, bệnh viện... Xác định địa điểm diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng như Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ II (tháng ), Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ V (9-1973), các kỳ đại hội chính trị hiệp thương bầu Ủy ban nhân dân cách mạng (UBNDCM) lâm thời... Hội thảo khẳng định việc khảo sát, nghiên cứu, bảo tồn và tôn tạo di tích các căn cứ kháng chiến là việc làm hết sức cần thiết. Nhìn chung, các bài tham luận tại hội thảo chủ yếu tập trung vào vấn đề tôn tạo, bảo tồn các di tích căn cứ cách mạng trên địa bàn tỉnh Phú Yên. Tháng , Hội thảo khoa học Căn cứ Liên Khu ủy 5 tại các huyện Bến 27

29 Hiên, Bến Giằng, tỉnh Quảng Nam ( ) do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Nam tổ chức quy tụ hàng chục nhà nghiên cứu và các nhân chứng với hơn 30 bài viết về Căn cứ Liên Khu ủy V. Mặc dù chưa làm rõ được quy mô, các hoạt động xây dựng, bảo vệ Căn cứ Liên Khu ủy V nhưng nhìn chung, các tác giả đã cung cấp một số tư liệu về hoàn cảnh ra đời, bộ máy hoạt động, các địa điểm đóng cơ quan, vai trò của đồng bào miền núi các huyện Đông Giang, Tây Giang (Quảng Nam) trong việc bảo vệ căn cứ; đặc biệt là sự lãnh đạo, chỉ đạo của Liên Khu ủy V đối với phong trào cách mạng ở các địa phương thuộc Khu V trong giai đoạn ( ). Tháng , Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Nam, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Nam và Huyện ủy Tiên Phước tổ chức Hội thảo khoa học 50 năm chiến dịch vượt sông Tiên, giải phóng Sơn Cẩm Hà (25/9/ /9/2012). Tại hội thảo đã có một số bài tham luận liên quan đến sự ra đời, vai trò và hoạt động của Căn cứ Sơn Cẩm Hà trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Tháng , Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Nam và Huyện ủy Thăng Bình tổ chức Hội thảo khoa học Căn cứ lõm Bầu Bính Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm. Với hàng chục bài viết của các nhà nghiên cứu và nhân chứng lịch sử, hội thảo đã xác định rõ thời gian hình thành và tồn tại của căn cứ; sự lãnh đạo của Huyện ủy Thăng Bình; hoạt động chiến đấu của quân dân và vai trò của Căn cứ lõm Bầu Bính trong hai năm Hội thảo khẳng định vị trí, vai trò, tầm quan trọng và giá trị lịch sử của Căn cứ lõm Bầu Bính, một căn cứ lõm lũy thép anh hùng, một căn cứ điển hình của tỉnh Quảng Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Lịch sử căn cứ địa cách mạng tỉnh Phú Yên trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược ( ), (Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2013) do tập thể tác giả Nguyễn Duy Luân, Nguyễn Văn Thưởng, Lê Xuân Đồng và Nguyễn Văn Viễn biên soạn là công trình phục dựng, tổng kết và đánh giá một cách tương đối đầy đủ về quá trình hình thành, xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò của các căn cứ địa cách mạng ở tỉnh Phú Yên qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Tuy nhiên, ở công trình này, các tác giả chủ yếu mô tả căn cứ địa về mặt địa hình, về xây dựng LLVT; đồng thời tập trung tái hiện các cuộc 28

30 chiến đấu bảo vệ căn cứ địa. Hoạt động xây dựng căn cứ về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội chưa được đề cập. Hòn Tàu đi cùng năm tháng do Huyện ủy Quế Sơn xuất bản năm 2013, là tập hợp các bài viết của nhiều tác giả từng sống, hoạt động tại Căn cứ Hòn Tàu trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Các tác giả phân tích khái quát vị trí chiến lược của Căn cứ Hòn Tàu; đồng thời làm rõ vai trò và những đóng góp của căn cứ đối với các cuộc kháng chiến chống xâm lược ở Quảng Nam Đà Nẵng. Một cách tổng quát, dưới nhiều góc độ nghiên cứu và phản ánh khác nhau, các công trình nêu trên đã giải quyết được một số vấn đề: - Khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về căn cứ địa cách mạng; khẳng định vai trò của căn cứ địa cách mạng đối với thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược; đồng thời nêu lên được những điều kiện cơ bản để xây dựng căn cứ địa vững mạnh mà một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu là biết dựa vào dân, xây dựng căn cứ lòng dân. - Làm rõ được sự vận dụng sáng tạo của Đảng bộ các địa phương đối với vấn đề xây dựng đất đứng chân trong kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam, trong đó có Đảng bộ các tỉnh ở Trung Trung Bộ. - Tái hiện một số hoạt động chiến đấu chống càn quét, bảo vệ căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ; khái quát sơ lược một số hoạt động về xây dựng LLVT, phát triển kinh tế, giáo dục, y tế, xây dựng căn cứ địa, vùng giải phóng. - Bước đầu đưa ra những nhận xét, đánh giá về một số căn cứ địa riêng lẻ. Bên cạnh những vấn đề đã được làm sáng tỏ, do bị giới hạn bởi đối tượng, phạm vi nghiên cứu và một số vấn đề thuộc về tư liệu, phương pháp khảo cứu nên các công trình nêu trên vẫn chưa làm sáng tỏ được các vấn đề: - Các công trình chưa tái hiện, phục dựng, đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ quá trình hình thành, phát triển và những đóng góp của các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ mà chỉ mới dừng lại mức trình bày khái lược về sự ra đời, hoạt động của một số căn cứ tiêu biểu. 29

31 - Các công trình chỉ tập trung chủ yếu phản ánh những thành quả đạt được trên một số mặt: kinh tế, quân sự, văn hóa xã hội, chưa luận giải và làm rõ những hạn chế, khó khăn trong hoạt động xây dựng căn cứ ở Trung Trung Bộ nói chung. - Trong quá trình nghiên cứu, chưa có sự so sánh với các địa phương, các khu vực khác trong cả nước để tìm ra những đặc điểm riêng của căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ. - Việc nghiên cứu tổng kết hoạt động xây dựng, bảo vệ căn cứ địa chủ yếu dựa trên các tài liệu của phía cách mạng, chưa có sự tham chiếu với các tài liệu của đối phương. Vì vậy, chưa thể hiện được cái nhìn đa chiều đối vấn đề căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ Những vấn đề luận án kế thừa từ các công trình nghiên cứu đã xuất bản - Một là, phương pháp luận nghiên cứu vấn đề căn cứ địa cách mạng: Nắm vững lý luận, khảo cứu tài liệu và tham chiếu thực tế, so sánh giữa các vùng miền. - Hai là, những vấn đề lý luận về căn cứ địa cách mạng trong chiến tranh giải phóng dân tộc: Điều kiện xây dựng căn cứ địa, việc lựa chọn địa bàn phù hợp, hoạt động xây dựng căn cứ vững mạnh toàn diện, kết hợp hoạt động xây dựng và chiến đấu bảo vệ, xây dựng căn cứ lòng dân. - Ba là, hệ thống tư liệu về căn cứ địa cách mạng ở các vùng miền khác nhau để có cái nhìn tổng quan, trên cơ sở đó tiến hành so sánh, đối chiếu, tìm ra những đặc điểm riêng của căn cứ địa ở Trung Trung Bộ. - Bốn là, những kết quả nghiên cứu về một số căn cứ tiêu biểu ở các địa phương Trung Trung Bộ trên các phương diện: quá trình ra đời, tổ chức hoạt động, vai trò của căn cứ địa trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ là một bộ phận trong hệ thống căn cứ địa cách mạng ở Khu V và toàn miền Nam. Các căn cứ được hình thành rất sớm, ngay từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; đồng thời không ngừng phát triển, đứng vững và phát huy vai trò to lớn đối với cuộc kháng chiến tại các địa phương. Song, các công trình nêu trên mới chỉ dừng lại ở việc khảo 30

32 cứu ở một vài địa phương, một số căn cứ tiêu biểu, chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện về hệ thống căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ. Do vậy, những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu, đó là: - Phục dựng một cách đầy đủ, có hệ thống quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò của các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trên các lĩnh vực: quân sự, kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế. - Luận giải, làm rõ hơn âm mưu, thủ đoạn đánh phá của quân Mỹ VNCH đối với căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong mỗi giai đoạn lịch sử trên các lĩnh vực: quân sự, chính trị, kinh tế. - Trên cơ sở khảo cứu, bổ sung và hệ thống hóa tư liệu từ nhiều nguồn để xây dựng góc nhìn đa chiều về căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ. - Trong quá trình nghiên cứu, luận án sẽ rút ra và khái quát những đặc điểm của các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ, đặt trong sự tham chiếu với căn cứ địa cách mạng ở Cực Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và các căn cứ khác ở miền Nam. Trên cơ sở đó, tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt của hệ thống căn cứ địa ở miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. - Kết quả nghiên cứu sẽ nhằm tiếp tục khẳng định và làm nổi bật những đóng góp to lớn của các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong quá trình đánh bại các chiến lược chiến tranh: Chiến tranh đặc biệt, Chiến tranh cục bộ, Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ và chính quyền VNCH trên chiến trường Khu V. Qua đó, khái quát những kinh nghiệm từ quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ để vận dụng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Tóm lại, yêu cầu tổng kết về mặt lý luận cũng như thực tiễn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung, quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò căn cứ địa cách mạng trong chiến tranh giải phóng nói riêng đòi hỏi cần phải có những công trình nghiên cứu chuyên khảo, mang tính hệ thống về căn cứ địa cách mạng. Nghiên cứu về căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nhằm đáp ứng yêu cầu nêu trên hay nói một cách khác, đó là một đòi hỏi tất yếu, khách quan. 31

33 CHƯƠNG 2 KHÔI PHỤC VÀ BẢO VỆ CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG Ở TRUNG TRUNG BỘ ( ) 2.1. Những yếu tố tác động đến quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội Về phân vùng địa lý tự nhiên ở Việt Nam, giới nghiên cứu có các quan điểm khác nhau. Theo Vũ Tự Lập, vùng Bắc Trung Bộ là địa bàn các tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh (tức là Nghệ An và Hà Tĩnh hiện nay); vùng Trung Trung Bộ gồm các tỉnh, thành phố: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên; các tỉnh, thành phố còn lại của miền Trung là tỉnh Khánh Hòa, Thuận Hải (tức là Ninh Thuận, Bình Thuận hiện nay) thuộc khu vực Nam Trung Bộ [118, tr. 87]. Theo sự phân chia của nhà nghiên cứu Lê Bá Thảo, Bắc Trung Bộ gồm các tỉnh, thành phố: Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh. Vùng Trung Trung Bộ của Việt Nam kéo dài từ Quảng Bình cho đến Nam Quảng Ngãi [140, tr. 393]. Khu vực Nam Trung Bộ trải rộng trên các tỉnh: Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận [140, tr. 413]. Khi nghiên cứu về địa danh và địa giới hành chính của Việt Nam trong giai đoạn , tác giả Nguyễn Quang Ân xác định vùng duyên hải Nam Trung Bộ gồm có: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa [2, tr. 90]. Gần đây, trong quá trình nghiên cứu về địa lý kinh tế xã hội Việt Nam, tác giả Lê Quang Thông cho rằng vùng Nam Trung Bộ bao gồm các tỉnh, thành phố: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Gia Lai, KonTum, Đắc Lắc, Lâm Đồng [144, tr. 369]. Theo tài liệu Tình hình chung Liên khu V ( ), lưu tại Viện Lịch Đảng, miền Nam Trung Bộ (hay còn gọi là Liên khu V) gồm có Quảng Nam, 32

34 Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đắc Lắc, Kon Tum, Gia Lai, Đồng Nai Thượng, Lâm Viên. Địa thế Nam Trung Bộ gồm 2 vùng: vùng đồng bằng và vùng miền núi. Trong đó, vùng đồng bằng được chia thành 2 miền: Miền Trung Trung Bộ gồm 4 tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Miền cực Nam Trung Bộ gồm: Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Phan Thiết [146, tr. 1]. Trong công trình Trung Trung Bộ đánh giỏi toàn diện (Nxb Quân đội nhân dân, HN, 1972), chiến trường Trung Trung Bộ bao gồm các tỉnh: Quảng Đà, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc [156, tr ]. Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, địa giới hành chính quân sự của các tỉnh Trung Trung Bộ thuộc địa bàn Chiến khu 5 và Chiến khu 6. Vào cuối năm 1948, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, Liên khu V được hình thành trên cơ sở hợp nhất các khu 5, 6, 15, gồm 12 tỉnh của Nam Trung Bộ (sau này là Khu V). Cùng thời gian này, Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Trung Bộ và Liên Khu ủy V cũng được thành lập để thực hiện sự lãnh đạo, chỉ huy cuộc kháng chiến ở Liên khu V. Riêng đối với Quảng Nam và Đà Nẵng, năm 1946, tiến hành hợp nhất thành liên tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng. Từ năm 1950 đến năm 1952, tách ra thành hai đơn vị hành chính độc lập. Tuy nhiên, đến tháng , tái hợp thành một đơn vị hành chính là tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng. Từ đây đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Trung Trung Bộ thuộc địa bàn Liên khu V và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Liên Khu ủy V. Trong giai đoạn , theo sự phân chia của chính quyền VNCH, miền Nam Việt Nam gồm có Đô Thành Sài Gòn, Trung Nguyên Trung phần, Cao Nguyên Trung phần, Đông Nam phần và Tây Nam phần. Trong đó, Trung Nguyên Trung phần bao gồm các tỉnh từ Quảng Trị đến Bình Thuận [2, tr ]. Từ năm 1967 đến trước , theo sự điều chỉnh của đối phương, lúc này, miền Nam Việt Nam gồm có Đô Thành Sài Gòn, Trung Nguyên Trung phần, Cao Nguyên Trung phần và Nam Phần (bao gồm Đông Nam phần và Tây Nam phần trước đó sáp 33

35 nhập lại). Trong đó, Trung Nguyên Trung phần lúc này vẫn bao gồm các tỉnh từ Quảng Trị đến Bình Thuận [2, tr ]. Như vậy, các tỉnh Trung Trung Bộ về cơ bản vẫn thuộc Trung Nguyên Trung phần. Hơn nữa, ở đây vẫn giữ là một đơn vị hành chính cấp tỉnh như trước đó. Về địa giới quân sự, từ tháng , các tỉnh thuộc Trung Trung Bộ nằm trên địa bàn thuộc vùng I và vùng II chiến thuật của Quân đội VNCH. Đó là Khu chiến thuật 12 (Quân đoàn 1), Khu chiến thuật 22 (Quân đoàn 2) [34, tr ]. Tháng , Quảng Nam được tách ra thành 2 tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín, còn Đà Nẵng vẫn là đơn vị hành chính độc lập. Tuy nhiên, về địa giới quân sự không có sự thay đổi. Về phía cách mạng, trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, địa giới hành chính quân sự của Trung Trung Bộ gắn liền với địa bàn chỉ đạo của Liên tỉnh I, Liên tỉnh II. Đến giữa năm 1961, Bộ Chính trị quyết định tổ chức chiến trường Nam Trung Bộ thành Khu V và Khu VI. Khu V gồm các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Kon Tum, Gia Lai. Cuối năm 1962, tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng được tách thành 2 tỉnh Quảng Nam và Quảng Đà. Theo sự chỉ đạo của Khu ủy V, từ tháng , thành phố Đà Nẵng tách khỏi tỉnh Quảng Đà, gồm 3 quận: quận Nhất, quận Nhì, quận Ba. Đến tháng , tỉnh Quảng Đà và thành phố Đà Nẵng hợp nhất thành Đặc khu Quảng Đà. Mặc dù Quảng Nam Đà Nẵng là tỉnh có sự chia tách, điều chỉnh về tên gọi, địa giới hành chính nhiều lần nhưng về cơ bản, trong suốt quá trình kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, các tỉnh Trung Trung Bộ thuộc địa bàn Khu V và sự chỉ đạo trực tiếp của Khu ủy V. Như vậy, do sự chi phối bởi điều kiện chiến trường nên sự phân chia về địa giới hành chính ở các tỉnh của Khu V thường xuyên có sự biến động. Vì vậy, theo chúng tôi quan niệm Trung Trung Bộ bao gồm: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên (hay còn gọi là các tỉnh Nam Ngãi Bình Phú) cũng chỉ mang tính tương đối. Theo sự phân hóa lãnh thổ, Trung Trung Bộ nằm ở trung độ của đất nước, có diện tích khoảng ,9 km², bao gồm các tỉnh, thành phố: Đà Nẵng, Quảng Nam, 34

36 Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Phía Đông của các tỉnh Trung Trung Bộ được bao bọc bởi Biển Đông. Phía Tây giáp một phần với Lào và phần chủ yếu giáp với Tây Nguyên. Phía Bắc giáp với Bắc Trung Bộ, phía Nam giáp với Nam Trung Bộ. Điều kiện tự nhiên: Khu vực Trung Trung Bộ thuộc phần cuối của dãy Trường Sơn Bắc và nửa phần đầu của dãy Trường Sơn Nam, có hình dạng vòng cung vươn ra Biển Đông. Địa hình chia làm 3 vùng rõ rệt: Vùng rừng núi ở Trung Trung Bộ chiếm khoảng 3/4 diện tích. Miền núi phía Tây Trung Trung Bộ là nơi tập trung nhiều ngọn núi cao trên m như: núi Cà Đam m, núi Đá Vách m, núi U Bò m, núi Cao Muôn m (Quảng Ngãi); núi Bà m, núi Dương An m (Bình Định); núi Chư Treng m, núi La Hiên m, hòn Dù m, hòn Chúa m, núi Chư Ninh m (Phú Yên). Quảng Nam là nơi có nhiều ngọn núi cao trên m như núi Lum Heo m, núi Tiên m, Hòn Tà Xiêu m, núi Ngọc Niay m, Ngọc Kring m, núi Ngọc Linh m. Do địa hình có xu hướng thấp dần từ Tây sang Đông nên ở Trung Trung Bộ, các ngọn núi thường có sườn dốc đứng, hiểm trở, nối liền với nhau, nhiều nơi vươn sát ra biển, trên núi có nhiều hang, gộp, hốc đá tự nhiên, rất thuận lợi cho hoạt động quân sự: cất giấu vũ khí, lương thực, trú quân và thực hiện tác chiến. Núi rừng ở Trung Trung Bộ là kho tài nguyên phong phú về lâm thổ sản với nhiều loại gỗ quý: lim, trắc, huỳnh đàn, gõ, hương, mun, các loại thú rừng: hổ, voi, gấu, lợn, nai, tê tê, trăn cùng các loại dược liệu quý: sâm Ngọc Linh, quế, sa nhân, trầm hương Trong kháng chiến, bộ đội chủ lực và nhân dân khai thác tài nguyên rừng phục vụ việc xây dựng nhà ở, doanh trại, cơ quan căn cứ. Tài nguyên rừng là nguồn cung cấp đáng kể về lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh cho cán bộ, nhân dân các căn cứ địa. Trên địa bàn rừng núi rộng lớn, quân dân các căn cứ tích cực tổ chức các hoạt động sản xuất: trồng trọt, chăn nuôi, chế tạo vũ khí, thuốc chữa bệnh. Qua đó, đã giải quyết được một phần nhu cầu tại chỗ của căn cứ, giảm bớt gánh nặng chi viện từ miền Bắc. Bên cạnh những điều kiện thuận lợi cho việc tạo dựng một nền kinh tế tự cấp, tự túc, vùng rừng núi Trung Trung Bộ trùng điệp là khu vực có thế liên hoàn nối liền với Tây Nguyên và Lào. Ở 35

37 đây có đường hành lang chiến lược Bắc Nam đi qua, có những địa bàn hiểm trở, làm chỗ đứng chân thuận tiện cho lực lượng kháng chiến. Tuy nhiên, do địa hình núi cao, dốc đứng, sông suối chia cắt, thiên nhiên khắc nghiệt có những tác động tiêu cực, gây ảnh hưởng đến vấn đề tổ chức xây dựng căn cứ địa và hoạt động cơ động của LLVT. Vùng đồng bằng ven biển chiếm 1/4 diện tích, chủ yếu có quy mô nhỏ, hẹp, bị đồi núi chia cắt thành nhiều mảnh. Các huyện đồng bằng: Đại Lộc, Duy Xuyên, Thăng Bình, Điện Bàn (Quảng Nam); Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Đức Phổ (Quảng Ngãi); Hoài Nhơn, Hoài Ân, Phù Mỹ, Phù Cát, An Nhơn, Tuy Phước, Tây Sơn (Bình Định); Tuy Hòa, Tuy An, Sông Cầu (Phú Yên) là nơi tập trung dân cư đông đúc. Một số thành phố, thị xã, cảng biển: Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Tuy Hòa tương đối sầm uất. Vùng đồng bằng Trung Trung Bộ là nơi cung cấp nhân tài và vật lực cho kháng chiến. Một số nơi có thể xây dựng thành căn cứ du kích, căn cứ lõm. Vùng biển và hải đảo thuộc Trung Trung Bộ trải dài từ đèo Hải Vân (Đà Nẵng) đến Vũng Rô (Phú Yên) với chiều dài khoảng 612 km. Bờ biển Trung Trung Bộ có các bán đảo: Sơn Trà (Đà Nẵng); Phương Mai (Bình Định); Tuy Phong Vĩnh Cửu, Vịnh Hòa, Xuân Thịnh, An Ninh Đông, An Hải, An Hòa (Phú Yên) và các vịnh Xuân Đài, Vũng Rô. Đây là những vị trí thuận lợi cho việc xây dựng các căn cứ quân sự, các điểm tiếp nhận sự chi viện hàng hóa, vũ khí từ miền Bắc vào theo đường biển. Nhiều dãy núi ăn thông ra biển như Hải Vân (Đà Nẵng); Núi Bà, Bích Kê, Dương An, (Bình Định); Cù Mông, Đèo Cả (Phú Yên); các khu rừng ven biển ở Trung Trung Bộ rất thuận lợi cho lực lượng kháng chiến sử dụng làm nơi cất giấu vũ khí, trú quân, sử dụng làm bàn đạp để tấn công vào căn cứ của địch. Ngoài khơi bờ biển Trung Trung Bộ có hàng chục đảo lớn nhỏ: quần đảo Hoàng Sa (Đà Nẵng); cụm đảo Cù Lao Chàm (Quảng Nam); đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi), đảo Cù Lao Xanh (Bình Định); các đảo Bàn Than, Nhất Tự Sơn, Hải Phú, Hòn Yến, Hòn Chùa, Hòn Dứa, Hòn Cô (Phú Yên). Địa hình các đảo được bao bọc bởi núi cao, bên trong có nhiều hang động và bãi đổ bộ tự nhiên có thể hình thành 36

38 các căn cứ, nơi tiếp nhận nguồn viện trợ từ miền Bắc và các tuyến vận chuyển bằng đường biển. Trung Trung Bộ có các sông chính: Thu Bồn, Vu Gia, Tam Kỳ (Quảng Nam); Trà Bồng, Trà Khúc, Vệ, Trà Câu (Quảng Ngãi); Kôn, Lại Giang, La Tinh, Hà Thanh (Bình Định); Ba, Kỳ Lộ, Bàn Thạch, Cà Lúi, Cầu, Hinh, Krông Năng, Năng, Trà Bương, Con, Đồng Bò (Phú Yên). Đặc điểm của các sông là bắt nguồn từ những vùng núi cao của dãy Trường Sơn và đều đổ ra Biển Đông. Các sông ngắn, độ dốc lớn, lòng sông cạn và hẹp, dòng chảy mạnh, lại có nhiều thác ghềnh ở thượng lưu nên mùa mưa thường gây lũ lụt lớn. Ngược lại, mùa khô lại khô cạn ở hạ lưu, giảm mực nước ngầm và tạo điều kiện cho sự xâm nhập mặn của biển. Hệ thống sông ngòi có vai trò quan trọng trong việc vận chuyển lương thực, vũ khí phục vụ hoạt động chiến đấu ở các căn cứ địa. Tuy nhiên, nó cũng gây nhiều khó khăn đối với hoạt động cơ động của LLVT trong hành quân tác chiến, nhất là cơ giới. Về khí hậu, Trung Trung Bộ có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, nhiệt độ trung bình 26 º C. Ở các vùng núi cao, nhiệt độ trung bình 23,5 º C. Thời tiết ở đây được chia làm 2 mùa mưa, nắng rõ rệt: mùa khô từ tháng 1 đến tháng 8, mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12. Lượng mưa nhiều vào 4 tháng cuối năm nên dễ gây lũ lụt, ngập úng, ách tắc cho hoạt động sản xuất. Về giao thông, để phục vụ cho nhu cầu chiến tranh, Mỹ và chính quyền VNCH đã tiến hành tu sửa, nâng cấp nhiều tuyến đường huyết mạch chạy qua địa bàn Trung Trung Bộ như Quốc lộ 1A, đường sắt xuyên Việt, Quốc lộ 14 từ Đà Nẵng lên Tây Nguyên nối liền với Đông Nam Bộ, Quốc lộ 14D xuất phát từ Bến Giằng (Quảng Nam) lên tận biên giới Việt Lào, Quốc lộ 19 nối liền Bình Định với các tỉnh Tây Nguyên và Hạ Lào, Đường số 7 nối liền Tuy Hòa với Gia Lai. Ngoài ra, các tuyến đường Liên tỉnh lộ 6; Liên tỉnh lộ 7, Liên tỉnh lộ 9 đi qua địa bàn các tỉnh Bình Định, Phú Yên cũng thường xuyên được tu bổ, mở rộng. Bên cạnh đó, mỗi tỉnh đều có hệ thống tỉnh lộ nối liền các thành phố, thị xã, thị trấn, các huyện đồng bằng và miền núi. Hệ thống giao thông với nhiều tuyến Quốc lộ, đường liên tỉnh, nội tỉnh tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động cơ động chiến đấu, tác chiến của 37

39 LLVT các binh chủng. Tuy nhiên, đây cũng là điểm bất lợi vì địch có thể cơ động tấn công vào các căn cứ địa từ nhiều hướng bằng các phương tiện chiến tranh hiện đại. Song song với hệ thống giao thông đường bộ, đối phương còn xây dựng một hệ thống các cảng biển: Đà Nẵng, Tiên Sa, Quy Nhơn, Vũng Rô cùng với các sân bay: Đà Nẵng, Xuân Thiều, Nước Mặn, Chu Lai, Quy Nhơn, Phù Cát, Củng Sơn, Sông Cầu, Chóp Chài, Đồng Tre, Đông Tác... Hệ thống sân bay, cảng biển ở Trung Trung Bộ chủ yếu phục vụ cho các hoạt động quân sự. Bên cạnh đó, trong kháng chiến chống Pháp, năm 1947, chính quyền cách mạng ở các tỉnh Trung Trung Bộ đã huy động lực lượng xây dựng, phục hồi tuyến đường sắt Liên khu V dài 300 km từ Quảng Nam đến Phú Yên. Trong kháng chiến chống Mỹ, tuyến đường Đông Trường Sơn đi qua các tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên lên Tây Nguyên. Trên tuyến đường vận chuyển trên biển, Khu Sông Đà (Đà Nẵng) đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành tuyến vận tải trên biển thực hiện nhiệm vụ đưa cán bộ từ Nam ra Bắc hoặc vận chuyển cán bộ cùng hàng hóa từ miền Bắc vào Nam; bến Vũng Rô (Phú Yên) trở thành nơi tiếp nhận vũ khí, thuốc men từ những tàu Không số ở miền Bắc chuyển vào. Với điều kiện địa lý tự nhiên như trên, Trung Trung Bộ là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng đối với cả ta và địch. Đây là cửa ngõ từ Biển Đông vào Tây Nguyên và Đông Dương, là đầu mối giao thông của các chiến trường trong cả nước. Từ địa thế mặt hướng ra Biển Đông, lưng tựa vào dãy Trường Sơn hùng vĩ, địa hình khu vực này vừa có thế bao quát vừa có thế mở rộng, đồng thời là bàn đạp để tỏa đi các hướng chiến lược khác. Trong chiến tranh, Trung Trung Bộ trở thành địa bàn tranh chấp quyết liệt giữa ta và địch. Đối với Mỹ và VNCH, Trung Trung Bộ là bàn đạp để tiến công ra các tỉnh xung quanh, nắm giữ Tây Nguyên, khống chế Biển Đông, tiến tới làm chủ Đông Dương. Hệ thống các cảng biển và sân bay lớn ở Trung Trung Bộ là một đầu cầu quan trọng để triển khai lực lượng và cơ sở hậu cần, kỹ thuật cho cuộc chiến tranh xâm lược, là khu vực trọng yếu để tiếp nhận bộ phận lớn vũ khí và phương tiện chiến tranh. Vì vậy, để kiểm soát địa bàn này, đối phương đã bố trí một lực lượng 38

40 chủ lực mạnh. Cuối năm 1968, lực lượng quân Mỹ, đồng minh và VNCH ở Trung Trung Bộ có quân, trong đó có quân Mỹ, quân đồng minh và quân VNCH [53, tr. 1]. Đà Nẵng được xây dựng trở thành khu liên hợp quân sự lớn thứ hai ở miền Nam. Bên cạnh hệ thống sân bay và cảng biển hiện đại, ngoài khơi vịnh Đà Nẵng còn có tàu sân bay thuộc Hạm đội 7 của Mỹ thường xuyên túc trực ngày đêm. Hệ thống căn cứ quân sự và hậu cần hiện đại được thiết lập ở Trung Trung Bộ nhằm phục vụ cho nhu cầu chiến tranh không chỉ ở Khu V mà cả chiến trường Đông Dương. Đối với ta, Trung Trung Bộ là địa bàn trung tâm, có hành lang chiến lược nối liền 2 miền Nam Bắc, hội đủ các yếu tố thiên thời địa lợi nhân hòa có thể xây dựng thành các căn cứ địa chiến lược lâu dài cho khu vực miền Trung và các nước Đông Dương. Địa bàn hiểm trở với núi rừng trùng điệp liên hoàn giữa các địa phương và các vùng chiến lược, tiến có thể công, thoái có thế thủ, thuận lợi cho hoạt động chiến tranh nhân dân. Lực lượng chủ lực nếu làm chủ được Trung Trung Bộ sẽ có điều kiện chia cắt lực lượng địch ở các tỉnh miền Trung và Sài Gòn, tạo điều kiện để tiến công và nắm giữ Tây Nguyên. Do vậy, ngay từ mùa Hè năm 1958, Liên khu V đã ra Nghị quyết về xây dựng căn cứ địa cách mạng ở miền Tây các tỉnh đồng bằng Khu V. Tóm lại, Trung Trung Bộ có địa thế hiểm trở với núi rừng trùng điệp kín đáo, liên hoàn tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tiến công và phòng thủ của LLVT. Hơn nữa, cũng rất tiện lợi cho việc cất giấu kho tàng, vũ khí, che giấu, bảo tồn lực lượng và triển khai hoạt động chiến tranh du kích. Tuy nhiên, điều kiện tự nhiên với khí hậu khắc nghiệt, đất đai kém màu mỡ, địa hình chia cắt bởi núi cao, rừng thẳm, địch thường xuyên đánh phá ác liệt lại ở xa sự chi viện của Trung ương đã ảnh hưởng đến hoạt động xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò của căn cứ địa. Đời sống kinh tế của dân cư ở Trung Trung Bộ bao gồm nhiều ngành nghề: nông nghiệp, ngư nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp Song, trình độ sản xuất nói chung còn thấp, chủ yếu là lao động thủ công. Vùng đồng bằng, ruộng đất tương đối phì nhiêu, sản xuất hai vụ lúa một năm. Bên cạnh cây lương thực, nhân dân còn trồng các loại cây công nghiệp: thuốc lá, mía, bông, chè, hồ tiêu Một số nghề thủ 39

41 công: đúc đồng, chế tác đá, mộc, rèn, dệt chiếu, làm mắm, làm đường, làm muối, đóng tàu rất phát triển. Ở ven biển và hải đảo, ngư dân chủ yếu sống bằng nghề chài lưới, đánh bắt thủy hải sản. Tại các đô thị ven biển, hoạt động thương mại, dịch vụ khá phát triển. Sự phát triển đa dạng của các ngành nghề tạo điều kiện cho việc huy động sự đóng góp của nhân dân từ nhiều nguồn khác nhau cho kháng chiến. Ở vùng rừng núi Trung Trung Bộ, đời sống kinh tế mang tính chất tự nhiên, tự túc, tự cấp. Ngoài việc phát rẫy trồng lúa, trỉa bắp, trồng sắn, đồng bào các dân tộc còn khai thác các nguồn lương thực, thực phẩm sẵn có trong tự nhiên. Do kỹ thuật canh tác lạc hậu, tập quán du canh du cư nên năng suất thấp, thường phải chịu cảnh quanh năm thiếu đói từ 4 đến 6 tháng. Mặc dù đời sống còn nhiều khó khăn, song đồng bào vẫn hăng hái tham gia xây dựng, bảo vệ căn cứ địa. Nhờ đó, các căn cứ đã vượt qua được những giai đoạn đầy cam go, thử thách của chiến tranh. Mặc dù trình độ lực lượng sản xuất còn thấp nhưng Trung Trung Bộ là địa bàn có tiềm năng kinh tế trên các lĩnh vực nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp, thủ công nghiệp. Điều này tạo thuận lợi cho việc huy động các nguồn lực phục vụ kháng chiến, góp phần hỗ trợ hoạt động xây dựng căn cứ địa cách mạng. Về xã hội, Trung Trung Bộ là địa bàn cư trú của nhiều cộng đồng dân cư với những đặc điểm xã hội đa dạng ở các vùng miền. Ở đây, người Kinh chiếm 95%, các dân tộc thiểu số là Cơtu, Xêđăng, Cor, Hrê, BaNa, Chăm chiếm 5%. Trong kháng chiến chống Mỹ, vùng này có khoảng hơn 3 triệu người. Dân số ở Trung Trung Bộ phân bố không đồng đều. Người Kinh, người Hoa chủ yếu tập trung ở vùng đồng bằng. Đồng bào dân tộc thiểu số sống rải rác ở vùng núi thuộc miền Tây Trung Trung Bộ. Tuy có nguồn gốc hình thành từ nhiều địa bàn khác nhau nhưng nhìn chung cộng đồng cư dân ở đây giàu lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, bền bỉ trong gian khó, cần cù trong lao động, đoàn kết trong đấu tranh. Đây là điểm lợi thế trong việc xây dựng và bảo vệ các căn cứ địa. Song, đặc điểm xã hội cũng có một số bất lợi đối với vấn đề xây dựng căn cứ địa với quy mô lớn, đặc biệt là ở miền rừng núi mật độ dân cư thưa thớt, trình độ dân trí thấp, nhiều phong tục tập quán lạc hậu còn tồn tại trong đời sống xã hội, gây khó khăn cho công tác tuyên truyền, vận động của Đảng. 40

42 Trong đời sống tinh thần của các dân tộc ở Trung Trung Bộ tồn tại nhiều tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Thờ cúng tổ tiên, ông bà là tín ngưỡng truyền thống của người Kinh. Bên cạnh đó, cũng có một bộ phận nhân dân theo Đạo Phật và Thiên Chúa. Trong quan niệm của đồng bào các dân tộc miền núi thì mọi vật đều có thần linh. Hằng năm, trong các dịp lễ hội, đồng bào thường tổ chức lễ cúng thần linh, mong các thần phù hộ cho mùa màng tốt tươi, kinh tế phát triển, đời sống ấm no. Mặc dù có những tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau nhưng các dân tộc đều hướng vào việc tôn trọng các vị anh hùng dân tộc, những người có công lập làng, giữ đất. Đây là điều kiện thuận lợi để Đảng xây dựng khối đoàn kết các cộng đồng dân tộc, tuyên truyền vận động nhân dân tham gia xây dựng và bảo vệ căn cứ địa cách mạng. Tuy nhiên, lợi dụng sự đa dạng về tín ngưỡng, tôn giáo của các dân tộc, đặc biệt là ở các vùng cao, các thế lực xâm lược và chính quyền tay sai đã tìm cách lợi dụng, lôi kéo, gây chia rẽ khối đoàn kết dân tộc. Ở miền núi Liên khu V, Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện thủ đoạn xảo quyệt nhằm gây xích mích giữa dân tộc Kinh với đồng bào Thượng bằng cách: Tổ chức cho đồng bào Kinh trong các dinh điền đi ăn cắp tài sản, lấy hoa màu của đồng bào Thượng, tổ chức đồng bào Thượng giết trâu bò của đồng bào Kinh, thâm độc hơn nữa chúng xúi giục đồng bào Kinh làm những việc để va chạm đến phong tục tập quán của đồng bào Thượng. Dùng người dân tộc này cai trị người dân tộc khác, dùng binh lính của dân tộc này đàn áp bắt giết dân tộc khác [162, tr ]. Vì vậy trong công tác giáo dục, vận động đối với đồng bào các dân tộc miền núi phải hết sức khéo léo, mềm dẻo, tôn trọng phong tục tập quán của họ. Trong lịch sử hình thành, phát triển của mình, đồng bào các dân tộc đã dũng cảm vùng lên chống lại ách áp bức bóc lột của chế độ thực dân phong kiến đồng thời luôn thể hiện tinh thần đoàn kết cộng đồng, cần cù trong lao động sản xuất, bền bỉ chống chọi để vượt qua những hạn chế của điều kiện tự nhiên. Qua quá trình đấu tranh đã hình thành nên tính cách đặc trưng của cư dân miền núi Trung Trung Bộ đó là: trung thực, kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống cường quyền, áp bức, 41

43 yêu chuộng hòa bình, tự do, có tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, thủy chung sâu sắc. Từ khi được giác ngộ cách mạng, đồng bào một lòng đi theo Đảng và Bác Hồ. Những nhân tố này là điều kiện cực kỳ thuận lợi cho hoạt động xây dựng căn cứ địa cách mạng ở miền rừng núi. Tuy nhiên, sự phân bố dân cư thưa thớt, trình độ dân trí thấp, nhiều phong tục tập quán lạc hậu còn tồn tại trong đời sống đồng bào, các thủ đoạn chia rẽ, chống phá của địch cũng gây những bất lợi đối với quá trình xây dựng và bảo vệ căn cứ địa cách mạng. Trong cộng đồng dân cư đa dạng ở Trung Trung Bộ đã có sự phân hóa sâu sắc về mặt cơ cấu giai cấp xã hội. Ở đồng bằng và đô thị, trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, các giai cấp cơ bản trong xã hội gồm có địa chủ, nông dân, công nhân, tư sản, tiểu tư sản. Khác với đồng bằng, ở vùng rừng núi, xã hội của các dân tộc thiểu số Trung Trung Bộ, sự phân hóa giai cấp, phân hóa giàu nghèo chưa diễn ra rõ nét và khá chậm chạp. Về tổ chức, làng là một cộng đồng, một số người sống trong một phạm vi đất đai nhất định có quan hệ mật thiết với nhau trong sản xuất, phong tục tập quán, giao dịch sinh hoạt hàng ngày. Chủ yếu là ở làng tự quản trị giữa nhân dân với nhau không phải bằng luật pháp mà là bằng phong tục tập quán [133, tr. 10]. Thường trong mỗi làng có nhiều người có quan hệ cùng huyết thống. Về cơ bản, quan hệ trong các gia đình đã chuyển sang chế độ phụ hệ. Tuy nhiên, vai trò của người phụ nữ vẫn rất quan trọng, đặc biệt là trong hoạt động sản xuất nương, rẫy, nội trợ. Đứng đầu làng là các chủ làng, già làng. Họ là những người có uy thế chính trị trong làng, nắm giữ và chấp hành phong tục tập quán trong làng, có kinh nghiệm trong sản xuất, hiểu biết về luật tục, có trách nhiệm trong việc quyết định chọn đất lập làng, chọn nguồn nước, chọn vùng rẫy canh tác, cúng tế thần linh, giải quyết các vụ việc tranh chấp, phân xử những việc vi phạm đến tập quán. Trong kháng chiến, các già làng có vai trò quan trọng trong việc vận động, thuyết phục đồng bào các dân tộc đấu tranh chống địch dồn dân vào các khu tập trung, xây dựng các làng bí mật, lập cứ trong núi. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thực hiện chính sách chia để trị, mục đích của thực dân Pháp là chia rẽ giữa đồng bào dân tộc với người Kinh, chia 42

44 rẽ trong nội bộ các dân tộc miền núi. Sau này, đế quốc Mỹ tiếp tục tiến hành những thủ đoạn hết sức thâm độc về chính trị, kinh tế, xã hội nhằm chia rẽ, lôi kéo, khống chế đồng bào, đẩy mạnh việc phát triển các tổ chức phản động ở miền núi. Thậm chí, ở một số nơi, địch còn sử dụng vật chất và tôn giáo để mê hoặc nhân dân. Sau khi hòa bình được lập lại không lâu, vợ chồng mục sư người Mỹ là Smith và mục sư Kiều Toản đã có mặt ở huyện Giằng (thuộc miền núi tỉnh Quảng Nam). Cùng với việc xây dựng một ngôi nhà thờ ở thôn Tài Mộc, họ đã tiến hành xâm nhập vào các bản làng thuộc xã Bến Yên, dùng của cải và kinh thánh để mua chuộc, mê hoặc quần chúng. Mục đích của những nhà truyền giáo này không ngoài việc phát triển đạo Tin lành và làm tai mắt cho Mỹ Diệm trong chặng đường đầu xâm nhập vào một vùng của Trường Sơn nổi tiếng bất khuất [75, tr. 196]. Những chính sách, thủ đoạn xảo quyệt của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ tuy không khuất phục được quần chúng, không làm lung lay ý chí của họ nhưng cũng gây không ít khó khăn cho quá trình củng cố và mở rộng căn cứ địa cách mạng. Hiểu rõ được bản chất của kẻ thù thông qua sự giác ngộ của cán bộ cách mạng, nhân dân Trung Trung Bộ vẫn giữ vững niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, phát huy cao độ tinh thần yêu nước, bất khuất, kiên cường, đoàn kết chống xâm lược, đóng góp sức mình xây dựng và bảo vệ căn cứ. Về xã hội, trình độ phát triển của các dân tộc ở Trung Trung Bộ chênh lệch theo từng vùng miền. Đặc điểm kinh tế, xã hội đa dạng, chưa tương đồng trong hệ thống xã hội đang chịu sự chi phối của các thế lực xâm lược, dân số cư trú đông đúc ở đồng bằng nhưng lại thưa thớt ở miền núi là những khó khăn ảnh hưởng đến việc xây dựng, bảo vệ căn cứ địa. Tuy nhiên, nhân dân Trung Trung Bộ có tinh thần yêu nước quật khởi, giàu truyền thống đấu tranh chống áp bức, bất công, luôn đi đầu trên trận tuyến chống xâm lược chính là những điều kiện thuận lợi cơ bản để xây dựng và bảo vệ căn cứ địa cách mạng Truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Trung Trung Bộ Lịch sử hình thành và phát triển của các địa phương ở Trung Trung Bộ đã hun đúc nên những truyền thống văn hóa, trong đó tiêu biểu là truyền thống yêu nước, chống áp bức, bất công, chống xâm lược. 43

45 Khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam lần thứ nhất, nhân dân Trung Trung Bộ đã anh dũng đứng lên đánh Pháp. Quân dân Đà Nẵng sát cánh cùng quân đội triều đình nhà Nguyễn tích cực chặn đánh quân địch ngay khi chúng vừa xâm nhập. Với một lực lượng tham chiến hùng hậu, gồm 16 chiến hạm trang bị đại bác, tổng quân số lính Âu Phi, lại thêm 2 đại đội lính bản xứ gồm các giáo dân phản động, bọn thổ phỉ và dân phu Tàu, thế nhưng sau 18 tháng 22 ngày giao chiến tại Đà Nẵng ( đến ), liên quân Pháp Tây Ban Nha bị tổn thất nặng nề, buộc phải bỏ mặt trận Đà Nẵng, để lại một tháp hài cốt chứa ngàn thánh giá [132, tr. 50]. Năm 1885, phong trào Cần Vương được phát động, các tỉnh Trung Trung Bộ là những địa phương đầu tiên trong cả nước hưởng ứng phong trào. Quảng Nam có phong trào Nghĩa hội do Trần Văn Dư, Nguyễn Duy Hiệu, Phan Bá Phiến, Trần Đỉnh, Nguyễn Thành, Nguyễn Hanh, Ông Ích Thiện lãnh đạo. Các ông cùng nghĩa quân dựa vào thung lũng Trung Lộc (Quế Sơn), nơi có núi cao bao bọc để xây dựng căn cứ đánh Pháp. Ở Quảng Ngãi nổi lên phong trào chống Pháp của Lê Trung Đình, Nguyễn Tự Tân, Nguyễn Bá Loan, Tôn Tường, Thái Thú, Lê Vịnh. Ở Bình Định, Đào Doãn Địch, Mai Xuân Thưởng, Tăng Bạt Hổ lập căn cứ kháng chiến tại vùng núi Lộc Đổng (phía Tây tổng Phú Phong nay thuộc thôn Phú Hiệp, thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn) để chống Pháp. Ở Phú Yên, cử nhân Lê Thành Phương và các nhà yêu nước Nguyễn Hào Sự, Nguyễn Thị Vân Đương, Lê Thành Bính, Đặng Đức Vĩ, Tán Trương, Tán Lý, Tán Thiều lập căn cứ ở núi Một, núi Chóp Vung, núi Hòn Đồn, núi La Hiên, núi Sầm để tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp. Dựa vào vùng rừng núi phía Tây của tỉnh, nghĩa quân xây dựng các căn cứ địa Vân Hòa, Hà Đang Thồ Lồ trở thành những căn cứ sơn phòng làm nơi rút lui, bảo toàn lực lượng. Để bảo vệ căn cứ nằm sâu trong đất liền, nghĩa quân Cần Vương ở Phú Yên còn xây dựng một hệ thống phòng thủ vững chắc ở bờ biển nhằm chặn đánh quân Pháp đổ bộ bằng đường biển. Hệ thống phòng thủ ven biển và các căn cứ sơn phòng ở miền Tây đã trở thành hậu cứ vững chắc cho phong trào Cần Vương ở Phú Yên. 44

46 Đầu thế kỉ XX, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản diễn ra sôi nổi ở nhiều địa phương trên cả nước. Trung Trung Bộ trở thành nơi khởi phát của phong trào Duy Tân, Duy Tân Hội và phong trào Đông Du do các sĩ phu yêu nước tiêu biểu: Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Phan Thúc Duyện, Lê Bá Trinh, Nguyễn Thành lãnh đạo. Với nhiệm vụ chính là chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh, phong trào Duy Tân diễn ra trên nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội dưới nhiều hình thức phong phú như lập các Hội tóc ngắn, Hội học, Hội thương, Hội nông Bắt đầu từ làng Phú Lâm (nay thuộc xã Tiên Sơn, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam), chỉ trong một thời gian ngắn, phong trào lan rộng ra các địa phương Trung Trung Bộ. Những làng Duy Tân điển hình của Quảng Nam bấy giờ là Phú Lâm, Diên Phong và Phúc Bình. Nhằm mở mang tri thức cho nhân dân, truyền bá tư tưởng dân quyền chống đế quốc và phong kiến, khơi dậy lòng yêu nước, thực hiện nếp sống văn minh, nhiều trường học được lập ra để dạy chữ Quốc ngữ, toán, khoa học thường thức Các nhà nho và phú hào có tư tưởng tiến bộ bỏ tiền ra lập thương hội, mở xưởng sản xuất thủ công. Phong trào Duy Tân thể hiện tinh thần cương quyết chống lại cường quyền nô dịch, khát vọng xây dựng một nước Việt Nam độc lập, tiến bộ của nhân dân Trung Trung Bộ. Tổ chức Duy Tân Hội và phong trào Đông Du ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định đóng vai trò tích cực trong cuộc vận động đưa hàng trăm thanh niên Việt Nam sang Nhật du học. Tư tưởng duy tân cải cách của các sĩ phu yêu nước trong phong trào Duy Tân được truyền bá vào quần chúng đang bị ách áp bức, bóc lột nặng nề của đế quốc thực dân đè nặng đã làm bùng phát một phong trào đấu tranh mới hết sức quyết liệt phong trào chống sưu thuế năm Khởi đầu từ Đại Lộc (Quảng Nam), với hàng trăm quần chúng kéo đến bao vây Tòa Công sứ Pháp ở Hội An đòi trừng trị tên tri huyện độc ác và xin giảm xâu, phong trào nhanh chóng lan rộng ra các địa phương ở Trung Trung Bộ đồng thời cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào chống sưu thuế ở các tỉnh Trung Kỳ. Phong trào thể hiện tinh thần anh dũng quật khởi của nhân dân Trung Trung Bộ trong cuộc đấu tranh chống cường quyền áp bức, giành độc lập, tự do. 45

47 Sự đàn áp dã man của thực dân Pháp đối với phong trào chống sưu thuế năm 1908 đã không khuất phục được những người con yêu nước ở Trung Trung Bộ. Năm 1916, các sĩ phu Thái Phiên, Trần Cao Vân ở Quảng Nam và tổ chức Việt Nam Quang Phục Hội lại bí mật chuẩn bị cho một cuộc khởi nghĩa với sự liên kết tham gia của các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Thừa Thiên Huế, Quảng Trị. Tuy nhiên, kế hoạch bị lộ, khởi nghĩa không thành. Mặc dù thất bại nhưng kế hoạch khởi nghĩa là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, quật khởi của nhân dân Trung Trung Bộ. Ở vùng rừng núi Trung Trung Bộ, phong trào đấu tranh chống Pháp của đồng bào các dân tộc diễn ra mạnh mẽ. Năm 1900, Võ Trứ và Trần Cao Vân dựa vào núi La Hiên (Phú Yên) xây dựng căn cứ chống Pháp. Cuộc khởi nghĩa của hai ông thu hút được sự tham gia của hàng ngàn đồng bào Kinh Thượng thuộc các huyện Đồng Xuân, Sơn Hòa, Tuy An. Từ năm 1900 đến năm 1925, đồng bào các dân tộc Hrê, Cadong, Cor ở các huyện miền núi Ba Tơ, Minh Long, Sơn Hà, Trà Bồng (Quảng Ngãi) dưới sự chỉ huy của Đinh Đoàn, Đinh Đầu, Đinh Tăm, Đinh Mẫn, Đinh Tôm, Đinh Boóc nổi dậy đấu tranh chống Pháp và tay sai đánh thuế và bắt dân đi xâu. Trong những năm đồng bào Ba Na, Hrê, Chăm ở các huyện Vĩnh Thạnh, An Lão, Vân Canh (Bình Định) dưới sự lãnh đạo của Trương Các, Nguyễn Thiện, Ưng Văn Lê, Ưng Văn Diện, Hoàng Văn Chùy, Nguyễn Văn Tính, Võ Trứ nổi dậy chống sưu cao thuế nặng, chống bắt lính, chống thực dân Pháp lên vùng rừng núi chiếm đất để thăm dò vàng, cô ban Tuy bị thực dân Pháp dập tắt nhưng các cuộc đấu tranh tiêu biểu cho tinh thần yêu nước, ý chí chống xâm lược bảo vệ nền độc lập, tự do của đồng bào các dân tộc miền núi Trung Trung Bộ. Đầu những năm 20 của thế kỉ XX, chủ nghĩa Mác Lênin được truyền bá vào Việt Nam. Trung Trung Bộ trở thành khu vực sớm tiếp nhận hệ tư tưởng tiến bộ của thời đại. Trong những năm , các tổ chức tiền thân của Đảng: Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Tân Việt Cách mạng Đảng xuất hiện ở Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Năm 1929, các Đảng bộ Cộng sản đã được hình thành ở Trung Trung Bộ. Tháng , một số chi bộ Dự bị Cộng sản ra đời ở Quảng Ngãi. Đến cuối năm 1929, Đảng bộ Đông Dương Cộng sản Đảng Quảng Nam và Thị uỷ lâm thời Đông Dương Cộng sản Đảng Đà Nẵng được 46

48 thành lập. Tại Bình Định, trong tháng 3 và tháng , chi bộ Cộng sản nhà máy đèn Qui Nhơn và chi bộ huyện Hoài Nhơn được hình thành. Tháng , chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ở thôn Đồng Bé, xã Xuân Long, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Sự ra đời của các chi bộ Đảng không chỉ đánh dấu bước ngoặt trong phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân Trung Trung Bộ mà còn tạo điều kiện thuận lợi để đưa phong trào chuyển sang một giai đoạn mới. Sau hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930, các tổ chức Đảng ở các địa phương thuộc Trung Trung Bộ đều nhất trí chuyển sang gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào cách mạng đã diễn ra hết sức quyết liệt trên địa bàn Trung Trung Bộ. Trong dịp kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động , cờ đỏ búa liềm và truyền đơn cách mạng xuất hiện trên các đường phố, trong rạp chiếu bóng Nguyễn Khoa Lệ (nay là rạp 29-3 Đà Nẵng), thậm chí ngay trên nóc Sở Cảnh sát thành phố, trước dinh Tổng đốc Quảng Nam ở huyện Điện Bàn. Tỉnh ủy Quảng Nam tổ chức nhiều buổi diễn thuyết kêu gọi quần chúng đứng lên làm cách mạng đánh đổ thực dân phong kiến, ủng hộ phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Từ cuối tháng đến tháng , nhân dân các huyện Đức Phổ, Sơn Tịnh, Mộ Đức, Tư Nghĩa, Bình Sơn, Ba Tơ, Nghĩa Hành và huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) nổi dậy kéo về các huyện lỵ đập phá huyện đường, nhà lao, giải thoát tù chính trị, buộc thực dân Pháp và chính quyền tay sai phải giải quyết các yêu sách của nhân dân. Nhiều cuộc tổng bãi công, bãi thị diễn ra trong toàn tỉnh. Truyền đơn, biểu ngữ, cờ đỏ búa liềm tung bay khắp nơi. Mặc dù thực dân Pháp đàn áp, khủng bố hết sức dã man nhưng Quảng Ngãi được xem là nơi có phong trào mạnh nhất ở phía Nam Trung Kỳ [77, tr. 229]. Nối tiếp Quảng Ngãi, từ tháng đến tháng , Tỉnh ủy Phú Yên tổ chức nhiều cuộc mít tinh kêu gọi nhân dân đứng lên chống chế độ thực dân phong kiến, chống khủng bố trắng ở Nghệ Tĩnh và Quảng Ngãi. Phong trào đấu tranh của nhân dân Bình Định được đánh dấu bằng đỉnh cao là cuộc biểu tình vũ trang đêm ngày 22 rạng ngày của nông dân với sự bảo vệ của lực lượng tự vệ đỏ từ Hoài Nhơn kéo về phủ lỵ Bồng Sơn. Bất chấp sự đàn áp tàn khốc của thực dân Pháp và tay sai làm nhiều người bị bắt và hàng 47

49 trăm quần chúng bị thương, đoàn biểu tình vừa đi vừa hô vang các khẩu hiệu phản đối chính sách khủng bố trắng của thực dân Pháp, vừa kêu gọi binh lính địch đứng về phía nhân dân, đòi các quyền dân tộc dân chủ. Cuộc biểu tình được xem là một đòn tiến công bất ngờ và quyết liệt, làm rung chuyển bộ máy chính quyền cơ sở của đế quốc phong kiến tại nhiều làng xã Hoài Nhơn, là đỉnh cao, tiêu biểu cho khí thế tiến công của công nhân và nông dân Bình Định trong cao trào [74, tr ]. Phong trào cách mạng ở Trung Trung Bộ tuy bị thực dân Pháp đàn áp nhưng nó khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và sức mạnh của quần chúng cách mạng nơi đây. Năm 1937, miền Tây Phú Yên nổ ra phong trào chống làm xâu, đòi giảm thuế đinh, do Săm Brăm (hội Chàm) khởi xướng. Phong trào mang màu sắc tôn giáo và còn được gọi là phong trào Nước Xu bởi vì những người tham gia đều nộp một đồng xu và tin rằng nếu uống nước thần do Săm Brăm lấy từ con suối linh thiêng thì đạn Pháp bắn không chết. Được nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ, từ miền núi huyện Sơn Hòa, phong trào lan rộng khắp miền núi Trung Trung Bộ và Tây nguyên. Nhân dân không đi nộp thuế, không đi xâu, dời làng, bất hợp tác với Pháp Từ đó hình thành những làng võ trang chống Pháp kéo dài cuộc chiến đấu đến Cách mạng Tháng Tám năm Truyền thống yêu nước, quật khởi của nhân dân Trung Trung Bộ là cơ sở thuận lợi cho việc xây dựng căn cứ địa trong cuộc vận động Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong quá trình vận động Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp Trong cuộc vận động Cách mạng Tháng Tám năm 1945, các địa phương ở Trung Trung Bộ tích cực xây dựng LLVT và căn cứ địa. Trước ngày Tổng khởi nghĩa, Trung Trung Bộ xây dựng các đội du kích: Vũ Hùng (Quảng Nam), Ba Tơ (Quảng Ngãi) cùng hàng ngàn đội viên tự vệ ở các địa phương. Tỉnh Quảng Nam xây dựng căn cứ ở Phú Túc, Ô Rây, Đồng Xanh, Đồng Nghệ (Hòa Vang), Làng Rô, Đhaprang (nguồn Phước Sơn), Bù Ngót (Quế Sơn). Từ vùng núi Cao Muôn, đội du kích Ba Tơ (Quảng Ngãi) tiến về đồng bằng, xây dựng căn cứ tại Chiến khu Vĩnh 48

50 Tuy (Sơn Tịnh) và Chiến khu Núi Lớn (Mộ Đức). Tỉnh Bình Định cũng chuẩn bị hậu cứ ở An Đỗ, An Sơn (Hoài Nhơn), Lộc Giang, Lộc Bài (Hoài Ân), Đại An, Đại Bình (An Nhơn). Trên cơ sở lực lượng tự vệ và căn cứ đã được xây dựng, Đảng bộ các tỉnh đã chủ động nắm bắt thời cơ cách mạng, nhanh chóng phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền thắng lợi ở hầu hết địa phương. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, quân dân Trung Trung Bộ đã tích cực xây dựng căn cứ để tiến hành kháng chiến lâu dài. Nhiều căn cứ địa cách mạng được hình thành, trở thành nơi đóng trú của các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo cấp khu, tỉnh, huyện; nơi xây dựng, huấn luyện LLVT các địa phương, nổi bật là các căn cứ: Khu Sông Đà (Mật danh B36): Được thành lập vào tháng theo chủ trương của Khu ủy khu V và Ủy ban kháng chiến hành chính miền Nam Trung Bộ. Đây là khu căn cứ nổi bao gồm tất cả ngư dân và những người sống bằng nghề sông biển từ Cẩm Lệ xuống dọc sông Hàn, vòng quanh qua Vũng Thùng với khoảng dân, trong đó có 2 vạn ghe và cư dân trên bờ, tạo thành 2 xã Lỗ Sài và Hóa Sơn thuộc xã Hòa Cường. Từ khi thành lập đến khi Hiệp định Genève năm 1954 được ký kết, một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng bộ và nhân dân khu căn cứ nổi Sông Đà là nắm chắc tình hình quân Pháp thông qua tin tức và hoạt động ở cảng, các bến bãi kho tàng, thực hiện nhiệm vụ phá hoại tiềm lực kinh tế, quân sự của quân Pháp; lấy của địch phục vụ kháng chiến. Hình thức phá hoại có nhiều cách như: làm đứt xích cần cẩu, dây choàng, đánh rơi các kiện hàng xuống sông biển, chọc thủng bao bì để hàng rơi vãi trong khi bốc dỡ. Đối với vũ khí, thuốc men, thực phẩm có bao bì bằng kim loại hay thủy tinh khi đánh rơi xuống biển, anh chị em công nhân tìm cách đánh dấu. Sau đó, lựa lúc địch sơ hở tiến hành trục vớt đưa về phục vụ kháng chiến. Hơn thế nữa, từ cuối năm 1953, Khu Sông Đà còn là nơi diễn ra phong trào đấu tranh quyết liệt của quần chúng đòi thực hiện các yêu cầu dân sinh: chống Pháp đổ sắt thép xuống sông biển, miễn giảm thuế, được tự do ra biển làm ăn kết hợp các khẩu hiệu chính trị: Chấm dứt chiến tranh; Nước Việt Nam hòa bình, độc lập. Với cơ sở mạnh, trong những năm , nhiều ghe thuyền của 49

51 ngư dân Sông Đà trở thành nơi nuôi giấu cán bộ vào hoạt động, trong đó có một số cán bộ cao cấp: Trương Chí Cương Khu ủy viên khu V, Bí thư Liên Tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng, các cán bộ của Thành ủy Đà Nẵng: Trần Nhành, Trần Hữu Cử Chiến khu Trung Man: Cuối năm 1946, khi cuộc kháng chiến toàn quốc đang diễn ra quyết liệt trong thành phố Đà Nẵng, để chuẩn bị kháng chiến lâu dài, Huyện ủy Hòa Vang họp hội nghị chủ trương xây dựng Chiến khu Trung Man ở miền núi phía Tây của huyện. Huyện ủy thành lập Ban cán sự Tây Bắc Hòa Vang gồm các ông Trần Tiếp, Chế Viết Đổng, Nguyễn Sâm, Phạm Khương, Cónh Thung, Cónh Liệu do Trần Tiếp Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy làm Bí thư. Huyện vận động đồng bào dân tộc, cán bộ chuyển hàng chục tấn lương thực và nhiều tài liệu quan trọng, xây dựng chiến khu ở vùng Trung Man. Từ năm 1950, chiến khu Trung Man và vùng rừng núi Tây Bắc Hòa Vang không những là chỗ dựa của lực lượng cách mạng Hòa Vang mà còn là địa bàn đứng chân của Thành ủy Đà Nẵng, là căn cứ địa quan trọng của bộ đội chủ lực khu và tỉnh. Miền Tây Hòa Vang là nơi huyện, tỉnh đặt các cơ quan và trại sản xuất: BTL tiền phương Trung đoàn 96, trại sản xuất Phan Cửu Vinh của huyện Hòa Vang, trại sản xuất Nguyễn Huệ của Ủy ban kháng chiến tỉnh, trại sản xuất Tu Bhầu của Tỉnh ủy, xưởng cơ khí chế lựu đạn và sửa chữa súng của Tỉnh đội, trại sản xuất của Trung đoàn 96 và Trung đoàn 93. Đồng bào Cơtu ở đây đã có nhiều đóng góp đáng kể trong việc cung cấp lương thực, thực phẩm, bảo vệ an ninh căn cứ địa. Căn cứ Tiên Phước: Từ cuối năm 1947, huyện Tiên Phước trở thành căn cứ địa của tỉnh Quảng Nam. Nhiều cơ quan lãnh đạo và cơ quan chuyên môn của tỉnh về đóng tại huyện nhà. Tỉnh ủy đứng chân ở thôn 2 và thôn 3 xã Tiên Sơn. Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh ban đầu đóng ở Tiên Châu, Tiên Kỳ, về sau đóng ở xã Tiên Phong. Trường Thiếu sinh quân đóng ở thôn 1 xã Tiên Phong ( ). Tại Tiên Phước còn có các cơ quan, đơn vị: trại sản xuất, công binh xưởng, xưởng giấy, xưởng hóa chất, bệnh viện quân dân y, kho thóc nông nghiệp của tỉnh Công binh xưởng QB.150 đóng trên địa bàn xã Tiên Cảnh, là một cơ sở quốc phòng khá lớn với trên 300 công nhân quân giới. Mặc dù phải nhiều lần di chuyển địa điểm do 50

52 bị quân Pháp phát hiện và ném bom nhưng đơn vị này vẫn tồn tại và hoạt động cho đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp, sau đó chuyển ra miền Bắc. Xưởng quân giới của Tỉnh đội sản xuất lựu đạn cũng đóng ở khu vực Tiên Thọ, Tiên Cảnh. Xưởng sản xuất giấy của Ban Trợ cấp tự túc tỉnh đóng ở thôn 3 xã Tiên Cảnh. Bên cạnh vai trò là căn cứ địa của tỉnh, Tiên Phước còn thực hiện nghĩa vụ quốc tế đối với nước bạn Lào và Campuchia. Từ khi Khu đặc biệt Hạ Lào trực thuộc BTL Liên khu V và Ban Cán sự Đông Bắc Miên được thành lập vào tháng và đầu năm 1950, Tiên Phước trở thành hậu phương, căn cứ địa của cách mạng Lào và Đông Bắc Miên. Một trung đoàn bộ đội Hạ Lào đóng quân ở các xã Tiên Phong, Tiên Mỹ, Tiên Kỳ. Trong những năm , xã Tiên Phong là nơi đóng cơ quan phòng Biên chính Hạ Lào. Tại đây còn có trường Thiếu sinh quân của các bạn Lào. Quân đội Campuchia cũng có thời gian đứng chân ở Tiên Phước. Bộ đội Việt Nam đã hết lòng giúp đỡ các đơn vị bộ đội bạn trong việc huấn luyện quân sự. Năm 1952, mặc dù nạn đói lớn xảy ra nhưng nhân dân Tiên Phước vẫn chu cấp đầy đủ lương thực, thực phẩm cho các đơn vị bộ đội Lào và Campuchia. Khu kháng chiến Hạ Lào: Tháng , thực hiện thỏa thuận giữa Chính phủ độc lập Lâm thời It xa ra (Lào) và Ủy ban Kháng chiến miền Nam Trung Bộ về việc giúp nước bạn thành lập khu kháng chiến, tỉnh Quảng Nam vinh dự được chọn trở thành nơi đứng chân của Khu kháng chiến Hạ Lào. Khu kháng chiến Hạ Lào do ông Xi Thôn Com Ma Đăm làm Khu trưởng, Xổm Man Nô Viêng và Đoàn Huyên của Việt Nam làm Phó Trưởng khu; đồng thời được xây dựng trên địa bàn rộng lớn bao gồm các xã Tam Dân, Tam Thái, Tam Đại, Tam An, Tam Phước (Phú Ninh) và xã Tam Ngọc (thành phố Tam Kỳ) ngày nay. Căn cứ đầu não của khu kháng chiến đặt tại vườn nhà ông Nguyễn Soạn (thôn Thạnh Đức, xã Tam Dân cũ, nay thuộc thị trấn Phú Thịnh, Phú Ninh). Từ khi thành lập đến năm 1951, đây là nơi tập luyện chiến đấu, học tập chính trị, quân sự; nơi cung cấp vũ khí lương thực, quân trang quân dụng cho chiến trường Lào. Mỗi đợt huấn luyện có trên 600 chiến sĩ của Lào, được nhân dân xã Tam Dân giúp đỡ chỗ ăn, ở, sinh hoạt. Khu kháng chiến Hạ Lào ở Tam Kỳ là biểu tượng cao đẹp của tình hữu nghị giữa hai dân 51

53 tộc Việt Lào trong kháng chiến chống Pháp. Vào cuối năm 1951, Chính phủ liên hiệp kháng chiến và Ủy ban Trung ương Mặt trận Lào It xa ra được thành lập, phong trào cách mạng Lào phát triển mạnh mẽ, có căn cứ đứng chân trong nước, nên đến đây căn cứ của bạn trên đất Quảng Nam không còn nữa. Căn cứ của đội du kích Ba Tơ: Gồm 3 chiến khu: Cao Muôn (Ba Vinh, Ba Tơ), Núi Lớn (Tây Mộ Đức), Vĩnh Tuy (hay Vĩnh Sơn, Sơn Tịnh) ở tỉnh Quảng Ngãi. Chiến khu Cao Muôn: Sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Ba Tơ, vào giữa tháng , đội du kích Ba Tơ chuyển lên vùng núi Cao Muôn thuộc phía Tây Nam xã Ba Chùa (huyện Ba Tơ) để xây dựng chiến khu, củng cố và phát triển lực lượng. Từ Núi Cao Muôn, đội du kích Ba Tơ thực hiện công tác vận động quần chúng, xây dựng căn cứ địa, đồng thời tranh thủ thời gian chấn chỉnh tổ chức, giáo dục chính trị và huấn luyện quân sự. Eo Chim, Nước Lá, Nước Nẻ, Bến Buôn, Cao Muôn Thượng, Hang Én là những địa bàn mà đội du kích tiến hành hoạt động tuyên truyền, vận động đồng bào Thượng cùng nhau đứng lên đánh đuổi Nhật Pháp, xây dựng tình đoàn kết Kinh Thượng. Thông qua việc nắm các già làng, trưởng bản, chánh tổng, lý hương đội vận động nhân dân giúp đỡ cách mạng và cùng dân làng làm lễ ăn thề không làm cho Nhật, không phản bội nhau. Qua gần 2 tháng tuyên truyền và hoạt động của đội, khắp rừng núi Ba Tơ đâu đâu cũng hừng hực khí thế đánh Nhật, đuổi Tây [143, tr. 73]. Chiến khu Núi Lớn: Sau khi chuyển về hoạt động ở đồng bằng, Đại đội Hoàng Hoa Thám của đội du kích Ba Tơ đứng chân ở Chiến khu Núi Lớn phía Tây huyện Mộ Đức. Tại đây có kho lương thực, lò rèn sản xuất vũ khí vũ trang cho du kích và tự vệ, có nơi ở và làm việc của cơ quan ấn loát, tạp chí Xung Phong làm chức năng giáo dục nội bộ và khuyếch trương ảnh hưởng của đội, cổ vũ phong trào cách mạng trong tỉnh. Tại Chiến khu Núi Lớn, đội du kích Ba Tơ nhanh chóng xây dựng, phát triển lực lượng. Đến đầu tháng , Đại đội Hoàng Hoa Thám đã có 5 trung đội; đồng thời trở thành lực lượng nòng cốt hỗ trợ nhân dân vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền ở các địa phương trong tỉnh Quảng Ngãi. 52

54 Chiến khu Vĩnh Tuy (hay Vĩnh Sơn): Cùng với hoạt động của Đại đội Hoàng Hoa Thám, Đại đội Phan Đình Phùng của đội du kích Ba Tơ do các đồng chí Phạm Kiệt, Võ Thứ... chỉ huy tổ chức xây dựng chiến khu tại Vĩnh Tuy (Tịnh Hiệp, Sơn Tịnh). Ðây là nơi có địa thế núi non hiểm trở và có đầu mối giao thông với các huyện Sơn Hà, Trà Bồng, Minh Long, Tư Nghĩa, Bình Sơn. Tại Chiến khu Vĩnh Tuy, đội du kích Ba Tơ nhanh chóng phát triển lực lượng, đến đầu tháng , Đại đội Phan Đình Phùng có 5 trung đội. Bên cạnh lò rèn sản xuất vũ khí vũ trang cho du kích và tự vệ, ở đây còn xây dựng Xưởng công binh Từ Nhại. Đây là xưởng quân giới đầu tiên của Liên khu V chính thức hoạt động vào tháng Vũ khí chế tạo là lựu đạn, mìn, bom ba càng, sửa chữa súng hỏng hóc từ các chiến trường đưa về và sau này còn chế tạo cả súng SKZ. Sau hơn hai năm hoạt động, tháng , Xưởng Từ Nhại bị máy bay Pháp phát hiện thả bom, bắn phá. Tuy thiệt hại không lớn nhưng để đảm bảo an toàn, một thời gian sau đó, xưởng sơ tán đến nơi khác và lại tiếp tục sản xuất vũ khí, cung cấp cho các chiến trường miền Nam đến ngày kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp. Căn cứ Khu ủy Khu V: Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, để giữ vững vùng tự do và chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài, qua chuyến thị sát tình hình ở chiến trường Khu V, Khu ủy chọn xây dựng căn cứ tại thôn Thế Thạnh, xã Ân Thạnh, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định. Diện tích khu căn cứ rộng m². Tại đây, lãnh đạo Khu ủy cũng như đại diện Đảng và Chính phủ tại Nam Trung Bộ đã tổ chức các cuộc họp quyết định những vấn đề quan trọng đối với cuộc kháng chiến chống Pháp ở Liên khu V. Ngôi nhà của gia đình cụ Nguyễn Trọng Phủ ở thôn Thế Thạnh, xã Ân Thạnh được chọn là nơi đóng và làm việc của cơ quan Khu ủy khu V. Cũng tại đây, tháng 4 và tháng , ông Phạm Văn Đồng, đại diện Trung ương Đảng và Chính phủ, triệu tập Hội nghị quân dân chính Đảng và Hội nghị Quân sự Nam Trung Bộ, vạch ra những chủ trương và biện pháp cụ thể cho cuộc kháng chiến toàn khu. Được sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng, Liên Khu ủy khu V, trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, quân và dân Ân Thạnh cũng như toàn huyện Hoài Ân đạt được những thành quả đáng tự hào: phòng chống đói, cứu đói; tăng gia sản xuất đảm bảo lương thực, thực phẩm; xóa nạn mù chữ; xây dựng 53

55 hậu phương vững chắc, bảo đảm an toàn tuyệt đối cho Căn cứ Khu ủy và các cơ quan của Khu V, góp phần giữ vững vùng tự do trong thời kỳ gay go ác liệt; xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, huy động và đóng góp nhân tài, vật lực cho kháng chiến; hoàn thành nhiệm vụ hậu phương đối với cả chiến trường Khu V, góp phần đáng kể vào thắng lợi chung của cả nước. Bên cạnh đó, Hoài Ân còn là căn cứ của tỉnh Bình Định trong suốt thời kỳ chống Pháp. Căn cứ Thồ Lồ: Giữa năm 1951, trước tình hình thực dân Pháp xây dựng hệ thống đồn bốt ở vùng giáp ranh giữa hai tỉnh Đắc Lắc và Phú Yên đồng thời tăng cường hoạt động đánh phá ở các huyện miền núi, lấn chiếm, uy hiếp vùng đồng bằng, Tỉnh ủy và Tỉnh đội Phú Yên chủ trương xây dựng căn cứ địa ở xã Thồ Lồ, huyện Đồng Xuân. Địa bàn này có diện tích khoảng 400 km², giáp ranh hai tỉnh Bình Định và Gia Lai. Địa hình của căn cứ rất hiểm trở với núi cao, rừng rậm, sông suối bao bọc xung quanh. Tuy nhiên, từ Thồ Lồ có thể mở nhiều con đường giao liên chiến lược xuyên suốt từ Nam ra Bắc. Hơn nữa, đây cũng là cửa ngõ liên lạc từ tỉnh Phú Yên ra Liên khu V. Thồ Lồ là nơi cư trú của 800 đồng bào Bana thuộc các buôn: Ma Bơi, Ma Hàm, Ma Tí, Ma Quân, Ma Kheo, Suối Cát, Ma Gâm, Ma Gời. Tại Thồ Lồ, sau một thời gian dài trụ bám, Đội công tác 250 do ông Cao Xuân Thiêm phụ trách tổ chức xây dựng chính quyền, đoàn thể cấp xã, buôn; phát động phong trào du kích chiến tranh; vận động nhân dân thực hiện rào làng, làm hầm chông, bố phòng canh gác đề phòng biệt kích, gián điệp xâm nhập; xây dựng và bảo vệ căn cứ. Đầu tháng , trước khi quân Pháp mở cuộc càn quét lớn vào Phú Yên, Đội 250 huy động nhân dân chuẩn bị lán trại, đào hầm, tham gia mở đường từ Thồ Lồ xuống tỉnh và khu, bảo vệ an toàn cho các cơ quan và cơ sở của tỉnh dời lên đây. Ngày , khi lực lượng thủy lục không quân Pháp đổ bộ lên đất Phú Yên, các cơ quan, bệnh viện, kho tàng dự trữ vũ khí, lương thực của tỉnh đã kịp thời chuyển lên buôn Suối Cát và được bảo vệ an toàn. Thồ Lồ là nơi đứng chân an toàn của các cơ quan tỉnh Phú Yên cho đến khi kết thúc cuộc chiến chống Pháp và trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sau này. Đối phương đánh giá Căn cứ Thồ Lồ là nơi mà lực lượng kháng chiến có khả năng giải quyết được 3 yếu điểm 54

56 quan trọng: Nơi thối thủ bất khả xâm phạm, nơi nuôi dưỡng sinh lực của cán bộ, nơi trung tâm của nền kinh tế tự túc suốt thời gian tranh đấu. Ngoài ra, Thồ Lồ còn được xem như là một dưỡng đường bí mật cho bọn cán bộ hoạt động bất hợp pháp trong lúc ốm đau về đây nghỉ ngơi [136, tr. 1]. Tóm lại, các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ được hình thành với sự đa dạng về quy mô, hình thức tổ chức linh hoạt, phù hợp với điều kiện địa lý, dân cư và cơ sở xã hội từng địa phương. Tất cả hợp thành hệ thống liên hoàn, tạo chỗ dựa vững chắc cho cuộc kháng chiến ở địa phương, đảm bảo sự chỉ đạo thống nhất từ Trung ương đến cơ sở. Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ là điểm xuất phát của các LLVT tiến công địch ở nhiều hướng, đồng thời là nơi tập kết đưa đón cán bộ ra Bắc vào Nam. Hơn thế nữa, đây cũng là địa bàn đứng chân của Khu ủy V để trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Liên khu V. Các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ được xây dựng và thực hiện những yêu cầu, nhiệm vụ như nhiều căn cứ địa khác trong cả nước. Tuy nhiên, do đặc điểm chiến trường, điều kiện địa lý tự nhiên, dân cư và xã hội, bên cạnh những điểm tương đồng, các căn cứ ở đây còn có một số đặc điểm: - Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Pháp không chỉ được hình thành trong quá trình kháng chiến chống Pháp mà còn ra đời từ trước khởi nghĩa giành chính quyền (8-1945). Để tiến hành kháng chiến lâu dài, quân dân đã lựa chọn những khu vực có địa thế thuận lợi về địa hình, dân cư, vị trí chiến lược trong việc xây dựng các căn cứ địa. Nhìn chung, các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Pháp được xây dựng chủ yếu ở khu vực miền núi các tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. - Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ được tổ chức linh hoạt, với nhiều quy mô, loại hình phong phú, có căn cứ ở vùng sông biển, có căn cứ ở miền núi, có căn cứ của Khu ủy, có căn cứ mang tính chất quốc tế. Đây là một hệ thống căn cứ độc đáo, tồn tại và phát triển ngay trong lòng địch và ở vùng tự do của Liên khu V, tạo thế bao vây, chia cắt đồng thời uy hiếp địch ở nhiều địa bàn. Nhờ cách thức tổ chức đa dạng, linh hoạt của các loại hình căn cứ, quân dân các địa phương đã tận dụng được những ưu thế về điều kiện tự nhiên, quân sự, kinh tế xã hội, đặc trưng 55

57 vùng miền, động viên được sức mạnh tổng hợp của toàn dân trong xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò của căn cứ đồng thời hoàn thành nghĩa vụ quốc tế trong việc giúp đỡ nước bạn Lào xây dựng căn cứ kháng chiến. - Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ không chỉ là địa bàn đứng chân của các lực lượng lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến; nơi xây dựng, huấn luyện của LLVT, mà còn là nơi tạo thế và lực mới cho cuộc kháng chiến. Các căn cứ: Trung Man, Tiên Phước, Khu kháng chiến Hạ Lào và Khu ủy Khu V trở thành nơi đứng chân an toàn cho LLVT khu, LLVT nước bạn Lào và Khu ủy V trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp. Được hình thành và phát triển trên vùng tự do rộng lớn của Liên khu V, các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ đã kịp thời nhận được sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương và Liên khu V đối với cuộc kháng chiến chống Pháp, đồng thời đảm bảo sự liên lạc thông suốt giữa các địa phương. Các căn cứ địa cách mạng trở thành chỗ dựa vững chắc về mọi mặt của cuộc kháng chiến, góp phần để quân dân tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp trên địa bàn, từ đó tạo cơ sở để bước vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ Quá trình phục hồi căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung bộ ( ) Âm mưu và thủ đoạn xóa bỏ căn cứ địa cách mạng của địch Sau khi Hiệp định Genève được ký kết ( ), đế quốc Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm thi hành chính sách cai trị phát xít, tàn bạo nhằm thực hiện mục tiêu chống phá, tiêu diệt phong trào cách mạng, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của đế quốc Mỹ, thực hiện chia cắt lâu dài Việt Nam. Song song với việc xây dựng, củng cố bộ máy chính quyền các cấp từ Trung ương đến địa phương, phát triển lực lượng quân sự, địch tiến hành khủng bố dã man đối với những người yêu nước, tham gia kháng chiến cũ, thực hiện tố Cộng trên toàn miền Nam. Từ năm 1956, sau khi đánh phá ác liệt vùng đồng bằng Trung Trung Bộ, đối phương tập trung lực lượng đánh phá miền núi. Âm mưu của địch là sử dụng lực lượng quân sự và gián điệp tiến hành dồn dân, chiếm đất, lập dinh điền, cướp bóc, bao vây, phá hoại kinh tế, cắt đứt quan hệ giữa miền núi và đồng bằng, tìm mọi cách kiểm soát nhân dân để tiêu diệt các căn cứ địa miền núi, đồng thời xây dựng 56

58 căn cứ quân sự tại đây [24, tr.1]. Trong quá trình thực hiện âm mưu trên, đối phương áp dụng nhiều thủ đoạn xảo quyệt về mọi mặt: Về quân sự: Để tạo bàn đạp cho hoạt động đánh phá các căn cứ địa, địch tiến hành xây dựng hàng loạt các đồn bốt ở miền núi. Tại Khu B1 và Bến Hiên (Quảng Nam), chúng thiết lập và củng cố các đồn Pahó (Phù Mưa), Pagiếu (Éo), Picaroong (Bến Hiên), Galâu, Kaxăh và đặt các trạm kiểm soát ở Xơm Lang (Nhiều), Capoòh (Phù Du), Prao Ở Trà Bồng (Quảng Ngãi), đối phương xây dựng 13 đồn binh lớn: Nà Niêu, Trà Cú, Làng Ngãi, Trà Xinh, Trà Khê, Trà Lãnh, Đá Líp, Eo Reo, Eo Chim, Nước Vọt, Tầm Rung, Con Ieng, Tà Lạt. Lực lượng quân đội ở các đồn trạm này thực hiện thọc sâu vào các làng, nương rẫy nhằm đánh bật tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên ra khỏi quần chúng. Bên cạnh đó, địch tổ chức bắt lính trong đồng bào các dân tộc, củng cố lực lượng dân vệ ở miền núi. Song song với các hoạt động trên, từ năm 1955 đến năm 1960, chúng mở hàng chục cuộc hành quân càn quét cấp tiểu đoàn, trung đoàn đánh vào các căn cứ: B1 (Quảng Nam), Trà Bồng (Quảng Ngãi), Vĩnh Thạnh (Bình Định), Thồ Lồ (Phú Yên). Trong các cuộc tấn công vào căn cứ địa miền núi, địch huy động lực lượng chính quy, tiến hành dài ngày. Điển hình như chiến dịch Bình định miền Thượng được phát động đồng loạt tại 4 quận miền núi của tỉnh Quảng Nam là: Trà My, Phước Sơn, Hiên Giằng và Hòa Tân vào đầu tháng kéo dài đến 6 tháng với sự tham gia của 8 đại đội Bảo An và các nhân viên trong bộ máy chính quyền cùng một số cán bộ các Đoàn thể chính trị [168, tr. 1]. Về chính trị: Đối phương tiến hành củng cố bộ máy hành chính ở miền núi, phát triển lực lượng gián điệp. Dựa vào một số lái buôn, lính cũ, lưu manh, đầu hàng, địch xây dựng lực lượng gián điệp hoạt động ở vùng giáp ranh miền núi và đồng bằng, xung quanh các cứ điểm thực hiện nắm tình hình, phao tin, gây căng thẳng trong nhân dân, thăm dò dư luận, chuẩn bị cho các cuộc lùng sục, càn quét tấn công vào các căn cứ địa. Một mặt, địch tăng cường khủng bố, kiểm soát gắt gao hoạt động của đồng bào, mặt khác chúng tìm cách mua chuộc các tù trưởng, già làng, bày trò ăn yên 1F1, thực hiện chính sách tôn giáo hóa thông qua việc tuyên 1 Lễ đâm trâu tế thần, cầu yên hằng năm 57

59 truyền giáo lý đi đôi với chính sách mua chuộc ưu đãi, cho quần áo, thuốc men... dùng tranh ảnh, sách báo, ảnh đức chúa trời để tuyên truyền giảng đạo [162, tr. 20] nhằm lôi kéo quần chúng Thêm vào đó, địch còn tìm cách chia rẽ sự đoàn kết Kinh Thượng, chia rẽ đồng bào các dân tộc. Tại Trà My (Quảng Nam), năm 1957, địch tổ chức cướp tài sản của đồng bào ở thôn Lon Lói và Mường Phin sau đó đổ tội cho cách mạng để ly gián cách mạng với quần chúng nhân dân, gây chia rẽ Kinh Thượng [29, tr ]. Nhằm phá chỗ dựa của lực lượng kháng chiến, tách nhân dân ra khỏi ảnh hưởng của cách mạng, địch đẩy mạnh hoạt động dồn dân, trong đó chúng không từ một thủ đoạn nào từ mua chuộc, dụ dỗ đến đốt nhà, bắn giết. Ở Quảng Nam, chúng tổ chức đốt nhà dân, dùng lưỡi lê, báng súng thúc ép 170 dân làng Padương (Bến Giằng) về Thạnh Mỹ sống tập trung, dồn dân ở Phú Túc (Trung Man) ra bìa rừng, cưỡng bức nhân dân xã Nú (Trà My) vào khu Nước Trắng. Ở Bình Định, chúng dồn dân thượng nguồn huyện An Lão vào khu dồn Đất Dài, dồn dân huyện Vĩnh Thạnh, Vân Canh vào các khu xung quanh quận lỵ. Ở Phú Yên, dân 6 xã của huyện Sơn Hòa và các xã Phước Tân, Đá Mài, Phú Mỡ (thuộc Tây Đồng Xuân) bị dồn xuống Đồng Cam, Đồng Tre, Phước Lãnh... Đến năm 1958, địch đã dồn dân Vân Canh (Bình Định) về gần đường [24, tr.9]. Về kinh tế: Thực hiện phong tỏa về kinh tế, độc quyền mua rẻ các loại lâm thổ sản miền núi. Trong các cuộc hành quân càn quét, địch ra sức cướp bóc, phá hoại tài sản, mùa màng của nhân dân. Tháng , 24 rẫy lúa non của đồng bào xã Vĩnh Hiệp (Vĩnh Thạnh) bị địch phá nát [3, tr. 43]. Ở Căn cứ Trà Bồng, những tháng đầu năm 1960, nhà cửa của nhân dân bị đốt sạch, có nơi bị đốt đi đốt lại từ 30 đến 40 lần [107, tr. 207]. Thêm vào đó, lợi dụng đời sống khó khăn của đồng bào, đối phương thực hiện thủ đoạn mỵ dân thông qua việc cử một số đơn vị quân đội tìm cách gần gũi đồng bào Thượng, thực hiện các công tác dân vận: cắt tóc, phát thuốc chữa bệnh, tắm gội cho trẻ em [168, tr. 5]. Trong cuộc hành quân thám sát vùng Thồ Lồ tháng , địch tiến hành trao tặng phẩm cho đồng bào Thượng: hột cườm, khăn choàng, mền, mùng, muối [164, tr. 1]. Các thủ đoạn đánh phá của địch đã làm cho phong trào cách mạng và các căn cứ địa miền núi Trung Trung Bộ gặp không ít khó khăn, tổn thất. Giữa năm 1955, 58

60 trong một đợt khủng bố tại hai xã Trà Thủy và Trà Sơn (Trà Bồng), 13 người đã bị giết hại và nhiều người bắt đi [4, tr. 142]. Chỉ trong đợt đánh phá tháng , ở Căn cứ Vĩnh Thạnh, hàng trăm người bị chúng tra tấn dã man tại chỗ, 45 người bị bắt đi [3, tr. 32]. Tài sản, mùa màng bị phá hủy làm cho đời sống cán bộ, nhân dân các căn cứ gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn, nạn đói, bệnh tật hoành hành. Do sự kiểm soát gắt gao của địch, hoạt động liên hệ, tiếp tế của đồng bào đối với cán bộ và các căn cứ trở nên khó khăn. Khi địch thực hiện khủng bố ác liệt ở đồng bằng, địa bàn miền núi trở thành nơi trú chân an toàn của nhiều cán bộ, đảng viên. Tuy nhiên, lúc địch tập trung lực lượng đánh mạnh lên miền núi thì số cán bộ của Đảng từ đồng bằng lên hoạt động phải tản đi nhiều nơi hoặc phải tạm ẩn nấp sâu hơn trong rừng thẳm, núi cao. Nhiều cán bộ lãnh đạo chủ chốt của tỉnh, huyện bị tù đày, hy sinh. Sự lãnh đạo của tổ chức Đảng đối với nhân dân vì thế phần nào cũng bị tách rời. Trong bối cảnh đó, việc xây dựng cơ sở chính trị, khôi phục các căn cứ địa miền núi được đặt ra một cách thúc bách nhằm bảo tồn, giữ gìn lực lượng, bảo vệ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy của Đảng và quần chúng nòng cốt để tiến hành kháng chiến lâu dài Chủ trương của ta Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn coi trọng vấn đề xây dựng căn cứ địa làm chỗ dựa lâu dài cho cách mạng. Từ những ngày đầu chuẩn bị lực lượng cho cuộc vận động Cách mạng Tháng Tám, Người viết tác phẩm Chiến thuật du kích trong đó xác định: căn cứ địa là nơi để nghỉ ngơi, huấn luyện lực lượng, tích trữ lương thực, vũ khí. Địa bàn xây dựng căn cứ phải đảm bảo sự hiểm trở, bí mật để địch khó phát hiện nhưng cũng phải thuận lợi cho việc tiến công và phòng thủ của lực lượng kháng chiến. Nguyên tắc cơ bản của nơi này là phải có địa thế hiểm yếu che chở và quần chúng cảm tình ủng hộ [124, tr. 536]. Trong kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng căn cứ địa, hậu phương trên khắp mọi miền đất nước, ở vùng rừng núi, đồng bằng, đồng thời xây dựng những cơ sở chính trị của quần chúng ở thành thị [47, tr. 388]. Song, theo Người, căn cứ, hậu phương vững chắc nhất chính là lòng dân. Do vậy, muốn xây dựng căn cứ địa, hậu phương vững mạnh, nhất thiết phải dựa chắc vào nhân dân, phát huy sức mạnh to lớn và tiềm tàng của nhân dân về mọi mặt [47, tr. 370]. 59

61 Trong xây dựng căn cứ, Hồ Chí Minh yêu cầu bộ đội và du kích cùng với nhiệm vụ đánh giặc phải chú trọng vấn đề kinh tế, bởi vì: Nếu chỉ biết đánh mà không nghĩ đến kinh tế thì khi hết gạo sẽ không đánh được [125, tr. 446]. Bên cạnh đó, việc mở rộng chiến tranh du kích là cách thức để tiêu hao những bộ phận nhỏ của địch, để chống địch càn quét, bảo vệ tính mạng, tài sản cho dân; khuấy rối, phá hoại, kiềm chế địch, tuyên truyền và giáo dục quần chúng những vùng đó, thu hẹp nguồn ngụy binh của địch, mở rộng vùng du kích và căn cứ du kích của ta, đặng thành lập và củng cố những căn cứ kháng chiến sau lưng địch [126, tr. 28]. Để tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài, Hồ Chí Minh xác định phải xây dựng căn cứ địa, hậu phương vững mạnh toàn diện về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa [47, tr. 378]. Nhằm chuẩn bị lực lượng và địa bàn đứng chân cho các cơ quan lãnh đạo trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, Đảng chủ trương đi từ xây dựng cơ sở chính trị làm nơi đứng chân cho các lực lượng cách mạng ở thành thị và nông thôn, tiến lên xây dựng căn cứ địa cách mạng ở miền núi. Nghị quyết của Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ (4-1945) xác định: tích cực phát triển chiến tranh du kích, gây dựng căn cứ địa kháng Nhật [78, tr. 391]. Nghị quyết của Hội nghị cán bộ Việt Minh (6-1945) đề ra kế hoạch củng cố Khu giải phóng thành một căn cứ địa kháng Nhật vững chắc [78, tr. 542]. Tháng , Đảng xác định những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng căn cứ địa bao gồm: 1. Điều kiện địa lý: Địa thế hiểm trở có thể che chở cho bộ đội: trong khi bộ đội phòng ngự hay rút lui, quân địch không thể tiến đánh một cách dễ dàng. 2. Điều kiện quân sự: Vị trí tiện cho việc tiến công quân địch, không xa những chỗ nhất định quân địch phải đóng giữ hoặc qua lại. 3. Điều kiện kinh tế: Thổ sản có thể cung cấp cho bộ đội sống, mặc dù quân địch vây hãm. 4. Điều kiện chính trị: Tổ chức cách mạng trong quần chúng khá mạnh, có thể giúp đỡ bộ đội về mọi mặt [60, tr ]. Các quan điểm trên trở thành cơ sở cho việc hoạch định đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng sau này. Để tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp lâu dài, 60

62 Đảng chỉ đạo các địa phương mở mặt trận ở bất cứ nơi nào có bóng địch, đánh ngay cả ở sau lưng địch, trong ruột địch và tổ chức căn cứ địa không những ở rừng núi mà cả ở đồng bằng [79, tr.180]. Thực hiện chủ trương của Đảng, nhiều vùng căn cứ địa, hậu phương đã được xây dựng trên khắp cả nước như: Việt Bắc, Thanh Nghệ Tĩnh, Nam Ngãi Bình Phú, Đồng Tháp Mười, U Minh, Chiến khu Đ Chính sự tồn tại và hoạt động của hệ thống căn cứ địa phát triển rộng khắp từ miền núi đến đồng bằng đô thị đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp. Từ năm 1954, nhận rõ âm mưu xâm lược và chia cắt lâu dài Việt Nam của đế quốc Mỹ nên ngay từ rất sớm, Đảng đã có chủ trương tiếp tục duy trì, củng cố các căn cứ địa từ kháng chiến chống Pháp để làm chỗ dựa cho cách mạng. Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương (BCHTƯ) Đảng ( ) xác định: Hướng công tác của ta là củng cố cơ sở ở những vùng căn cứ cũ, dựa vào những vùng đó mà phát triển vào những nơi trung tâm chính trị, kinh tế và những nơi có tính chất quan trọng về mặt quân sự; đồng thời tranh thủ hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp ở các thành thị và chú trọng gây cơ sở ở các vùng nông thôn rộng lớn ngoài căn cứ cũ. [80, tr. 197]. Năm 1956, trước tình hình đế quốc Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm tiến hành khủng bố, tiêu diệt phong trào cách mạng miền Nam, Nghị quyết Bộ Chính trị ngày 8 và ngày đã đề ra nhiệm vụ chung của cách mạng miền Nam lúc này là: Cần củng cố các LLVT và bán vũ trang hiện có làm chỗ dựa. Đồng thời xây dựng cơ sở quần chúng vững mạnh làm điều kiện căn bản để duy trì và phát triển LLVT. Tổ chức các đội tự vệ trong quần chúng nhằm bảo vệ các cuộc đấu tranh của quần chúng và giải thoát cán bộ khi cần thiết [81, tr. 228]. Đối với hoạt động xây dựng căn cứ địa cách mạng ở miền Nam, tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15 (1-1959) là: Để bảo vệ các cơ quan đầu não và che giấu cán bộ, cần xây dựng ở các địa phương những cơ sở an toàn và khu an toàn [82, tr. 91]. Từ giữa năm 1958, Liên Khu ủy V đề ra chủ trương xây dựng Tây nguyên và miền núi các tỉnh thành căn cứ địa cách mạng, xây dựng LLVT và nửa vũ trang ở miền núi để làm nhiệm vụ tự vệ, bảo vệ căn cứ, bảo vệ cán bộ [109, tr. 261]. 61

63 Tháng , Nghị quyết Hội nghị Liên Khu ủy V mở rộng chủ trương: Khẩn trương xây dựng Tây nguyên và miền Tây thành căn cứ địa vững chắc, làm trở lực mạnh mẽ cho đồng bằng, tạo thế chung cho cách mạng ở miền Nam, đồng thời để đón thời cơ khi thuận lợi, quyết tâm giữ vững, khôi phục và phát triển vững chắc cơ sở và phong trào quần chúng đồng bằng góp phần xây dựng và bảo vệ căn cứ [83, tr ]. Nghị quyết đã vạch ra nhiệm vụ cụ thể nhằm củng cố, mở rộng và nối liền các trung tâm căn cứ, tiến lên thực sự làm chủ rừng núi; kiên quyết lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống địch cướp bóc, dồn dân, chiếm đất, càn quét, khủng bố bằng đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị rộng rãi, bố phòng tích cực, kết hợp đấu tranh vũ trang cần thiết. Tích cực xây dựng lực lượng về mọi mặt, đẩy mạnh phát triển kinh tế, khẩn trương xây dựng LLVT, củng cố và phát triển cơ sở cách mạng mạnh mẽ, đều khắp, chú ý xây dựng cơ sở Đảng, tranh thủ nắm chắc chính quyền, nhất là ở xã thôn [83, tr ]. Chủ trương của Bộ Chính trị, BCHTƯ Đảng và Liên Khu ủy V về xây dựng căn cứ địa cách mạng đã kịp thời đáp ứng được yêu cầu thực tế của phong trào cách mạng ở Trung Trung Bộ Quá trình phục hồi căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước Quán triệt chủ trương của các cấp ủy Đảng về xây dựng căn cứ địa cách mạng trong tình hình mới, các địa phương ở Trung Trung Bộ tích cực đẩy mạnh việc xây dựng, phục hồi các căn cứ địa miền núi. Quá trình này bắt đầu từ hoạt động xây dựng cơ sở chính trị trong quần chúng. Nhằm bám sát nhân dân và địa bàn hoạt động, người cán bộ cách mạng thực hiện bốn cùng : cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng hòa xương máu với nhân dân. Cán bộ đóng khố, xâu tai, búi tóc, choàng mền, vác giáo, mang gùi để thực sự hòa nhập với cuộc sống của đồng bào các dân tộc, đồng thời thực hiện tuyên truyền, vận động họ tham gia xây dựng căn cứ, bảo vệ cơ sở cách mạng. Bản tin tức của đối phương cho biết về hoạt động tuyên truyền vận động gây cơ sở của các cán bộ cách mạng ở miền núi xã Ba Độc thuộc Căn cứ Trà Bồng (Quảng Ngãi): 7 cán bộ ở Bắc vĩ tuyến mới hồi kết phối hợp với cán bộ nằm 62

64 vùng ở xã Ba Độc, điều khiển 1 toán khác độ 20 tên có võ trang đầy đủ tổ chức cho đồng bào Thượng học tập, phát rẫy trồng trọt và tổ chức canh gác cẩn thận. 1 tiểu đội Việt cộng nằm vùng có súng, 100 Thượng cộng chạy núi có giáo mác thường trú ẩn tại các vùng làng Rầm, làng Vò, làng Sao Trot để nắm đồng bào Thượng và hướng dẫn họ chống đối lại chính quyền ta [131, tr. 21]. Trong quá trình tuyên truyền, vận động gây cơ sở, cán bộ hướng dẫn đồng bào các dân tộc đấu tranh chống các thủ đoạn phá hoại của địch. Để hạn chế sự cướp phá của địch, bảo vệ tài sản nhân dân, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. Cán bộ hướng dẫn đồng bào dời làng lên núi cao, xây dựng các làng bí mật trong rừng sâu để cất giữ tài sản, tích trữ lương thực, muối Bản tin tức hoạt động của phía đối phương cho biết: trong đợt hành quân Thượng vận tháng , tại vùng rừng núi quận Thượng Đức 2F1 (Quảng Nam) địch phát hiện thấy 90 tấn lúa tích trữ mà Thượng dân vùng này chỉ độ 100 người mà thôi [131, tr. 5]. Ở Căn cứ Thồ Lồ (Phú Yên): Ngày , tại buôn Ma Choi đã có 4 Việt cộng về tại buôn vận động 15 Thượng dân trốn theo chúng, di chuyển qua Làng Len đến Cà Te và đi về Suối Cát. Tiếp đến ngày , bọn Việt cộng xúi dục Thượng dân dời làng đi nơi khác làm ăn [131, tr. 33]. Để đối phó với việc địch bắt thanh niên đi lính, lập các đơn vị dân vệ người dân tộc, các căn cứ tổ chức đưa thanh niên ra rừng tạm lánh trong các làng bí mật, tổ chức làng bí mật thành nơi đào tạo cán bộ cho phong trào cách mạng. Nhằm giữ gìn và tăng cường sự đoàn kết giữa các dân tộc, được sự hướng dẫn của cán bộ, đồng bào các dân tộc miền núi Quảng Nam tổ chức Đại hội đoàn kết giữa các dân tộc trong làng và giữa các làng với nhau. Trong Đại hội, các làng thực hiện giao ước: Trong làng nếu người nào theo địch thì làng đó xử, nếu làng theo giặc thì làng khác xử [151, tr. 397]. Từ sự giao ước này, đồng bào hết lòng giúp đỡ cách mạng, tham gia hoạt động xây dựng, bảo vệ căn cứ địa. 1 Thuộc vùng Bến Giằng và 1 số xã của huyện Đại Lộc cũ, tỉnh Quảng Nam. 63

65 Để hạn chế sự xâm nhập của địch lên miền núi, đồng bào dùng lý lẽ, dựa vào các phong tục tập quán, phao tin giặc mùa 3F1, sử dụng tục kiêng cữ để đấu tranh. Tháng , chính quyền Ngô Đình Diệm tập trung lực lượng uy hiếp, xúc tát các làng đồng bào Kinh ở Khu B1 (Quảng Nam) về đồng bằng. Ban Cán sự Khu B1 quyết định tổ chức cho đồng bào Cơtu phối hợp chặt chẽ với đồng bào Kinh đấu tranh trực diện với địch bằng cách đưa ra các lý lẽ vừa đơn giản, vừa sắc bén: người Kinh và đồng bào Cơtu trong vùng lâu nay có quan hệ trao đổi, mua bán với nhau, nợ nần đôi bên chưa giải quyết xong nên không ai được bắt người Kinh dời núi, làm thất bại âm mưu của địch; căn cứ địa được giữ vững, cơ quan lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng đóng tại đây được bảo vệ an toàn, bí mật. Dưới hình thức giặc mùa, tháng , lợi dụng đêm tối trời, các tổ công tác bí mật của đồng bào vùng cao huyện Hiên (Quảng Nam) tổ chức bao vây đồn Hiên, dùng tên và bùi nhùi lửa bắn cháy đồn địch. Sau đó phao tin người từ vùng cao xuống làm giặc mùa và lấy cớ đó không cho địch vào làng để bảo vệ an toàn cho các cơ sở cách mạng ở đây. Dưới hình thức cắm chông, gài bẫy chống thú rừng, đồng bào Ba Na (Vĩnh Thạnh) ngăn chặn không cho địch vào rẫy tìm kiếm dấu vết hoạt động của cán bộ. Để giữ thế hợp pháp, một số nơi ở miền Tây Quảng Nam, Vĩnh Thạnh, Thồ Lồ đồng bào còn bí mật tổ chức tiêu diệt ác ôn, tề điệp rồi phao tin chúng bị thú rừng ăn thịt. Trong quá trình đấu tranh trực tiếp với địch, đồng bào các dân tộc miền núi Trung Trung Bộ với các hình thức đấu tranh phong phú đã hạn chế hoạt động lùng sục, càn quét của đối phương vào các bản làng, bảo vệ an toàn cho cán bộ và nơi đóng trú của các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy kháng chiến ở địa phương. Nhờ đó, lượng chính trị quần chúng được bảo tồn để tiếp tục bước vào cuộc chiến đấu mới. Từ việc thực hiện bốn cùng với nhân dân, cán bộ, đảng viên của Đảng đã xây dựng được chỗ đứng vững chắc trong lòng nhân dân. Nhiều cán bộ cao cấp của 1 Người Cơtu cho rằng, mỗi khi nhà có chuyện không lành như: đau ốm, chết, giận hờn, hôn nhân trục trặc hoặc làng bản hạn hán, mất mùa, đói đau, dịch bệnh là do Giàng (Trời), ma rừng. Do vậy, để thoát khỏi những chuyện đó, phải đi đâm chết người làng khác lấy máu để cúng Giàng, cúng ma. Tục này thường xảy ra hằng năm vào khoảng tháng 1, 2, 3 âm lịch (sau mùa tuốt lúa) và các tháng 6, 7, 8 (sau mùa trỉa lúa). 64

66 Đảng như: Bí thư Khu ủy V Võ Chí Công, cán bộ nằm vùng hoạt động ở miền Tây Phú Yên ( ) Cao Xuân Thiêm đã được đồng bào các dân tộc hết sức tin yêu, che chở, bất chấp hiểm nguy. Nhằm hỗ trợ hoạt động xây dựng và bảo vệ địa bàn đứng chân, các căn cứ chủ động xây dựng LLVT tại chỗ. Từ đầu năm 1959, hầu hết các thôn ở Căn cứ Thồ Lồ đều có tổ, xã có tiểu đội du kích [57, tr. 52]. Tại miền núi Quảng Nam, các đội tự vệ ở các thôn bản cũng được hình thành. Phần lớn thanh niên tham gia dân quân du kích. Lực lượng du kích, tự vệ được trang bị vũ khí thô sơ: cung, nỏ, giáo, mác đồng thời thường xuyên tiến hành việc tuần tra, canh gác, cắm chông, gài bẫy ở những địa điểm địch có thể thường hay qua lại, ngăn chặn và hạn chế hoạt động lùng sục, càn quét của chúng vào các thôn bản, bảo vệ an toàn nơi ăn ở của cán bộ. Đi đôi với phong trào đấu tranh của đồng bào miền núi, quá trình phục hồi các căn cứ địa cách mạng ở các tỉnh Trung Trung Bộ diễn ra hết sức khẩn trương, từ đồng bằng đến miền núi, từ các cơ quan lãnh đạo của Khu V đến các địa phương. Ở Đà Nẵng, trong những năm , Khu Sông Đà là nơi đứng chân của cơ quan Thành ủy Đà Nẵng. Tháng , tỉnh Quảng Nam thành lập Căn cứ B1 trên cơ sở tách hai xã miền núi Hòa Bắc và Hòa Nam của huyện Hòa Vang. Đây là nơi đứng chân của Tỉnh ủy trong những năm đầu kháng chiến chống Mỹ. Tháng , Tỉnh ủy Quảng Ngãi xây dựng các xã người Cor ở phía Nam huyện Trà Bồng là Trà Xinh, Trà Thọ, Trà Trung, Trà Tây, Trà Tân, Trà Bùi, Trà Nham, Trà Lãnh làm trung tâm căn cứ của tỉnh. Cuối 1955, tỉnh Bình Định xây dựng căn cứ tại Vĩnh Thạnh. Ở Phú Yên, từ năm 1955, Căn cứ Thồ Lồ Ma Dú tiếp được khôi phục, mở rộng trở thành nơi đứng chân của Tỉnh ủy và các cơ quan chuyên môn. Nhằm đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo đối với phong trào cách mạng miền núi các tỉnh Liên khu V, từ cuối năm 1955, Liên Khu ủy V chuyển cơ quan từ phía Tây Thừa Thiên vào đứng chân ở Căn cứ Bến Hiên, Bến Giằng (nay thuộc các huyện Đông Giang, Tây Giang và Nam Giang, tỉnh Quảng Nam). Khu vực này có địa hình tập trung nhiều núi cao, dốc lớn, lại bị chia cắt bởi sông suối chằng chịt, giao thông ban đầu chủ yếu là đường mòn nhỏ hẹp. Tuy nhiên, lại gần với Đà Nẵng 65

67 để tiện cho việc chỉ đạo phong trào thành phố. Bên cạnh đó, vùng Bến Giằng còn nằm trong hành lang nối liền với Căn cứ kháng chiến Hạ Lào. Để đảm bảo bí mật, tránh sự truy tróc của địch, Liên Khu ủy liên tục di chuyển địa điểm. Khi mới chuyển từ phía Tây Thừa Thiên vào, cơ quan Liên Khu ủy đứng chân ở làng Lồ Ô (nay thuộc xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng) sau lần lượt chuyển đến các địa điểm: làng Liêu (thôn Lấy), làng Vàu (xã Tư), làng Điềm (nay là thôn An Điềm, xã Tư), làng So, làng BhơlôSơn (nay là thôn Sơn, xã Sông Kôn). Năm 1957 di chuyển về làng Liu, Nam huyện Bến Hiên, lên thôn A Dinh rồi chuyển lên thôn Pra Pượp. Năm 1958, do quân đội VNCH tăng cường đánh phá gắt gao ở đồng bằng, chiếm đóng một số chốt điểm ở vùng thấp Bến Hiên, để đảm bảo an toàn, cơ quan Liên Khu ủy chuyển lên các làng A Vương, Man Tra (xã A Vương); A Bươp (nay là thôn RBượp, xã A Tiêng); sau đến làng Bơr ning (thôn Pơr ning, xã Lăng); các làng xã này đều thuộc huyện Tây Giang. Sau Hội nghị Liên Khu ủy vào giữa năm 1958 tại làng Bơr ning, cơ quan Liên Khu ủy chuyển đến làng Lìa Tía (nay thuộc xã Lăng, huyện Tây Giang), sau lên làng Đak Năng, huyện Bến Giằng. Các địa điểm đứng chân trong căn cứ của Liên Khu ủy V, lúc đầu chỉ là những lán trại, lợp bằng lá cọ, đào hầm bí mật để trú ẩn, đời sống cán bộ, chiến sĩ vô cùng khó khăn, thiếu thốn. Mặc dù địch lùng sục, khủng bố hết sức ác liệt, tìm cách bao vây cô lập, triệt mọi ngả chi viện nhưng Căn cứ Liên Khu ủy V vẫn đứng vững tại Bến Hiên, Bến Giằng trong thời gian khá lâu. Cuối năm 1959, Liên Khu ủy V quyết định chuyển cơ quan vào Căn cứ Nước Là, phía Tây huyện Trà My, kết thúc thời kỳ đứng chân tại các căn cứ ở huyện Bến Hiên, Bến Giằng. Trong những năm , bên cạnh một số căn cứ ở đồng bằng, đại bộ phận miền núi phía Tây Trung Trung Bộ đã được giải phóng. Tại đây, các căn cứ địa cách mạng được xây dựng, củng cố và mở rộng: - Căn cứ Nước Oa (hay Vườn Cam) thuộc xã Trà Tân, huyện Bắc Trà My Căn cứ Nước Oa nằm dưới chân dãy núi mẹ Hòn Bà. Phía trước là sông Trường và sông Nước Oa, xung quanh là các thung lũng lớn nhỏ, rừng già kín đáo, che chở bao bọc. Được xây dựng trên một ngọn đồi um tùm cây cối, Căn cứ Nước 66

68 Oa nằm cách xa tụ điểm dân cư. Nơi đây vừa có thế công vừa có thế thủ lại thuận lợi cho việc trú ẩn, cất giấu vũ khí, làm bàn đạp tiến công; nơi ém quân và di chuyển vào Nam ra Bắc. Đặc biệt, địa bàn này có thể tiếp cận với đồng bằng, khai thác nguồn lương thực, thực phẩm, thuốc men tại chỗ đáp ứng yêu cầu của các lực lượng bám trụ tại căn cứ, kể cả trong trường hợp bị bao vây, phong tỏa. Từ giữa năm 1960 đến năm 1973, Nước Oa trở thành nơi đứng chân của Khu ủy và BTL Quân khu V. Nơi đây cũng được xem là căn cứ địa đầu tiên của Khu ủy và BTL Quân khu V trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. - Căn cứ Nước Là (Mật khu Đỗ Xá), thuộc xã Trà Mai, huyện Nam Trà My tỉnh Quảng Nam Trung tâm của căn cứ là khu vực Tákpor, Nước Là, Ngok La. Khu vực này nằm dưới chân những ngọn núi cao như Hòn Bà ở phía Bắc có độ cao m, phía Tây Tây Nam là núi Ngọc Linh cao m. Căn cứ trải rộng trên một địa bàn hiểm trở, dựa lưng vào Tây Nguyên, tiếp giáp với tỉnh Kon Tum, Gia Lai và miền núi tỉnh Quảng Ngãi. Địa điểm này thuận tiện cho việc cơ động giữa các tỉnh. Bên trong căn cứ có hệ thống sông suối chằng chịt, ngoài con sông chính là Sông Tranh còn có các sông phụ như: Trường, Leng, Nước Xa, Nước Là, Nước Ta, Nước Pui, Nước Oa, Nước Vin Ở Nước Là, các cơ quan của Khu ủy có điều thuận lợi để triển khai cơ sở làm việc. Hơn nữa, đây còn là nơi có nguồn thực phẩm dồi dào để cung cấp cho các lực lượng tại căn cứ. Căn cứ Nước Là là nơi đứng chân của Liên Khu ủy Ban Quân sự khu V từ năm 1960 đến năm Khu căn cứ miền núi phía Tây tỉnh Quảng Nam Năm 1959, thực hiện chủ trương của Liên Khu ủy V về xây dựng căn cứ liên hoàn nối liền giữa căn cứ miền núi của Liên khu với căn cứ nước bạn ở Đông Hạ Lào, Tỉnh ủy Quảng Nam quyết định lấy 4 xã của huyện Giằng (Laêê, Coong Năng, Đaktoih, Đácpree) cùng với 4 xã của huyện Hiên (Bhaleê, Ch ơơm. Axan, Trhy) giáp biên giới Việt Lào thành lập Căn cứ huyện Hải Nam. Đây là căn cứ bàn đạp để Đảng ủy và cán bộ, đảng viên ở Hải Nam bắt liên lạc với lực lượng kháng chiến nước bạn Lào. Trên cơ sở đó, giúp bạn xây dựng Căn cứ miền Đông Hạ Lào, đặc 67

69 biệt là việc mở lớp huấn luyện quân sự và giúp đỡ về vũ khí đạn dược. Tuy nhiên, một năm sau đó, vào tháng , huyện Hải Nam được sáp nhập với các huyện Hiên, Giằng, và miền Tây Hòa Vang thành huyện Thống Nhất. Ở vị trí nằm trên trục hành lang Nam Bắc, giáp với biên giới nước bạn Lào, lại nằm sát vùng đồng bằng Bắc Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng, với núi rừng mênh mông hiểm trở, giàu nguồn lâm thổ sản quý, khu căn cứ miền núi phía Tây tỉnh Quảng Nam trở thành nơi đứng chân của Tỉnh ủy trong suốt những năm kháng chiến chống Mỹ. - Khu căn cứ miền núi phía Tây tỉnh Quảng Ngãi Từ giữa năm 1958, vùng rừng núi miền Tây Quảng Ngãi đã hình thành 3 căn cứ lớn: 22 xã nối liền nhau ở vùng cao 2 huyện Trà Bồng và Sơn Hà; 12 xã tiếp giáp giữa 3 huyện Sơn Hà, Minh Long, Ba Tơ; 8 xã phía Nam huyện Ba Tơ. Trung tâm căn cứ của Tỉnh là Khu II, bao gồm các xã: Trà Tân, Trà Bùi, Trà Phong, Trà Lãnh, Trà Nham, Trà Thọ, Trà Xinh, Trà Trung, Trà Tây (Trà Bồng). Một năm sau đó, được sự hỗ trợ của đơn vị vũ trang 339, liên tục trong 8 ngày đêm, từ ngày 28-8 đến ngày , nhân dân Trà Bồng vùng dậy đập tan bộ máy chính quyền thôn xã, quét sạch đồn bốt của địch, mở ra một vùng căn cứ địa rộng lớn gồm toàn bộ vùng cao huyện Trà Bồng, Sơn Hà và trên 20 xã khác ở các huyện Ba Tơ, Minh Long. Đến cuối năm 1960, căn cứ địa miền Tây Quảng Ngãi tiếp tục được mở rộng với 54 xã hoàn toàn giải phóng (bao gồm 19 xã thuộc huyện Trà Bồng, 10 xã Sơn Tây, 8 xã Sơn Hà, 13 xã Ba Tơ và 4 xã Minh Long) [152, tr. 4]. - Khu căn cứ miền Tây tỉnh Bình Định bao gồm hầu hết huyện Vĩnh Thạnh, toàn bộ vùng cao huyện An Lão và 3 xã vùng cao huyện Vân Canh. Trung tâm căn cứ là vùng cao Vĩnh Thạnh. Đây là nơi đứng chân của Liên Tỉnh II, Tỉnh ủy Bình Định, Huyện ủy trong suốt những năm kháng chiến chống Mỹ. - Khu căn cứ miền Tây tỉnh Phú Yên bao gồm các xã Quang Hiển, Tân Vinh, Phước Tân, Phước Thuận, Đá Mài, Phú Mỡ thuộc các huyện miền Tây, Sơn Hòa. Cuối năm 1960, thực hiện chủ trương giải phóng toàn miền Tây của Đại hội tỉnh Đảng bộ (9-1960), được sự hỗ trợ của các đơn vị vũ trang, nhân dân miền Tây, Sơn Hòa dồn dập nổi dậy, giành quyền làm chủ các xã Quang Hiển, Tân Vinh, Phước Tân, Phước Thuận, Đá Mài, Phú Mỡ, hình thành nên khu căn cứ liên hoàn 68

70 rộng lớn chiếm 1/10 diện tích đất đai của tỉnh với số dân là người [5, tr. 68]. Khu căn cứ miền Tây tỉnh Phú Yên là bàn đạp vững chắc để lực lượng cách mạng tiến xuống giải phóng đồng bằng, vùng tiếp giáp với vùng giải phóng Bắc Khánh Hòa, bảo đảm an toàn cho hành lang chiến lược của Trung ương từ Bắc vào Nam. Như vậy, trên cơ sở các căn cứ địa được xây dựng từ thời kháng chiến chống Pháp, các cấp ủy Đảng, chính quyền cách mạng ở Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên đã chủ động củng cố, tái lập, biến vùng rừng núi phía Tây các tỉnh thành căn cứ địa rộng lớn, tồn tại trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đánh giá về hệ thống căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong những năm , đối phương nhận xét: Những vùng căn cứ địa này đã dần hình thành được thế liên hoàn hỗ trợ với nhau, nhất là về phía Tây và Bắc Quốc lộ 19, Đông và Bắc Quốc lộ 14. Địch cũng thừa nhận: Tình hình hoạt động của Việt cộng ở vùng căn cứ địa Cao Nguyên và Miền Tây các tỉnh Trung Nguyên với sự lấn dần vùng cận sơn đang tạo ra một uy thế đe dọa an ninh đối với toàn bộ vùng đồng bằng Trung Phần [137, tr. 10]. Song song với việc xác định địa bàn đóng trú cho các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy kháng chiến và LLVT, căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ bước đầu tiến hành xây dựng về mọi mặt: Về chính trị: Cấp ủy Đảng ở các căn cứ triển khai sâu rộng việc học tập Nghị quyết 15 của BCHTƯ Đảng đối với đa số cán bộ, đảng viên, LLVT và nhân dân nhằm tạo sự nhất trí về tư tưởng và hành động cho quân dân đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Công tác phát triển Đảng được chú trọng, nhiều đoàn viên và quần chúng tích cực hoạt động, đã qua thử thách được bồi dưỡng để đứng vào hàng ngũ của Đảng. Đến năm 1959, căn cứ địa miền Tây Quảng Nam có 523 đảng viên với 83 chi bộ, đa số các thôn đều có tổ Đảng, chi bộ Đảng [151, tr. 399]. Chi bộ Đảng ở Căn cứ Thồ Lồ (Phú Yên) phát triển được 15 đảng viên [57, tr. 52]. Hình thức chính quyền tự quản bước đầu được thành lập ở một số căn cứ. Từ năm 1956, Căn cứ Thồ Lồ đã thành lập chính quyền tự quản. Sau khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi, Ủy ban nhân dân tự quản xã, thôn, một hình thức tổ chức chính quyền của nhân dân ra đời ở các căn cứ địa miền núi Quảng Ngãi. Bên cạnh 69

71 đó, các đoàn thể: Đoàn thanh niên nhân dân cách mạng, Hội phụ nữ giải phóng, Hội nông dân giải phóng cũng từng bước được hình thành. Tổ chức Đảng, chính quyền, các đoàn thể ở các căn cứ địa đã thực sự phát huy vai trò trong việc lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống địch dồn dân, phát triển kinh tế, xây dựng đời sống mới. Về kinh tế: Trước sự đánh phá ác liệt của địch ở đồng bằng, số cán bộ ở miền xuôi thoát ly lên miền núi ngày càng nhiều. Do vậy, để giải quyết vấn đề lương thực, các căn cứ chủ động đẩy mạnh tăng gia sản xuất. Vào cuối năm 1960, sau khi Miền Tây được giải phóng, tỉnh Phú Yên thành lập 4 điểm sản xuất tự túc ở Cà Lúi, Thồ Lồ, Tân Lương, Tân Vinh [92, tr. 176]. Để đáp ứng yêu cầu sản xuất nông nghiệp, trại sản xuất lúa và cung cấp lúa giống ở Nà Niêu thuộc Căn cứ Trà Bồng cũng được hình thành [63, tr. 107]. Các cơ quan, đơn vị ở các căn cứ vừa làm nhiệm vụ chuyên môn vừa tổ chức phát nương, trồng thêm ngô, sắn. Thêm vào đó, một số cán bộ còn được cử đi thọc sâu xuống đồng bằng vận động sự đóng góp của nhân dân. Hưởng ứng phong trào làm Rẫy cách mạng, đồng bào các dân tộc tích cực khai phá đất rừng làm rẫy, tỉa lúa, tỉa bắp, trồng mỳ để ủng hộ cách mạng. Các Tổ đoàn kết sản xuất được thành lập ở các thôn, làng để giúp nhau tăng gia sản xuất. Sau khi thu hoạch sắn, lúa, đồng bào chỉ để lại một ít để dùng trong gia đình, còn bao nhiêu hiến cho cách mạng. Trong năm 1960, đồng bào Căn cứ Vĩnh Thạnh (Bình Định), đóng góp được hơn kg thóc và hàng chục tấn mỳ [8, tr. 150]. Nhờ đẩy mạnh sản xuất và tích cực khơi thông nguồn hàng từ đồng bằng, các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ đã chủ động giải quyết vấn đề lương thực tại chỗ khi sự chi viện của Trung ương chưa đến kịp, đồng thời đóng góp một phần cho kháng chiến. Về văn hóa xã hội: Được sự tuyên truyền vận động của cán bộ cách mạng, đồng bào tự nguyện từ bỏ các tập tục lạc hậu có ảnh hưởng không tốt đến sản xuất và sức khỏe, trong đó thành công nhất là việc bỏ tục trả đầu 4F1, một tập tục đã tồn tại lâu đời ở miền núi Quảng Nam, Quảng Ngãi Nhằm nâng cao trình độ văn hóa cho đồng bào các dân tộc, năm 1956 và 1959, Ban Cán sự miền Tây Quảng Nam đã 1 Trước đây, trong quan hệ hôn nhân của người Cơtu, nhà trai phải trả cho nhà gái một số của cải nhất định như chiêng, ché do hai bên thỏa thuận. Nếu hôn nhân thuận tình thì không có vấn đề gì.tuy nhiên, trong trường hợp người con gái không chấp nhận về nhà chồng như đã hứa hôn thì nhà trai sẽ đòi lại số của cải đã cho nhà gái, thậm chí đòi đền nhiều hơn. Nếu nhà gái không chấp nhận trả đủ của cải theo yêu cầu thì nhà trai sẽ đến dọa nạt, dùng vũ lực đối với nhà gái, do đó có thể dẫn đến chém giết lẫn nhau. (Lịch sử Đảng bộ huyện Đông Giang ( ), Nxb Chính trị Quốc gia, HN, tr. 28) 70

72 cử cán bộ Kinh am hiểu tiếng dân tộc phiên âm tiếng Cơtu, Cadong thành chữ viết và tổ chức các lớp học để dạy cho đồng bào. Trong những năm , tiếng dân tộc Cor, Hrê, Cadong và Bana được phiên âm thành chữ viết để dạy cho đồng bào căn cứ địa miền núi Quảng Ngãi và Bình Định. Phong trào xóa nạn mù chữ và bổ túc văn hóa được triển khai mạnh mẽ ở các căn cứ. Năm 1958, căn cứ địa miền Tây Quảng Ngãi đồng loạt mở các lớp Bổ túc văn hóa tập trung. Lớp Bổ túc văn hóa tập trung đầu tiên được khai giảng tại ranh giới giữa 2 xã Trà Khê và Trà Quân (thuộc Căn cứ Trà Bồng) ngày với 50 học viên là cán bộ huyện, cán bộ chủ chốt và cơ sở ở các xã, thôn, nóc [160, tr ]. Qua học tập văn hóa, đồng bào thấy rõ được âm mưu xâm lược, tội ác của Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm, hiểu được đường lối kháng chiến, chính sách đoàn kết dân tộc của Đảng. Từ đó, tự tích cực tham gia hoạt động xây dựng và bảo vệ căn cứ địa. Công tác y tế bước đầu được chú trọng. Cán bộ về tận các bản làng vận động đồng bào giữ gìn vệ sinh, thực hiện phong trào ba sạch: ăn sạch, uống sạch, ở sạch. Các cơ quan, đơn vị và nhân dân còn chủ động tìm kiếm, chế biến thuốc nam chữa bệnh. Nhờ làm tốt công tác vệ sinh, phòng bệnh nên đã hạn chế được một số dịch bệnh, các bệnh thông thường của nhân dân cũng được chữa khỏi từ nguồn thuốc nam tại chỗ. Phong trào văn hóa, văn nghệ phát triển mạnh mẽ tạo không khí vui tươi, lạc quan cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trong chiến đấu và sản xuất. Văn nghệ quần chúng phát triển sôi nổi góp phần cổ vũ, động viên tinh thần chống Mỹ xâm lược và tay sai trong các tầng lớp nhân dân, đồng thời làm tươi mới thêm bộ mặt căn cứ địa. Về quân sự: Các căn cứ tổ chức huấn luyện quân sự, trang bị vũ khí thô sơ cho lực lượng tự vệ và du kích. Công tác bố phòng, lập các tuyến chiến đấu, rào làng, cắm chông được triển khai rộng khắp các thôn làng. Bên cạnh lực lượng tự vệ và du kích, LLVT tập trung bước đầu được thành lập ở địa phương. Tháng và tháng , hai tỉnh Quảng Ngãi và Phú Yên thành lập hai đơn vị vũ trang đầu tiên lấy tên là 339 và B95. Tháng , tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng thành lập đơn vị đặc công H29, đơn vị quân báo H32, các khung đại đội lấy tên là H21, H30, H31, H35, H36, H37. Tháng , tỉnh Bình Định thành lập đội vũ trang tập 71

73 trung đầu tiên của tỉnh lấy tên Đơn vị 2-9. Nhiệm vụ của các đơn vị vũ trang chủ yếu là bảo vệ căn cứ địa, hỗ trợ tích cực cho phong trào đấu tranh của quần chúng. Ở Trung Trung Bộ, cùng với hoạt động xây dựng căn cứ địa cách mạng, các tuyến vận tải chiến lược bằng đường biển cũng được hình thành từ rất sớm. Với địa thế thuận lợi có nhiều dãy núi ăn ra biển và cửa sông, Khu Sông Đà (Đà Nẵng) trở thành nơi tổ chức nhiều chuyến vượt biển đưa cán bộ từ Đà Nẵng ra Bắc, hoặc từ Bắc vào, góp phần vào việc mở đường giao thông vận tải trên biển. Mở đầu là chuyến đưa Khu ủy viên khu V Bí thư Liên Tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng Trương Chí Cương cùng hơn 20 cán bộ từ Căn cứ Sông Đà đi Bình Định, sau đó từ Bình Định ra miền Bắc bằng đường biển vào đầu năm Sau thành công của chuyến đi này, từ năm 1956 đến đầu năm 1958, thực hiện sự chỉ đạo của Ban Thống nhất Trung ương, Khu Sông Đà và đường dây C2 (tên công khai là Tập đoàn đánh cá Sông Đà ở cửa biển Nhật Lệ Quảng Bình, có trạm liên lạc ở Vĩnh Mốc Vĩnh Linh) đảm nhận nhiệm vụ vận chuyển thuốc men, giấy bạc, tài liệu, máy móc cho Thành ủy; đồng thời tổ chức nhiều chuyến vượt biển đưa cán bộ từ Đà Nẵng ra Bắc, hoặc từ Bắc vào. Hầu hết các chuyến vượt biển đưa cán bộ ra Bắc, đưa tài liệu, hàng hóa từ Bắc vào đều do ngư dân Căn cứ Sông Đà đảm nhiệm. Những tháng cuối năm 1959, căn cứ địa cách mạng ven biển Trung Trung Bộ tiếp nhận 500 kg vũ khí, thuốc chữa bệnh. Nhờ có sự chi viện kịp thời này mà phong trào cách mạng Khu V được tiếp thêm sức. Bên cạnh đó, các căn cứ địa miền núi tiếp nhận 1700 súng bộ binh, 850 dao găm, 188 kg thuốc nổ, một số ống nhòm, bản đồ, địa đồ Số hàng này đã được Khu ủy V chuyển tiếp vào phía trong, kịp thời trang bị cho các đội vũ trang và tự vệ vừa mới ra đời [30, tr. 476]. Tóm lại, hệ thống căn cứ địa cách mạng được xây dựng cùng với đường hành lang chiến lược trên bộ và trên biển đã góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển của phong trào cách mạng ở Khu V. Chính nhờ hệ thống căn cứ địa miền núi ở Khu V nói chung cũng như ở Trung Trung Bộ nói riêng sớm được xây dựng nên mặc dù gặp nhiều khó khăn tổn thất, nhưng khởi nghĩa từng phần và chiến tranh du kích cục bộ tại địa bàn này đã sớm nổ ra và từ đó đi lên một cách vững chắc [51, tr. 141]. Sự 72

74 ra đời, phát triển của hệ thống căn cứ địa cách mạng và thực tiễn chiến trường miền Nam là cơ sở quan trọng để Đảng xác định con đường tiến lên của cách mạng miền Nam là: có khởi nghĩa bộ phận, lập căn cứ địa, có chiến tranh du kích rồi tiến lên tổng khởi nghĩa [64, tr. 31]. Từ đây, việc xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò của hệ thống căn cứ địa cách mạng trở thành nhiệm vụ quan trọng nhằm góp phần thực hiện thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước Cuộc đấu tranh bảo vệ căn cứ địa cách mạng Để bảo vệ các căn cứ địa cách mạng trước những thủ đoạn đánh phá của đế quốc Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm, các cấp ủy Đảng, chính quyền và quân dân Trung Trung Bộ đã tiến hành cuộc đấu tranh quyết liệt trên nhiều phương diện. Về chính trị, tư tưởng: Cán bộ, đảng viên của Đảng luôn bám sát quần chúng, hòa mình vào cuộc sống của đồng bào các dân tộc để tuyên truyền, vận động họ tham gia hoạt động xây dựng, bảo vệ căn cứ địa. Từ khi được Đảng giác ngộ, đồng bào luôn tin tưởng, trung thành với cách mạng, sẵn sàng nuôi giấu cán bộ, bảo vệ căn cứ. Địch đã tiến hành hàng loạt các cuộc hành quân lùng sục, càn quét vào các làng bản. Song, cho dù chúng thực hiện nhiều thủ đoạn tàn khốc, từ bắn giết, giam cầm đến đốt phá, dụ dỗ bằng của cải vật chất nhưng đi đến đâu cũng bắt gặp câu trả lời không nghe, không thấy và không biết. Ở Căn cứ Vĩnh Thạnh, sau hơn 10 ngày đêm thực hiện khủng bố, vây ráp tra tấn hàng trăm người, địch vẫn không thể nào uy hiếp được nhân dân xã Vĩnh Hiệp. Nhờ sự trung thành tuyệt đối của đồng bào, sự che chở, giúp đỡ của họ mà nhiều cán bộ lãnh đạo và căn cứ đã được bảo vệ an toàn. Bên cạnh đó, cán bộ tìm cách tranh thủ, lôi kéo các tầng lớp trên, đặc biệt là già làng, trưởng bản, vận động họ ủng hộ phong trào đấu tranh của quần chúng. Lực lượng này có vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền, vận động đồng bào tham gia đấu tranh với địch, bảo vệ cán bộ, bảo vệ căn cứ. Về công tác bố phòng chiến đấu, chống gián điệp xâm nhập: Các căn cứ tổ chức rào làng; cắm chông, thò; xây dựng các tuyến chiến đấu. Hệ thống hầm chông, bãi chông, bẫy đá và mang cung liên hoàn được bố trí xung quanh làng, trên rẫy, trên khắp các nẻo đường đi và cả những làng bí mật trong rừng, nơi cất giấu tài 73

75 sản Từ giữa tháng , ở Căn cứ Trà Bồng, 400 đồng bào Trà Giang, Trà Thủy cùng các xã lân cận tiến hành rào đường, cắm chông, cất giấu tài sản. Nhiều thôn nóc bỏ làng, rút sâu vào núi để chống địch [91, tr. 85]. Dựa vào địa thế núi rừng hiểm trở, đồng bào Bana ở Căn cứ Vĩnh Thạnh xây dựng 3 tuyến chiến đấu. Tuyến một gồm các ngả đường vào làng, có đội tự vệ canh gác. Tuyến hai gồm mạng lưới hầm và bãi chông, bẫy đá, mang cung dày đặc cùng những ổ tác chiến lợi hại, bất ngờ nhằm ngăn chặn địch sục xạo vào làng bí mật. Tuyến thứ ba là nơi ở của dân, vừa là nơi cất giấu lương thực, tài sản đồng thời phục vụ các tuyến trước chiến đấu [8, tr. 141]. Mạng lưới bố phòng nhân dân rộng rãi đã phát huy tác dụng trong việc ngăn chặn, đẩy lùi nhiều cuộc càn quét, lùng sục của địch. Ngày , mặc dù địch sử dụng cả Sư đoàn 22 VNCH, gồm quân cùng lực lượng công dân vụ, bảo an, dân vệ từ Trà My (Quảng Nam) vào, Sơn Hà ra, Trung Châu lên, tiến đánh Căn cứ Trà Bồng và vùng cao Sơn Hà. Thế nhưng khi vừa đặt chân đến đây, địch đã rơi ngay vào các trận địa được bố trí sẵn. Những bẫy đá, bãi chông liên hoàn, ổ phục kích trở thành nỗi khiếp sợ của kẻ thù khiến cho chúng không thể thực hiện được ý định của mình và phải vội vã tháo lui. Tháng , nhân dân Bô Lô (Hiên) sử dụng hệ thống chông, thò; đặt, cắm khắp rừng núi đẩy lùi cuộc càn của đối phương đánh sâu vào căn cứ địa, tìm diệt cơ quan đầu não kháng chiến của Quảng Nam. Đơn vị 299 của LLVT Quảng Ngãi tổ chức cắm cây chông và phục kích ở chân núi Ba Điền, bẻ gãy cuộc càn của địch tấn công căn cứ địa ở Ba Tơ và Minh Long. Đi đôi với hoạt động bố phòng chiến đấu, công tác phòng gian bảo mật, chống gián điệp xâm nhập luôn được chú trọng. Cấp ủy Đảng, chính quyền và các đoàn thể thường xuyên giáo dục, nâng cao ý thức phòng gian bảo mật cho cán bộ, nhân dân, kịp thời phát hiện xử lý những vụ xâm nhập, phá hoại của địch, bảo vệ an toàn căn cứ. Với phương châm dùng dọa dẫm chống dọa dẫm, năm 1956, sau khi nhận được tin báo của đồng bào về hai tên gián điệp giả làm thương nhân xâm nhập vào khu B1 (Quảng Nam) để dò la tình hình, Ban cán sự khu B1 đã vận động nhân dân làng Bharvang (Ban Mai) phao tin giặc mùa đồng thời tổ chức reo hò, nổi trống mõ liên hồi, cử đàn ông, thanh niên, cầm gương giáo ra đứng trước sân làng 74

76 sẵn sàng chiến đấu với giặc mùa. Những việc làm này khiến cho hai tên gián điệp khiếp sợ phải nhanh chóng thuê người dẫn đường rút lui ngay trong buổi sáng hôm sau. Việc phao tin giặc mùa đuổi gián điệp ra khỏi Căn cứ B1 được xem là một sự kiện khá sớm trong việc thực hiện chủ trương dùng phong tục tập quán chống địch, nói cách khác là dùng dọa dẫm chống dọa dẫm của Ban cán sự miền Tây Quảng Nam lúc bấy giờ [76, tr. 86]. Đầu năm 1957, tự vệ Căn cứ Thồ Lồ đã kịp thời phát hiện và trừng trị hai tên gián điệp Mỹ từ Vân Canh lên dò la tin tức căn cứ [122, tr. 171]. Tháng , 6 tên thám báo dùng hai chiếc thuyền từ hướng đồng bằng ngược sông Tranh lên huyện Giằng để dò la tin tức nắm tình hình hoạt động của cơ quan Khu ủy V và đường Trường Sơn đang mở ở đây cũng sớm bị LLVT và du kích địa phương phát hiện, tiêu diệt [29, tr.17]. Về tổ chức đấu tranh chống chính sách dồn dân của địch: Song song với những lĩnh vực kể trên, đây cũng là một trong những trận địa quyết liệt có vai trò quyết định trong vấn đề bảo vệ vững chắc các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ. Ở Quảng Nam, mùa Thu năm 1957, với âm mưu dồn dân về khu hành chính Thạnh Mỹ, tách ly dân ra khỏi ảnh hưởng của Đảng, địch bắt dân làng Padương (một thôn thuộc xã Bến Yên, huyện Giằng), đi xây dựng trại tập trung. Tuy nhiên, chỉ có một bộ phận nhân dân buộc phải ở lại, còn phần lớn đi lên ngọn khe Hara xây dựng làng bí mật cho cách mạng. Một số người dân còn lại trong làng vừa lo thu hoạch mùa màng, vừa gùi cõng lương thực, muối, công cụ, đồ đạc thiết yếu thường xuyên tiếp tế cho làng bí mật. Số đi dựng trại tập trung cho địch cố gắng kéo dài thời gian xây dựng để dân làng có thời gian xây dựng căn cứ. Sau gần ba tháng, trại tập trung của địch hoàn thành thì căn cứ cũng được xây dựng xong. Trước thủ đoạn dồn dân quyết liệt của địch, Ban cán sự miền Tây Quảng Nam và Huyện ủy huyện Giằng đi đến quyết định thành lập một đội vũ trang đầu tiên của huyện gồm 10 đội viên, hoạt động che mắt địch dưới hình thức giặc mùa để hỗ trợ cho đấu tranh của đồng bào ở khu dồn. Ở Bình Định, dưới chiêu bài định cư, cải thiện đời sống đồng bào Thượng, địch thực hiện âm mưu dồn dân Vĩnh Thạnh về các khu tập trung quanh quận lỵ để trực tiếp kìm kẹp dân, cô lập căn cứ địa. Tháng , địch mở hàng chục cuộc 75

77 hành quân càn quét vào các làng Tơ Lok, Tơ Lek, Hà Ri; đồng thời tiến hành bao vây kinh tế; cấm nhân dân ra khỏi làng, lên rừng phát rẫy và thu hái lâm thổ sản; cấm mua bán với người Kinh nhằm triệt phá nguồn tiếp tế cho căn cứ địa. Tuy nhiên, nhân dân đã bằng mọi cách tổ chức di chuyển tài sản, lương thực, thực phẩm vào rừng. Sau gần 4 tháng chuẩn bị, đêm ngày (29 tháng Chạp năm Mậu Tuất), nhân cơ hội quân địch ở địa phương kéo về quận ăn Tết, Ban cán sự và già làng 2 xã Vĩnh Hiệp và Vĩnh Hảo đã huy động nhân dân 11 làng gồm Tơ Lok, Tơ Lek và Hà Ri (Vĩnh Hiệp); 2 làng Kdriek, Konron, 2 làng Konyong, Konnia, KonDzin và Pnang (Vĩnh Hảo) nhất loạt nổi dậy dời làng vào rừng lập căn cứ. Được tin nhân dân Vĩnh Hiệp, Vĩnh Hảo dời làng lên núi cao lập căn cứ, đầu tháng , địch cho 1 đại đội bảo an mở cuộc hành quân càn quét làng Tơ Lok. Tuy nhiên, khi vào các làng địch sa ngay vào trận địa phục kích với hệ thống các bãi chông, mang cung liên hoàn, bẫy đá. Du kích và đồng bào Tơ Lok đã đẩy lùi nhiều cuộc càn quét nhằm vào căn cứ. Từ cuối tháng đến tháng , Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm mở nhiều cuộc tấn công lớn vào Căn cứ Vĩnh Thạnh. Phối hợp chặt chẽ với Vĩnh Thạnh, phong trào rào làng bố phòng, làm chủ buôn làng của đồng bào Vân Canh, An Lão cũng phát triển mạnh mẽ. Cuối năm 1959, ta làm chủ hoàn toàn 4 xã vùng cao: Canh Lồ, Canh Phong, Canh Tất và Canh Thông. Đầu năm 1960, các xã An Đồng, An Tân, An Ninh, An Cư, An Dân, An Mỹ được giải phóng tạo nên một vùng căn cứ rộng lớn. Trong phong trào chống dồn dân ở Bình Định năm 1959, Vĩnh Thạnh được đánh giá là ngọn cờ đầu. Thắng lợi này không những góp phần làm thất bại âm mưu và biện pháp chiến lược của Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm đánh phá căn cứ địa miền núi, mà còn trực tiếp bảo vệ tuyến hành lang chiến lược của Liên khu V, củng cố và mở rộng căn cứ địa ở miền Tây; cổ vũ, thúc đẩy mạnh mẽ phong trào các huyện đồng bằng trong tỉnh [3, tr. 47]. Ở Phú Yên, nhằm đánh phá Căn cứ Thồ Lồ, địch tìm cách mua chuộc, dụ dỗ đồng bào ở đây. Trong năm 1955, Ngô Đình Diệm đích thân đến Sông Cầu (Phú Yên) cho mời 10 già làng ở Thồ Lồ xuống ăn cơm đoàn kết. Cán bộ cách mạng đã kịp thời giải thích cho đồng bào hiểu âm mưu của đối phương; đồng thời hướng 76

78 dẫn cho họ cách đối phó. Khi chúng tiến hành mua chuộc, dụ dỗ, họ tìm cách từ chối hoặc trì hoãn. Khi địch làm găng, già làng cùng đồng bào chấp nhận một số yêu sách, nhưng khi chúng về thì lại xóa bỏ hết. Tranh thủ khoảng thời gian trì hoãn, đồng bào các buôn làng trong căn cứ tổ chức cắm chông, gài thò, xây dựng các ATK (An toàn khu) dự phòng trong rừng sâu, di chuyển tài sản vào các làng bí mật, đồng thời cũng chủ động canh gác đề phòng địch bất ngờ đánh vào căn cứ. Sau hơn 2 năm đấu tranh giằng co, tuy cũng có lúc phải nhân nhượng địch về một số yêu sách nhưng về cơ bản, nhân dân vẫn giữ vững quyền làm chủ căn cứ địa. Các thủ đoạn mua chuộc, dụ dỗ để thực hiện âm mưu dồn dân của địch đều bất thành. Tháng , Ngô Đình Diệm huy động một lực lượng quân lớn tiến công vào Căn cứ Thồ Lồ từ ba hướng: Vân Canh (Bình Định), Đồng Xuân (Phú Yên) kéo lên và Cheo Reo (Gia Lai) kéo xuống. Trong lần đánh phá này, chúng tổ chức vây làng, bắt dân di chuyển đồ đạc, đốt sạch nhà cửa. Đối phó với kế hoạch dồn dân của địch, cán bộ hướng dẫn nhân dân di chuyển vào các khu dã chiến trong rừng sâu; đồng thời cắm chông, gài thò, dùng vũ khí thô sơ đánh địch để tự vệ. Sau hơn một tháng lùng sục, vây ráp, địch chỉ cưỡng bức được chưa đầy 200 dân đưa về khu tập trung ở gần quận lỵ Vân Canh. Nhưng chỉ vài ngày sau đó, phần lớn số này đã tìm cách chạy về căn cứ. Thời gian sau đó, tuy Ngô Đình Diệm còn nhiều lần tập trung lực lượng đánh phá căn cứ nhưng với kinh nghiệm từ những lần đấu tranh trước đây, quân và dân Căn cứ Thồ Lồ đã khéo léo tận dụng địa hình rừng núi hiểm trở kết hợp vũ trang tự vệ bằng các loại vũ khí thô sơ để giữ vững được quyền làm chủ và phát triển thực lực cách mạng, bảo vệ vững chắc căn cứ địa. Như vậy, với sự chuẩn bị và sự chủ động đấu tranh trên nhiều phương diện, các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ đã đối phó một cách hiệu quả với các thủ đoạn đánh phá của đế quốc Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm. Thắng lợi của cuộc đấu tranh bảo vệ căn cứ địa ở Trung Trung Bộ trong giai đoạn có tác dụng giữ gìn, bảo tồn lực lượng cách mạng, củng cố hệ thống căn cứ địa vừa mới được phục hồi, tạo hành lang để lực lượng cách mạng tiến về đồng bằng. Kết quả này cũng tạo tiền đề cho thắng lợi của phong trào cách mạng trong giai đoạn sau. 77

79 * Tiểu kết chương 2 Trung Trung Bộ là địa bàn có vị trí chiến lược, điều kiện địa hình, dân cư, truyền thống lịch sử xã hội thuận lợi cho hoạt động xây dựng và bảo vệ căn cứ địa. Trên cơ sở dựa vào và phát huy tối đa những yếu tố thuận lợi của điều kiện địa lý tự nhiên, xã hội: địa hình đa dạng, rừng núi rộng lớn, sông biển nối liền, địa thế quân sự tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ, nhân dân giàu truyền thống yêu nước, chống xâm lược, đồng thời tích cực khắc phục một số hạn chế, khó khăn như: địa hình hiểm trở dễ bị chia cắt, cô lập, núi cao, sông suối ngắn, dốc, thiên tai bão, lũ thường xuyên xảy ra, điều kiện kinh tế khó khăn, mật độ dân cư thưa thớt ở miền núi... quân dân Trung Trung Bộ đã tích cực xây dựng các căn cứ địa làm nơi đứng chân an toàn cho các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy và LLVT. Trước ngày Tổng khởi Tháng Tám năm 1945, các căn cứ địa được xây dựng ở Phú Túc, Ô Rây, Đồng Xanh, Đồng Nghệ (Quảng Nam); Núi Lớn, Vĩnh Tuy (Quảng Ngãi); An Đỗ, An Sơn (Hoài Nhơn), Lộc Giang, Lộc Bài (Hoài Ân), Đại An, Đại Bình (An Nhơn) thuộc tỉnh Bình Định. Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, để tiến hành kháng chiến lâu dài, nhiều căn cứ tiếp tục được xây dựng như: Khu Sông Đà (Đà Nẵng), Chiến khu Trung Man, Căn cứ Tiên Phước, Khu kháng chiến Hạ Lào (Quảng Nam), Căn cứ Khu ủy khu V (Bình Định), Căn cứ Thồ Lồ (Phú Yên) Từ các căn cứ địa, vùng giải phóng, vùng tự do của Liên khu V không ngừng được mở rộng ở miền núi và đồng bằng. Các căn cứ địa được xây dựng với sự đa dạng về quy mô, cách thức tổ chức, tồn tại trong vùng địch kiểm soát và vùng tự do của Liên khu V đã trở thành địa bàn đứng chân an toàn của các cơ quan lãnh đạo kháng chiến của tỉnh, khu, nước bạn Lào; là nơi xây dựng và bồi dưỡng tiềm lực, cung cấp nguồn lực to lớn về sức người, sức của cho kháng chiến; đồng thời là bàn đạp xuất phát của các LLVT tiến công tiêu diệt địch ngoài căn cứ. Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trở thành điểm tựa, niềm tin của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp không chỉ đối với nhân dân địa phương mà còn cả đối với lực lượng kháng chiến nước bạn Lào. Hoạt động xây dựng căn cứ địa được tiến hành toàn diện trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, theo mô hình của một chế độ mới chế độ dân chủ nhân dân. Mặc dù chưa thật vững chắc nhưng những thành quả và 78

80 kinh nghiệm trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp chính là những cơ sở, nền tảng quý báu cho quân dân Trung Trung Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ sau này. Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quán triệt đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, nhằm đối phó với những âm mưu và thủ đoạn đánh phá mới của địch, quân dân các địa phương Trung Trung Bộ đã khẩn trương phục hồi, xây dựng các căn cứ địa đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến lâu dài. Các căn cứ Sông Đà (Đà Nẵng), Nước Oa, Nước Là, Trà Bồng, Sơn Tây (Quảng Ngãi), Vĩnh Thạnh (Bình Định), Thồ Lồ (Phú Yên) trở thành nơi đứng chân an toàn của hàng ngàn cán bộ đảng viên và lực lượng kháng chiến ở Khu V đồng thời cũng là nơi diễn ra các phong trào đấu tranh bền bỉ, quyết liệt của đồng bào các dân tộc để bảo vệ Đảng, bảo vệ cơ sở cách mạng. Sự phát triển của phong trào quần chúng đã góp phần tích cực vào việc giữ gìn lực lượng cách mạng, bảo vệ an toàn các căn cứ địa. Nhờ đó, các căn cứ địa có điều kiện xây dựng, củng cố thực lực để hỗ trợ phong trào đấu tranh quần chúng. Từ những hoạt động bám đất, bám dân gây cơ sở ban đầu, đến năm 1960, các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ đã không ngừng mở rộng, phát triển, hình thành một hệ thống tương đối vững chắc ở địa bàn miền núi, trở thành bàn đạp để lực lượng kháng chiến tiếp tục tạo nên những bước chuyển biến quan trọng trong giai đoạn tiếp theo. 79

81 CHƯƠNG 3 KẾT HỢP XÂY DỰNG VỚI BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY VAI TRÒ CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG Ở TRUNG TRUNG BỘ ( ) 3.1. Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong giai đoạn chống chiến lược Chiến tranh đặc biệt ( ) Tiếp tục củng cố các căn cứ địa miền núi, phát triển căn cứ địa ở vùng đồng bằng Thắng lợi của nhân dân miền Nam trong phong trào Đồng khởi đã làm lung lay bộ máy cai trị và hệ thống kìm kẹp của Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm. Vì vậy, từ năm 1961, Mỹ chuyển sang áp dụng chiến lược chiến tranh mới: Chiến tranh đặc biệt, thiết lập một hệ thống ấp chiến lược ở nông thôn đồng bằng, miền núi; kể cả vùng vành đai các đô thị; tổ chức hàng loạt cuộc hành quân càn quét với quy mô lớn vào các căn cứ địa cách mạng. Để cách mạng miền Nam tiếp tục phát triển, vấn đề bảo vệ, xây dựng và mở rộng căn cứ địa cách mạng trở thành một nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Nó đảm bảo cho việc xây dựng và phát triển thực lực cách mạng; đảm bảo cho việc tiến công quân địch và bảo vệ phong trào; bảo đảm cho việc chỉ đạo cách mạng ở cả miền Nam và trên từng vùng, miền; bảo đảm chỗ đứng chân của lực lượng cách mạng và các cơ quan đầu não kháng chiến. Do vậy, yêu cầu đặt ra đối với công tác xây dựng căn cứ địa cách mạng ở miền Nam là cần khẩn trương củng cố hơn nữa các vùng căn cứ hiện có; đẩy mạnh việc xây những căn cứ còn yếu, đồng thời phát triển căn cứ địa ngày càng rộng lớn hơn [84, tr ]. Nhằm đối phó với chiến lược Chiến tranh đặc biệt, quân và dân các địa phương Trung Trung Bộ vừa tích cực bảo vệ, xây dựng các căn cứ địa cách mạng ở miền núi thành địa bàn đứng chân vững chắc cho lực lượng kháng chiến; vừa đẩy 80

82 mạnh việc mở rộng vùng giải phóng ở đồng bằng, xây dựng các căn cứ du kích, cơ sở chính trị ở vùng địch kiểm soát, các lõm chính trị trong nội đô, hình thành hệ thống căn cứ rộng khắp, tạo thế liên hoàn để phát huy thế trận chiến tranh nhân dân trên địa bàn. Tháng , Trung ương Đảng quyết định tổ chức chiến trường miền Trung thành hai Khu: Khu V và Khu VI. Khu V gồm các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Kon Tum, Gia Lai. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Khu V là xây dựng căn cứ địa miền núi, phát triển LLVT. Tháng , BTL Quân khu V được thành lập tại Căn cứ Nước Là, huyện Trà My (Quảng Nam). LLVT tập trung của Quân khu biên chế thành 6 tiểu đoàn bộ binh: 20, 30, 50, 60, 70, 90, hai tiểu đoàn trợ chiến: 200, 300 và 2 đại đội đặc công. Phần lớn lực lượng này đều đứng chân ở Trà My. Tại căn cứ địa ở các tỉnh, LLVT được tổ chức đến cấp đại đội bộ binh và binh chủng. Ở huyện tổ chức cấp trung đội, xã tổ chức cấp tiểu đội đến trung đội dân quân (du kích), thôn tổ chức cấp tiểu đội dân quân (du kích). Từ cuối năm 1961, thực hiện nghị quyết của Quân ủy Trung ương đối với chiến trường Khu V là tiêu diệt sinh lực địch và xây dựng căn cứ địa cách mạng ở miền núi, xây dựng hậu phương trực tiếp của cách mạng miền Nam; tiến lên làm chủ rừng núi, giành lại nông thôn đồng bằng [94, tr. 207], Khu ủy V và các Tỉnh ủy chủ trương đẩy mạnh hoạt động củng cố, mở rộng căn cứ địa và vùng giải phóng ở đồng bằng. Trong năm 1961, các xã Poa, Riềng, Zút, Kót, Nú, nơi sinh sống của đồng bào Cor thuộc huyện Trà My, tỉnh Quảng Nam, được tách ra và nhập với một số xã của huyện Trà Bồng (Quảng Ngãi) để thành lập Căn cứ Liên Trà, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Khu ủy V. Ở miền núi tỉnh Quảng Ngãi, từ sau Hội nghị Tỉnh ủy (6-1961), các đơn vị vũ trang của tỉnh là 339, 89, 299 phối hợp với LLVT của Quân khu V tổ chức tập kích, tiêu diệt địch, giải phóng hoàn toàn các huyện Sơn Hà, Ba Tơ, bẻ gãy cuộc càn của địch vào Căn cứ Trà Bồng, hình thành nên một vùng căn cứ liên hoàn gồm 60 xã được giải phóng từ Trà Bồng qua Sơn Hà đến Ba Tơ [4, tr. 81

83 185]. Tại Phú Yên, Huyện ủy Tuy Hòa xây dựng Căn cứ du kích Miền Đông trong vùng địch tạm chiếm ở đồng bằng Tuy Hòa. Căn cứ Miền Đông thuộc phần cuối của dãy Trường Sơn, có nhiều ngọn núi cao hiểm trở, nhiều hang động tự nhiên, rất thuận lợi cho việc cất giấu vũ khí, đóng quân, tổ chức chiến đấu. Ở đây còn có đường hành lang chiến lược Bắc Nam đi qua, có nguồn tiếp tế từ các hướng Hòa Hiệp, Hòa Xuân, Hòa Tân. Địa thế núi giáp biển, còn một phần giáp đồng bằng là điều kiện lý tưởng cho hoạt động quân sự. Do vậy, ngay từ đầu năm 1961, Huyện ủy Tuy Hòa xây dựng địa bàn này thành căn cứ địa cách mạng. Ở huyện miền núi Đồng Xuân (Tuy Hòa), vào cuối tháng , LLVT và nhân dân nổi dậy tiêu diệt ác ôn, giành quyền làm chủ, giải phóng hơn một nửa xã Xuân Quang nối liền với Căn cứ địa Miền Tây trở thành địa bàn đứng chân của LLVT và các cơ quan của tỉnh ở vùng giáp ranh đồng bằng. Bước sang năm 1962, trên cơ sở ba xã Sơn Long, Sơn Định, Sơn Xuân đã được giải phóng, tỉnh Phú Yên xây dựng Căn cứ địa Vân Hòa. Đây cũng là nơi đứng chân của hầu hết các cơ quan Đảng, chính quyền, mặt trận, quân sự, công an, tài chính, giao liên tỉnh Phú Yên. Cũng trong năm 1962, căn cứ địa các tỉnh Quảng Nam, Quảng Đà, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên tiếp tục được mở rộng, phát triển ở nhiều địa bàn. Ngày , LLVT Quân khu V phối hợp với bộ đội địa phương tỉnh Quảng Nam mở chiến dịch Vượt sông Tiên. Thắng lợi của chiến dịch này đã hình thành căn cứ địa cách mạng: Sơn Cẩm Hà. Địa bàn này có một vị thế chiến lược hết sức quan trọng. Đây là một thung lũng, nhưng khá hiểm yếu, địch muốn tấn công phải vượt qua các con đường độc đạo, có đèo cao như: Đường 614 Tiên Phước Phước Cẩm, qua dãy Núi Vú; đường 615 Tam Kỳ Phước Cẩm qua đèo Eo Gió; Thăng Bình Phước Sơn phải vượt qua dãy Núi Ngang, hoặc phải qua dốc Xoài, Sông Khang lên Phước Hà. Căn cứ Sơn Cẩm Hà ra đời đã mở ra khả năng uy hiếp hệ thống phòng ngự của địch; nối thông với Căn cứ Trà My, đồng thời tỏa ra vùng đồng bằng trung du của tỉnh bao gồm các huyện: Hiệp Đức, Quế Sơn, Thăng Bình, Tam Kỳ Sau khi Sơn Cẩm Hà được giải phóng và trở thành một căn cứ 82

84 địa cách mạng có thế công thủ toàn diện thì các cơ quan Tỉnh ủy, Tỉnh đội Quảng Nam chuyển về đứng chân tại đây để trực tiếp lãnh đạo, chỉ huy cuộc kháng chiến. Tại vùng đồng bằng của tỉnh Quảng Ngãi, Huyện ủy Bình Sơn xây dựng căn cứ lõm ở Nam Bình (Bình Nguyên), Đông Bình (Bình Chánh) mang mật danh là Triều Tiên. Căn cứ ở Đồng Lớn (An Điềm) gọi là Đà Lạt, ở Phước Bình, Phú Lễ, Phước Thuận lấy mật danh là Liên Xô và Căn cứ núi Thình Thình. Ở địa bàn giáp ranh giữa miền núi và đồng bằng, Tỉnh ủy Bình Định xây dựng Núi Bà trở thành căn cứ địa cách mạng của Khu Đông. Đây là dãy núi cao nhất ở Bình Định, diện tích khoảng 90 km², địa hình hiểm trở, có thế công thủ toàn diện. Cùng với hệ thống rừng rậm, lòng núi có trên 30 hốc đá và hang động lớn đủ khả năng làm chỗ trú ẩn cho cả một tiểu đoàn, rất thuận lợi cho việc cất giấu lương thực, vũ khí. Địa thế Núi Bà vừa giáp với biển, vừa giáp với đồng bằng nên lực lượng cách mạng dễ dàng hoạt động và rút lui an toàn. Núi Bà là địa bàn rất thuận lợi cho việc xây dựng nơi đứng chân của các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy kháng chiến. Vì vậy, trong suốt những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, các cơ quan và LLVT của tỉnh Bình Định đều đóng ở đây. Để xây dựng địa bàn đứng chân và mở rộng hoạt động xuống đồng bằng cho lực lượng kháng chiến, từ sau thắng lợi của phong trào Đồng khởi, các căn cứ lõm được xây dựng quanh Núi Bà: Tân Thanh, Vĩnh Hội (Cát Chánh) và Lộc Khánh (Cát Thắng) hình thành hành lang và tạo ra bàn đạp để Tỉnh ủy Bình Định đưa lực lượng xuống bám trụ Khu Đông (Đông An Nhơn Đông Nam Phù Cát Đông Bắc Tuy Phước). Thêm vào đó, từ tháng , Tỉnh ủy và Ban cán sự Tỉnh đội đưa đơn vị 117B vào lập căn cứ ở huyện Vân Canh. Trên cơ sở đó, xây dựng bàn đạp cho việc mở rộng vùng giải phóng ở phía Nam. Đến cuối năm 1962, căn cứ địa miền núi tỉnh Bình Định tiếp tục được củng cố và mở rộng thêm một số làng thuộc vùng thấp của huyện An Lão và Vân Canh, với dân. Các căn cứ lõm bước đầu được hình thành ở các thôn vùng sâu phía Đông đường quốc lộ số 1 (Hoài Mỹ, Hoài Đức thuộc huyện Hoài Nhơn; Mỹ Đức, Mỹ Thọ thuộc huyện Phù Mỹ; Cát Khánh, Cát Thắng thuộc Phù Cát), tạo thế tiến công địch ngay tại vùng giáp ranh và vùng sâu [3, tr. 64]. 83

85 Vào giữa năm 1964, vùng giải phóng đã được mở rộng ở hầu hết địa bàn miền núi và một phần nông thôn đồng bằng của tỉnh Phú Yên. Nhiều địa bàn ven biển cũng thuộc quyền kiểm soát của cách mạng. Trên cơ sở sự thuận lợi này, Tỉnh ủy tổ chức tiếp nhận hàng hóa chi viện của miền Bắc bằng đường biển. Bến Vũng Rô thuộc Căn cứ địa Miền Đông (Phú Yên) trở thành căn cứ tiếp nhận và trung chuyển vũ khí, hàng chi viện của Miền Bắc cho ba tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, Đắc Lắc bằng đường biển. Để thực hiện nhiệm vụ này, Liên Tỉnh ủy III, Tỉnh ủy Phú Yên và Huyện ủy Tuy Hòa đã huy động lực lượng thanh niên cùng nhân dân các xã Hòa Hiệp, Hòa Xuân, Hòa Tân, Hòa Thịnh, Hòa Mỹ tổ chức bí mật dọn dẹp bến bãi, chọn nơi cất giấu ở các gộp đá, xây dựng cầu tàu dã chiến ra biển dài 20 m để tiếp nhận và cất giấu hàng hóa. Khi các chuyến tàu Không số cập bến Vũng Rô, trên tuyến đường được mở từ Căn cứ Đá Bàn (Hòa Thịnh) đi Bãi Xép Miền Đông, lực lượng dân công không quản ngày đêm, trèo đèo lội suối vận chuyển hàng hóa về căn cứ địa và đi các tỉnh Khánh Hòa, Đắc Lắc. Ba chuyến tàu Không số đã cập bến Vũng Rô thành công. Nhờ đó, Khu V tiếp nhận 200 tấn vũ khí, bổ sung kịp thời cho LLVT Phân khu Nam Phú Yên, góp phần vào việc đánh bại chiến lược Chiến tranh đặc biệt trên chiến trường Khu V [161, tr. 94]. Tháng , nhằm mở rộng căn cứ ở vùng cao phía Tây xuống vùng núi phía Đông để làm bàn đạp tiến xuống đồng bằng, Tỉnh ủy Bình Định chọn dãy núi Hòn Chè (nay thuộc thôn Hội Sơn và Thạch Bàn Tây, xã Cát Sơn, huyện Phù Cát) làm căn cứ của Tỉnh ủy để bảo tồn và phát triển lực lượng, tổ chức chống địch càn quét. Về mặt quân sự, Căn cứ Hòn Chè vừa đảm bảo được các yếu tố phòng ngự chiến lược, vừa thuận lợi trong việc triển khai lực lượng xuống uy hiếp mặt trận Khu Đông và tỉnh lỵ Bình Định. Khi bị địch càn quét đánh phá ác liệt, lực lượng cách mạng có thể rút về vùng hậu cứ phía Tây. Về mặt hậu cần, Căn cứ Hòn Chè có thể tiếp nhận sự chi viện từ đồng bằng, đảm bảo binh lương để kháng chiến lâu dài. Cùng thời điểm này, ở thị xã Tuy Hòa (Phú Yên), Căn cứ Đá Bàn thuộc thôn Cẩm Tú, xã Hòa Kiến, thị xã Tuy Hòa cũng được xây dựng. Địa bàn này giáp với 84

86 núi rừng Hòa Quang ở ba mặt Bắc, Tây, Nam. Từ Đá Bàn có thể cơ động lên căn cứ của tỉnh ở Sơn Long, về căn cứ của huyện Tuy Hòa 2 ở vùng núi Tây Hòa Quang. Tại các đô thị trong vùng địch kiểm soát như Đà Nẵng, Quy Nhơn, thị xã Quảng Ngãi, thị xã Tuy Hòa và vùng ven đô, lực lượng kháng chiến xây dựng được nhiều cơ sở chính trị, hầm bí mật, các lõm chính trị K20 (Đà Nẵng) là lõm chính trị tiêu biểu được xây dựng từ cuối năm Trên cơ sở sự phát triển của phong trào cách mạng ở Đa Mặn, Mỹ Đa, thực hiện sự chỉ đạo của Thành ủy Đà Nẵng, Quận ủy quận Ba xây dựng khối phố Đa Mặn thành một lõm chính trị, lấy mật danh là K20. Căn cứ K20 có diện tích khoảng 3 km², địa hình chủ yếu là đồng ruộng và sông, lạch. Tại xóm Đồng (thôn Nước Mặn) có 32 hộ gia đình sinh sống trở thành nơi trú đóng của khoảng từ 50 đến 100 cán bộ, chiến sỹ, biệt động, du kích. K20 cũng là nơi đứng chân của các cơ quan tiền phương của Thành ủy, Thành đội, Quận ủy Quận đội quận Ba và các phân đội đặc công, công binh, pháo binh, quân báo, trinh sát cấp trên về trú quân. Cũng trong năm 1964, Ban cán sự Đảng Quy Nhơn xây dựng căn cứ lõm tại thôn Hưng Thạnh, một địa bàn sát nách thành phố Quy Nhơn. Nhờ đó, cán bộ có điều kiện bám sát, kịp thời lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân ở đô thị. Từ năm 1965, Hòa Kiến là căn cứ lõm điển hình của tỉnh Phú Yên. Căn cứ Hòa Kiến nằm trên Quốc lộ 1, cách thị xã Tuy Hòa 3 km về phía Bắc và xung quanh núi Chóp Chài. Với hệ thống hầm bí mật được xây dựng tại các thôn Thanh Đức, Minh Đức, Ngọc Phong, Phước Hậu, Liên Trì, Ninh Tịnh, địa bàn này trở thành nơi đứng chân an toàn cho lực lượng cán bộ đi về hoạt động trụ bám. Các cơ sở chính trị, hầm bí mật, các lõm chính trị trong vùng địch kiểm soát trở thành nơi nuôi giấu cán bộ, nơi LLVT từ bên ngoài vào bám trụ để hoạt động, nơi tuyên truyền giác ngộ cách mạng đối với các tầng lớp nhân dân, nơi gây dựng và phát triển lực lượng cách mạng tại chỗ, động viên, huy động sự ủng hộ của các tầng lớp nhân dân để phục vụ cho kháng chiến, khi cần thiết có thể làm nội ứng hoặc phối hợp với lực lượng bên ngoài để đánh địch. Đến cuối năm 1965, căn cứ địa ở Trung Trung Bộ tiếp tục được củng cố và mở rộng đặc biệt là tại các vùng giáp ranh và đồng bằng. Các căn cứ mới được xây 85

87 dựng: K20, Sơn Cẩm Hà, Triều Tiên, Đà Lạt, Liên Xô, Núi Bà, Hòn Chè, Vân Hòa, Đá Bàn, Hòa Kiến không ngừng được củng cố, phát triển. Một số căn cứ ven biển đồng thời là bến bãi tiếp nhận hàng vận chuyển trên biển cũng được thành lập ở Vũng Rô (Phú Yên), Lộ Diêu (Bình Định), Đạm Thủy (Quảng Ngãi) Đẩy mạnh cuộc chiến đấu bảo vệ căn cứ địa Căn cứ địa cách mạng phát triển rộng khắp và liên hoàn ở miền núi phía Tây Trung Trung Bộ đã tạo thế bao vây trực tiếp uy hiếp các cơ quan đầu não của Mỹ và VNCH ở vùng đồng bằng. Đối với chính quyền VNCH, việc đối phó với các căn cứ trở thành vấn đề cấp thiết trước mắt cần phải tiến hành một cách khẩn trương gấp rút hơn bao giờ hết [137, tr. 30]. Đối phương xác định: Cần tập trung sự chú ý vào miền núi các tỉnh Nam Ngãi Bình Phú vì đó là những vùng căn cứ mạnh nhất của Việt cộng [137, tr. 33]. Âm mưu của địch trong việc đánh phá căn cứ địa khá thâm hiểm nhằm triệt tiêu các chỗ dựa của căn cứ địa, đó là tiến hành tiêu diệt mọi mặt từ lực lượng chính trị (cán bộ, cơ sở quần chúng và nhân dân theo Việt cộng), đến lực lượng quân sự (kể cả các LLVT và bán vũ trang) đến lực lượng kinh tế (kho tàng, nương rẫy, các cơ sở tiểu thủ công nghệ...) [137, tr. 33]. Để thực hiện mục tiêu trên, Mỹ và chính quyền VNCH đã thực hiện nhiều thủ đoạn đánh phá thâm độc và tàn bạo trên các lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế. Về quân sự: Mỹ và chính quyền VNCH tập trung thực hiện ba mục tiêu lớn. Trước hết là tiến hành triệt phá những địa bàn mà chúng cho là Mật khu của Việt cộng ở Liên khu V, trọng điểm là Căn cứ Liên khu V, Căn cứ Liên tỉnh II ở phía Tây Bình Định, căn cứ và hành lang các Tỉnh ủy Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Việc tiến hành triệt phá được thực hiện theo ba giai đoạn. Đầu tiên chúng cho máy bay quan sát, xác định tọa độ, nơi đứng chân của các cơ quan trên. Sau đó, dùng máy bay thả bom, nhiên liệu thiêu hủy; đồng thời thả khí giới, bom nổ chậm. Cuối cùng là mở các cuộc hành quân bình định, dựa vào các cứ điểm đóng quân đã được thiết lập từ trước, tiến công trực diện vào các căn cứ địa. Thứ hai, thiết lập một hệ thống cứ điểm thọc sâu vào các căn cứ địa của Việt cộng. Đây là vấn đề trọng tâm trong kế hoạch đối phó với căn cứ địa cách mạng ở 86

88 Trung Trung Bộ. Mục đích của việc xây dựng hệ thống cứ điểm của địch là vừa tấn công vào các căn cứ địa cách mạng, vừa phòng thủ; tạo địa bàn để quấy rối hậu phương tại chỗ của cách mạng; tiêu hao và tiêu diệt lực lượng cách mạng; ngăn cản sự tiến công của lực lượng kháng chiến xuống vùng đồng bằng và thành phố; gây thanh thế để chiêu dụ nhân dân, từng bước bình định miền núi. Thứ ba, thiết lập hành lang ấp chiến lược dọc vùng tiền sơn để ngăn chặn sự thâm nhập của đối phương, triệt phá hệ thống cơ sở tổ chức chính trị ở vùng miền núi giáp ranh đồng bằng, cắt đứt sự giao lưu giữa miền núi và đồng bằng, xây dựng hệ thống công sự ngầm và các chòi trinh sát ở những địa điểm thuận lợi để theo dõi hoạt động của đối phương. Theo kế hoạch của VNCH, ba công tác: Tiêu diệt các Mật khu, thiết lập một hệ thống đồn bốt thọc sâu vào rừng núi và xây dựng hành lang làng, ấp chiến lược dọc vùng tiền sơn cần phải được tiến hành đồng thời nhằm tạo thế dựa cho nhau [137, tr. 35]. Về chính trị: Mỹ và chính quyền VNCH tiến hành củng cố bộ máy chính quyền cấp thôn xã, đặc biệt chú ý đào tạo cán bộ người dân tộc để đưa vào bộ máy chính quyền các cấp. Bên cạnh đó, chúng tìm cách nắm lực lượng quần chúng thông qua việc chỉnh đốn các tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng hòa, Đoàn Thanh niên bảo vệ hương thôn, Hiệp hội Phụ nữ, Hội Nông dân. Để đánh vào địa bàn miền núi và các căn cứ địa cách mạng, đối phương tổ chức các chiến dịch tuyên truyền tâm lý với quy mô lớn, trong đó máy bay được sử dụng như là phương tiện hữu hiệu để tổ chức những cuộc phóng thanh chiêu dụ rộng rãi dân Thượng và rải truyền đơn kêu gọi cán bộ và LLVT Việt cộng quay về với chính nghĩa, phổ biến chính sách khoan dung của Chính phủ, đường lối phân biệt kháng chiến với Cộng sản [137, tr. 40]. Điều nguy hiểm hơn cả là Mỹ và chính quyền VNCH chủ trương sử dụng số cán bộ lãnh đạo có uy tín của cách mạng bị bắt, hoặc đầu hàng nhằm lôi kéo, dụ dỗ quần chúng, cán bộ và bộ đội ở các căn cứ địa. Cách thức thực hiện rất đa dạng và nham hiểm, ví như sử dụng những cán bộ Việt cộng đã bị bắt hoặc xuất thú, chú trọng những cán bộ lãnh đạo có ảnh hưởng và uy tín ở địa phương, viết thơ tranh thủ 87

89 cả về mặt tình cảm và lý trí, in thành truyền đơn có ảnh hưởng và chữ ký, kêu gọi cán bộ và binh sĩ Việt cộng trở về với quốc gia dân tộc, trở về với gia đình, tiếp tục sự nghiệp cách mạng Phản Cộng Bài Phong Đả Thực [137, tr. 40]. Về kinh tế: Máy bay của Mỹ và quân đội VNCH thường xuyên ném bom, phá hoại mùa màng và hoạt động sản xuất ở vùng trung tâm căn cứ địa. Trong các cuộc càn, chúng ra sức cướp bóc lúa gạo, đốt phá nhà cửa, tài sản của nhân dân vùng ven căn cứ đồng thời thực hiện bao vây phong tỏa kinh tế, cấm nhân dân đi lại buôn bán giao lưu giữa vùng thấp với vùng cao, giữa căn cứ với vùng ven. Đối với một số vùng đồng bào dân tộc, để giành dân, đối phương tìm cách lôi kéo bằng thủ đoạn tiếp tế muối, rựa, vải, mở rộng hoạt động y tế, vệ sinh, văn hóa, phát huy quan hệ trao đổi giữa hai vùng rừng núi và đồng bằng để bồi dưỡng nâng cao mức sống cho dân Thượng [137, tr. 40]. Hoạt động chống phá của Mỹ và VNCH về kinh tế đã làm cho đời sống của cán bộ, nhân dân căn cứ địa và công tác vận động đối với đồng bào các dân tộc gặp không ít khó khăn. Trong bối cảnh đó, vượt qua những khó khăn của thời kỳ đầu mới được thành lập và sự đánh phá ác liệt của địch, quân dân các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ đã tích cực, chủ động tổ chức bố phòng, chiến đấu bảo vệ căn cứ một cách hiệu quả. Xây dựng LLVT là một trong những nhiệm vụ căn bản nhằm đảm bảo sức mạnh chiến đấu bảo vệ căn cứ địa. Đầu năm 1964, Trung ương tăng cường cho Khu V bốn tiểu đoàn bộ binh 304, 40, 93, 97, Tiểu đoàn 303 súng máy phòng không 12 ly 7 và 2 tiểu đoàn quân bổ sung 305, 306. Tháng , khối LLVT địa phương các tỉnh Trung Trung Bộ được xây dựng đến cấp tiểu đoàn. Quảng Đà: Tiểu đoàn 75; Quảng Nam: Tiểu đoàn 70; Quảng Ngãi: Tiểu đoàn 83; Bình Định: Tiểu đoàn 50; Phú Yên: hai Tiểu đoàn 30 và 85. Năm 1965, thực hiện sự chỉ đạo của Quân khu về xây dựng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích, các tỉnh Quảng Đà, Quảng Ngãi, Bình Định mỗi tỉnh có hai tiểu đoàn tập trung, các huyện có từ một đến hai đại đội. LLVT Khu V lúc này đã có quân chủ lực, quân địa phương, du kích [109, tr. 325], lực lượng này trải rộng khắp các địa bàn căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ. 88

90 Từ đầu năm 1961, địch mở những cuộc hành quân càn quét quy mô lớn đánh vào các căn cứ địa cách mạng ở miền núi Trung Trung Bộ. Với tinh thần quyết tâm bảo vệ căn cứ, quân và dân các căn cứ địa đã kiên cường bám trụ, chủ động, sáng tạo, tích cực chiến đấu đập tan nhiều cuộc càn quét của địch. Ngày , phát hiện cơ quan Khu ủy V đang đóng ở Nước Là, đối phương huy động một tiểu đoàn với sự yểm trợ của trực thăng thực hiện đổ quân, bao vây đánh phá cơ quan, tiêu diệt lực lượng kháng chiến ở Nước Là nhưng chúng bị tổn thất nặng, buộc phải bỏ dở cuộc hành quân. Tháng , địch sử dụng chiến thuật trực thăng vận dùng 24 máy bay lên thẳng, 2 khu trục yểm hộ đổ quân xuống Căn cứ Nà Niêu, Trà Bồng (Quảng Ngãi) với ý định mở cuộc càn quét quy mô lớn vào vùng giải phóng nhưng thất bại. Để chủ động đánh địch, một hệ thống công sự bao quanh khu vực dự kiến địch đổ quân đã được gấp rút xây dựng. Trong trận đánh này, các lực lượng bảo vệ căn cứ đã bắn rơi 12 máy bay lên thẳng, tiêu diệt và làm bị thương 70 quân, đẩy chúng ra khỏi hành lang căn cứ địa, bảo vệ được cơ quan lãnh đạo của Khu V [91, tr.109]. Trong năm 1963, mức độ đánh phá của đối phương ngày càng trở nên ác liệt hơn. Tuy nhiên, với kinh nghiệm chiến đấu của các năm , quân dân căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ đã kiên cường bám trụ, đánh thắng hầu hết các cuộc càn quét quy mô lớn của đối phương vào các căn cứ địa cách mạng, gây cho chúng nhiều thương vong, bảo vệ an toàn cho các cơ quan đầu não kháng chiến. Tháng , Sư đoàn 2 VNCH phối hợp với lực lượng địa phương quân cùng sự yểm trợ của phi pháo, thiết giáp tiến hành hai cuộc càn quét lớn mang tên Lam Sơn 7 và Lam Sơn 8 tấn công vào Căn cứ Sơn Cẩm Hà. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy Quảng Nam, Huyện ủy Tiên Phước, du kích, bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực tỉnh đã quyết tâm trụ bám, chiến đấu tiêu hao, tiêu diệt lực lượng địch, làm thất bại âm mưu tái chiếm, bình định của chúng. Tiểu đoàn 70 LLVT tỉnh phân tán trực tiếp xuống tận các xã, thôn để kèm cặp lực lượng du kích. Phong trào du kích chiến tranh được phát động rộng rãi. LLVT và du kích vận dụng linh hoạt các hình thức tác chiến như tập kích, bắn tỉa lừa dụ địch vào các bãi 89

91 chông, hầm chông, bẫy đá để tiêu hao, tiêu diệt khiến cho chúng hoang mang, chùn bước khi tổ chức các cuộc càn quét vào căn cứ địa. Đầu tháng , địch mở chiến dịch Dân Thắng càn quét ác liệt dài ngày vào Căn cứ Miền Tây và Vân Hòa của tỉnh Phú Yên. 26 máy bay trực thăng liên tiếp đổ quân xuống các xã Sơn Long, Sơn Định, Sơn Xuân, phối hợp với các cánh quân bộ được sự yểm trợ của pháo binh, máy bay từ các hướng Củng Sơn, Tuy An, Đồng Xuân càn lên Căn cứ Vân Hòa. LLVT Vân Hòa phối hợp với LLVT tỉnh mở nhiều trận đánh lớn, đặc biệt là Đại đội 375 đã liên tục chiến đấu, diệt hơn 200 quân địch, bảo vệ vững chắc căn cứ địa [90, tr. 107]. Tháng , để bảo vệ Mật khu Đỗ Xá, bộ đội địa phương và du kích Trà Bồng phối hợp với quân chủ lực của Khu V cùng với quân dân các địa bàn lân cận tổ chức chiến đấu liên tục bao vây và tấn công địch, tiêu diệt 600 quân, bắn rơi và làm hỏng 20 trực thăng buộc địch phải vội vã rút quân [91, tr.111]. Sau thất bại của 2 cuộc càn Lam Sơn 7 và Lam Sơn 8 ở Sơn Cẩm Hà, từ tháng 7 đến tháng , địch tiếp tục mở các cuộc càn Bình Châu với lực lượng đông nhất lên đến gần 16 tiểu đoàn, có xe tăng và máy bay yểm trợ đánh vào căn cứ địa từ nhiều hướng. Sáng ngày , chúng cho 5 xe M113 đi trước mở đường thăm dò, tiếp đó là một tiểu đoàn bộ binh và một đại đội biệt động quân từ Việt An (Thăng Bình) tiến vào Tiên Sơn. Với thế trận được chuẩn bị từ trước, du kích Tiên Sơn phối hợp với một tổ trinh sát của Tiểu đoàn 70 tổ chức chặn đón đánh ngay từ đầu, làm tiêu hao một bộ phận quân địch, khiến số còn lại phải rút quân về Việt An vào trưa ngày hôm sau. Tuy nhiên, vào ngày , chúng lại tiếp tục mở cuộc càn với quy mô lớn. 23 xe M113 cùng phi pháo yểm trợ cho 9 cánh quân tấn công vào trọng điểm Tiên Sơn. Sau khi xây dựng các con đường dã chiến từ Định Sơn sang Tiên Hà, Tiên Hà đi Tiên Châu, Dương Sủng đi thôn 5 Tiên Sơn, đối phương tăng cường huy động thêm 25 xe GMC chở lính, dây thép gai, cọc sắt và sự yểm trợ của M113 thực hiện việc gom dân và lập ấp chiến lược. Lực lượng trụ bám ở căn cứ địa kiên quyết chống càn, ngày đêm chiến đấu, quần nhau với địch, ngăn chặn được các mũi tiến công, tập kích, bắn tỉa, quấy rối buộc chúng phải luôn đối 90

92 phó. Trong tháng , địch tiếp tục điều quân mở rộng diện càn quét. Tuy nhiên, bộ đội tỉnh, huyện, du kích kiên cường bám giữ trận địa, bảo vệ vững chắc Căn cứ địa Sơn Cẩm Hà. Bước sang tháng , địch vẫn ngoan cố ra sức mở rộng càn quét, đánh vào Tiên Phong, nơi đứng chân của cơ quan Tỉnh ủy Quảng Nam. Tại đây, bộ đội địa phương tỉnh và du kích chặn đánh quyết liệt, gây cho chúng những tổn thất nặng nề. Vì vậy, đối phương chuyển sang tập trung quân hình thành các chiến đoàn, đưa Sư đoàn 2 VNCH lên càn quét trở lại Tiên Sơn, Tiên Cẩm, Tiên Phong. 26 chiếc trực thăng liên tiếp đổ quân xuống đóng một số chốt điểm tại Tiên Sơn. Từ Tam Kỳ, 10 tiểu đoàn địch kéo lên đóng rải rác ở các xã Tiên Sơn, Tiên Cẩm, Tiên Phong, Tiên Mỹ và một số xã của huyện Tam Kỳ, Thăng Bình. Cuộc chiến đấu bảo vệ căn cứ địa cách mạng lần này được thực hiện trên cả ba mũi giáp công. Thực hiện kế hoạch phối hợp giữa Tỉnh đội và Huyện đội, trong khi LLVT tỉnh đánh vào các ấp chiến lược ở Tiên Sơn, thôn 4 Tiên Cẩm, Gò Bụp, Tiên Phong; bộ đội huyện, du kích các xã nhân cơ hội này đã đẩy mạnh hoạt động giải phóng các xã Tiên Phong, Tiên Sơn, Tiên Cẩm. Cùng lúc này, phong trào du kích chiến tranh các xã phát triển mạnh mẽ, lực lượng du kích các xã quần bám đánh địch, tham gia chống càn, liên tục quấy rối địch. Hỗ trợ cho hoạt động quân sự của LLVT, phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân diễn ra dưới nhiều hình thức. Ở Tiên Sơn, Tiên Cẩm, nhân dân cùng du kích, bộ đội phá rào thép gai, lấp chiến hào của địch vừa xây dựng. Quần chúng đấu tranh đòi chính quyền địch phải bồi thường lúa, nhà cửa bị đốt, đòi chồng con bị bắt lính trở về Kết quả là, trong năm 1963, các mũi đấu tranh của LLVT và quần chúng đã làm phá sản chiến dịch Bình Châu, bảo vệ vững chắc Căn cứ địa Sơn Cẩm Hà. Tháng , lực lượng an ninh vũ trang của tỉnh Quảng Ngãi và huyện Trà Bồng tiếp tục bẻ gãy cuộc càn mang tên Chiến dịch Quyết thắng 202 của quân đội VNCH tấn công vào Căn cứ Mang Xinh, bảo vệ an toàn cho phần lớn các cơ quan, kho tàng, các cơ sở sản xuất, đường dây, trạm trại trong căn cứ. Trong điều kiện địch đánh phá ngày càng ác liệt, việc đẩy mạnh phong trào du kích chiến tranh trở thành yêu cầu tất yếu, góp phần quan trọng vào hoạt động chiến 91

93 đấu bảo vệ các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ. Lực lượng du kích các địa phương không ngừng được củng cố và tăng cường. Đầu năm 1964, căn cứ địa miền núi Trung Trung Bộ có du kích (Quảng Đà 818 người, Quảng Nam người, Quảng Ngãi người, Bình Định người, Phú Yên 335 người), đồng bằng có du kích (Quảng Đà 800 người, Quảng Nam người, Quảng Ngãi 602 người, Bình Định 912 người, Phú yên 850 người) [50, tr. 50]. Mỗi thôn thành lập 1 trung đội dân quân, xã có từ 1 đến 2 trung đội du kích. Hệ thống làng chiến đấu được chú trọng xây dựng vững chắc. Cuối 1965, Quảng Đà có 107 thôn và 5 xã xây dựng làng chiến đấu, huy động ngày công của quần chúng tham gia phát triển 229 tuyến chiến đấu dài m và nhiều bờ rào, chông thò, cạm bẫy [97, tr. 50]. Quảng Ngãi cũng xây dựng 294 thôn chiến đấu, đào được gần 20 km địa đạo và 710 km giao thông hào, 845 công sự chiến đấu, hầm chống tăng [4, tr. 230]. Các thôn xã chiến đấu được xây dựng vững mạnh đã phát huy tác dụng tốt trong việc chống lại các hoạt động lùng sục, càn quét của địch vào căn cứ địa. Song song với hoạt động chiến đấu bảo vệ căn cứ địa của LLVT và nhân dân, bộ máy an ninh các cấp phối hợp cùng lực lượng quần chúng ở các buôn, làng điều tra nghiên cứu, nắm tình hình địch, phát hiện và phá mạng lưới điệp báo, làm thất bại âm mưu đánh phá căn cứ địa từ bên trong của đối phương Chủ động xây dựng kết hợp với bảo vệ căn cứ địa cách mạng, góp phần đánh thắng chiến lược Chiến tranh cục bộ ( ) Phát triển thực lực căn cứ địa cách mạng đáp ứng yêu cầu chống chiến lược Chiến tranh cục bộ Sau thất bại của chiến lược Chiến tranh đặc biệt, giữa năm 1965, đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược Chiến tranh cục bộ, ồ ạt đưa quân vào miền Nam với hy vọng từng bước phản công giành lại thế chủ động trên chiến trường. Mục tiêu cơ bản của chiến lược Chiến tranh cục bộ là tìm diệt lực lượng chủ lực quân giải phóng, phá căn cứ du kích, thực hiện chương trình bình định vùng chiếm đóng. 92

94 Song song với việc đưa hơn nửa triệu quân Mỹ và đồng minh cùng một khối lượng lớn vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại vào miền Nam, đế quốc Mỹ nhanh chóng bố trí lại lực lượng, tăng cường trang bị vũ khí chiến đấu hiện đại cho quân đội VNCH, tiếp tục kiên cố hóa hệ thống phòng thủ ở những địa bàn chiến lược; gấp rút xây dựng hệ thống cầu đường, bến cảng, sân bay, kho tàng để phục vụ cho nhu cầu chiến tranh. Trên địa bàn Trung Trung Bộ, Mỹ xây dựng các căn cứ quân sự hiện đại: Căn cứ liên hợp quân sự Đà Nẵng, Căn cứ Chu Lai, Căn cứ Khâm Đức Ngok Tavak, sân bay Phù Cát, một số sân bay dã chiến ở Quảng Ngãi, thiết lập một hệ thống đồn bốt lấn sâu vào vùng giải phóng, tạo bàn đạp cho các cuộc càn quét đánh phá vào các căn cứ địa cách mạng. Trước tình hình đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược, tháng Quân Khu ủy V đề ra nhiệm vụ: Cần phải Củng cố và mở rộng căn cứ địa cách mạng; tích cực rèn luyện bồi dưỡng và phát triển lực lượng; nhanh chóng nâng cao sức chiến đấu bộ đội góp phần xứng đáng làm thay đổi lực lượng so sánh có lợi cho ta, cùng toàn dân giành một bước thắng lợi quyết định [94, tr. 470]. Thực hiện chủ trương trên, quân dân Trung Trung Bộ tích cực đẩy mạnh xây dựng căn cứ địa cách mạng, đáp ứng yêu cầu của cuộc chiến đấu mới với những cam go và thử thách mới: đương đầu trực tiếp với quân Mỹ và quân đồng minh. Việc xây dựng căn cứ địa cách mạng được triển khai toàn diện trên các mặt: Về chính trị: Các cấp ủy Đảng, chính quyền thường xuyên đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, của MTDTGPMN Việt Nam nhằm thống nhất nhận thức và hành động cho quân dân các căn cứ địa. Nhiều lớp chỉnh huấn, hội nghị về công tác tư tưởng, các lớp bồi dưỡng về chính trị được tổ chức cho cán bộ, LLVT và nhân dân trong các căn cứ địa đã góp phần nâng cao bản lĩnh, tinh thần chiến đấu cho quân dân. Công tác phát triển Đảng, xây dựng các đoàn thể quần chúng, củng cố bộ máy chính quyền nhân dân vững mạnh, kiên quyết trấn áp đối với lực lượng phản cách mạng được tăng cường. Cán bộ, đảng viên, LLVT giữ vai trò tiên phong, gương mẫu chấp hành chủ trương đường lối, chính sách của Đảng đặc biệt là chính sách dân tộc, tôn giáo. 93

95 Công tác vận động đồng bào các dân tộc được tiến hành hết sức linh hoạt, khéo léo trên cơ sở tôn trọng phong tục tập quán đồng thời phát huy truyền thống đánh giặc giữ làng của đồng bào. Các cấp ủy Đảng, chính quyền cách mạng ở các địa phương Trung Trung Bộ chủ động lập kế hoạch xây dựng căn cứ địa ở từng địa phương; đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân tích cực thực hiện kế hoạch này. Nhằm ổn định tư tưởng, nêu cao quyết tâm đánh Mỹ cho quân dân các căn cứ địa, tháng Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng Trung Trung Bộ mở cuộc vận động Nhà nhà đón thư Đảng, bàn việc đánh Mỹ, cứu nhà, cứu nước, phát động phong trào Toàn dân hiến kế đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, nhiều địa phương tổ chức Hội nghị Diên Hồng bàn cách đánh Mỹ, thành lập các đội quyết tử đánh Mỹ. Những cuộc vận động và phong trào thi đua trên đã tạo nên không khí hào hứng, sôi nổi đánh Mỹ trong căn cứ địa; lực lượng trụ bám tại nhiều căn cứ về cơ bản đã khắc phục được tư tưởng: gờm Mỹ, sợ Mỹ, nhất là từ sau chiến thắng Núi Thành (Quảng Nam). Sự ra đời của các vành đai diệt Mỹ ở Chu Lai, Núi Thành, Hòa Vang cũng góp phần tạo nên không khí phấn khởi cho đông đảo quân dân các căn cứ địa cách mạng. Thực hiện chủ trương của Trung ương Cục miền Nam và Ủy ban MTDTGPMN Việt Nam về tích cực củng cố chính quyền cách mạng, đặc biệt là chính quyền cơ sở nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, căn cứ địa các tỉnh Trung Trung Bộ tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng, củng cố hệ thống chính quyền cấp thôn, xã, huyện. Trong năm 1965, đã có 96/126 thôn, xã vùng giải phóng miền núi và đồng bằng của tỉnh Bình Định thành lập chính quyền tự quản thôn, xã, động viên nhân dân đoàn kết xây dựng căn cứ địa và bảo vệ vùng giải phóng [3, tr ]. Năm 1966, 4 xã căn cứ thuộc miền núi tỉnh Quảng Đà tiến hành bầu Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban tự quản [98, tr. 36]. Năm 1968, Quảng Ngãi là địa phương tiến hành xây dựng chính quyền cấp huyện với 8 huyện thành lập HĐND giải phóng và UBNDCM, 128 xã trong tổng số 179 xã có chính quyền cách mạng thông qua bầu cử của nhân dân [154, tr. 19]. 94

96 Về xây dựng kinh tế: Để giải quyết vấn đề lương thực cho các lực lượng trụ bám tại căn cứ, từ cơ quan Khu ủy V, BTL Quân khu đến các tỉnh, các cơ quan ban ngành, ngoài việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn đều tổ chức sản xuất tự túc. Trong năm 1966, nhờ tích cực thực hiện nhiệm vụ đẩy mạnh sản xuất mà một số đơn vị thuộc Sư đoàn 2 tự túc được bốn tháng ăn [62, tr. 202]. Các đơn vị và cơ quan Tỉnh đội Phú Yên sản xuất thu hoạch được gần 138 tấn lúa, trồng được gốc sắn, thu hơn tấn sắn củ, 50 tấn bắp, 30 tấn khoai lang và hơn 3 tấn đậu các loại [122, tr. 283]. Hoạt động tiếp nhận sự chi viện của miền Bắc được thực hiện thông qua các tuyến vận tải cả bằng đường bộ, đường biển. Từ năm 1965 đến 1967, đã có tấn hàng hóa được tập kết về các căn cứ địa của Khu V [62, tr.178]. Bên cạnh đó, để trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động vận tải, từ tháng , Khu ủy và BTL Quân khu thành lập Tổng đoàn vận tải hành lang đồng thời tổ chức hai hệ vận tải đường dọc và đường ngang. Trục đường dọc theo hướng Bắc Nam do các đoàn Bình Sơn, Nam Sơn, Tây Sơn đảm nhận, có nhiệm vụ tiếp nhận hàng chi viện từ miền Bắc vào. Hệ đường ngang do các tiểu đoàn thanh niên xung phong: Bắc Hải, Trung Hải, Nam Hải, Thượng Hải, Hắc Hải, Bình Hải đảm nhận, có nhiệm vụ tiếp nhận lương thực, thực phẩm, thuốc men từ bên ngoài đến các căn cứ địa hoặc do cơ quan kinh tài thu mua, chuyển từ bên ngoài tập kết về căn cứ. Hoạt động sản xuất của nhân dân tại các căn cứ góp phần quan trọng vào việc xây dựng tiềm lực kinh tế kháng chiến. Để khuyến khích phát triển sản xuất, chính quyền cách mạng ở các căn cứ thực hiện việc cấp ruộng đất và giảm tô cho nông dân; đẩy mạnh phong trào hợp tác tương trợ lao động. Năm 1966, căn cứ địa miền núi Quảng Đà có 439 tổ hợp tác với tổ viên, chiếm 99,4% lao động tham gia [98, tr. 34]. Năm 1968, các căn cứ địa vùng đồng bằng Quảng Ngãi có 279 tổ vòng đổi công với tổ viên, căn cứ địa miền núi có 765 tổ vòng công hợp tác tương trợ lao động với tổ viên [153, tr. 37]. Việc kiện toàn các tổ vần công và tổ hợp tác đã góp phần giữ vững sản xuất, giải quyết được nhu cầu đời sống nhân dân các căn cứ địa, huy động được nhiều lương thực phục vụ cho kháng chiến. 95

97 Cùng với việc động viên các lực lượng trong căn cứ địa tích cực đẩy mạnh tăng gia sản xuất, công tác vận động sự đóng góp của nhân dân vùng địch tạm chiếm cũng góp phần đáng kể vào việc xây dựng nền kinh tế kháng chiến tại các căn cứ địa. Chỉ riêng trong năm 1965, nhân dân vùng giải phóng, căn cứ địa Quảng Ngãi, Bình Định đóng góp tấn lúa, 62 triệu đồng và 1 triệu 60 vạn ngày công phục vụ chiến trường [57, tr. 242]. Giữa năm 1966, sau 45 ngày đêm thực hiện công tác vận động ở vùng địch, lực lượng hậu cần tỉnh Phú Yên động viên thu mua hơn 50 tấn gạo, gần 2 tấn thực phẩm đưa lên căn cứ [93, tr.114]. Mặc dù địch đánh phá ác liệt, hoạt động giao lưu hàng hóa giữa vùng địch tạm chiếm và vùng giải phóng vẫn được duy trì thường xuyên. Trong giai đoạn , tại các cửa khẩu, lực lượng Ban Kinh tài của tỉnh Quảng Ngãi tiếp nhận vận chuyển khai thác gần tấn muối, tấn gạo và hàng ngàn tấn hàng hóa khác [160, tr. 416]. Tỉnh Phú Yên vận chuyển được hàng trăm tấn lương thực từ các cửa khẩu về căn cứ, gần 50 tấn vũ khí, quân trang của Quân khu chi viện từ đường dây Trung ương về [93, tr. 119]. Nhờ đó, đã đảm bảo phục vụ các nhu cầu tối thiểu cho đời sống và chiến đấu của quân dân, tăng cường tiềm lực kinh tế cho căn cứ địa; đồng thời cũng góp phần làm suy giảm một phần hậu phương, hậu cần của địch. Về văn hóa xã hội: Các cấp ủy Đảng, chính quyền chú trọng xây dựng nền văn hóa mới, tiến bộ phục vụ yêu cầu kháng chiến. Thông qua các phương tiện: Đài phát thanh giải phóng, báo chí giải phóng, các đoàn văn công giải phóng, các đội chiếu bóng lưu động, chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Mặt trận được tuyên truyền phổ biến sâu rộng đến tận các bản, làng, đến từng người dân tại căn cứ địa. Hoạt động văn hóa hướng vào việc tuyên truyền phổ biến nếp sống văn hóa mới, động viên nhân dân xóa bỏ, cải tiến các phong tục lạc hậu; đồng thời giáo dục động viên lòng yêu nước căm thù giặc, phát huy những thành tích trong chiến đấu và sản xuất. Bên cạnh các hoạt động văn hóa nghệ thuật chuyên nghiệp, phong trào văn hóa văn nghệ quần chúng phát triển sôi nổi tạo không khí vui tươi, lành mạnh trong đời sống tinh thần của bộ đội và nhân dân căn cứ địa. 96

98 Trong điều kiện chiến tranh ác liệt, công tác giáo dục ở các căn cứ địa vẫn có bước phát triển. Phong trào bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ trong nhân dân không ngừng được đẩy mạnh. Tháng , xã Ba Khâm (thuộc Căn cứ huyện Ba Tơ, Quảng Ngãi) được công nhận là ngọn cờ xóa mù chữ của Trung Trung Bộ và được tặng thưởng Huân chương Giải phóng hạng Ba [160, tr. 727]. Năm 1966, các căn cứ địa miền núi Quảng Đà mở 85 lớp bình dân học vụ với trên học sinh, 24 lớp phổ thông với 900 học sinh và bổ túc văn hóa cho 450 người [98, tr. 35]. Giai đoạn , vùng giải phóng đồng bằng và căn cứ miền núi tỉnh Bình Định có học sinh cấp I, 45 lớp cấp II với học sinh [23, tr. 155]. Nhìn chung, hoạt động giáo dục cách mạng không chỉ nâng cao trình độ dân trí cho cán bộ, nhân dân ở các căn cứ địa mà còn góp phần đào tạo, bồi dưỡng một lực lượng cán bộ đông đảo, phục vụ yêu cầu của cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước sau này. Công tác y tế tại các căn cứ địa tập trung vào việc chăm sóc sức khỏe nhân dân và cán bộ chiến sỹ, đảm bảo yêu cầu sản xuất và kháng chiến. Mạng lưới y tế được hình thành từ huyện đến xã cùng với các đội phẫu thuật ở vùng sâu đã khắc phục khó khăn đảm bảo yêu cầu chữa bệnh, phòng bệnh cho nhân dân, cấp cứu, điều trị thương binh. Bên cạnh việc chủ động hướng dẫn nhân dân căn cứ địa thực hiện vệ sinh, phòng bệnh, chống chất độc hóa học có kết quả, các cơ sở y tế còn tích cực tìm kiếm cây thuốc nam, bào chế, sản xuất được thuốc chữa bệnh tại chỗ. Trong năm 1966, y tế căn cứ địa miền núi Quảng Đà đã chữa vết thương và chữa lành bệnh cho người, sản xuất được nhiều loại thuốc để chữa bệnh và phòng bệnh cho nhân dân [98, tr. 36]. Y tế Phú Yên sản xuất được viên thuốc chữa bệnh sốt rét, viên thuốc đau bụng, viên thuốc bổ, 14 kg bông hút nước [122, tr. 284]. Nhờ đẩy mạnh vệ sinh phòng bệnh, ngành y tế đã kịp thời dập tắt các bệnh dịch vừa chớm nở, giảm tình trạng đau ốm trong cán bộ, nhân dân căn cứ địa. Về quân sự: Phát triển LLVT ba thứ quân, thực hiện quốc phòng hóa toàn dân, triển khai thế trận quốc phòng toàn dân trong xây dựng và chiến đấu bảo vệ căn cứ, xây dựng các phương án phòng ngự và phối hợp chiến đấu giữa các căn cứ địa với nhau. Hệ thống làng chiến đấu được xây dựng trong và bao quanh các căn 97

99 cứ địa đã góp phần quan trọng vào việc tăng cường sức mạnh quân sự làm thất bại các cuộc hành quân càn quét, các cuộc xâm nhập bằng trực thăng vận, biệt kích của quân Mỹ VNCH vào căn cứ địa cách mạng. Song song với hoạt động xây dựng LLVT ba thứ quân, các lực lượng trụ bám tại căn cứ địa tăng cường thực hiện công tác bố phòng, bảo vệ căn cứ địa, kết hợp với đẩy mạnh chiến tranh du kích. Trong năm 1965, LLVT và du kích các xã căn cứ miền núi tỉnh Quảng Đà đã đánh 25 trận, tiêu diệt hàng trăm quân địch [97, tr. 50]. Bên cạnh đó, phong trào xây dựng làng xã chiến đấu cũng được triển khai rộng khắp. Đến năm 1966, 32 xã thuộc các căn cứ địa cách mạng miền núi của tỉnh Quảng Nam được xây dựng trở thành thôn xã chiến đấu có khả năng chống được các loại càn của quân Mỹ VNCH [147, tr. 37]. Đặc biệt trong năm 1968, phong trào diễn ra hết sức sôi nổi ở Quảng Đà, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định. Ở Căn cứ Nam Giang (Quảng Đà), nhân dân vót, cắm trên 1 triệu cây chông, gài 980 lưỡi thò, đào 235 hầm trú ẩn ở nhà, 314 hầm ở rẫy và dọc đường, 151 công sự chiến đấu, bố phòng 6 tuyến chiến đấu ở những nơi trọng yếu, 8 khu vực thường xuyên canh gác cẩn mật đề phòng biệt kích Mỹ nhảy dù thâm nhập căn cứ [13, tr. 230]. Các huyện miền núi Trà Bồng, Sơn Hà, Ba Tơ, Giá Vụt (Quảng Ngãi) đã bố phòng cây chông các loại trên 25 đồi núi [153, tr. 9]. Căn cứ Vĩnh Thạnh (Bình Định) chế tạo mang cung, xây dựng 505 hầm chông, 16 hầm chống phi pháo và hàng trăm bẫy đá, chông đập, chông bay [8, tr.213]. Nhờ có hệ thống làng xã chiến đấu liên hoàn và hệ thống công sự, địa đạo vững chắc nên LLVT địa phương và chủ lực của Khu có thể trụ bám, tổ chức chiến đấu bẻ gẫy các cuộc phản công lớn của quân Mỹ và VNCH, góp phần đánh thắng nhiều cuộc hành quân lùng sục của địch vào các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ Tổ chức chiến đấu, đánh thắng các cuộc hành quân càn quét của địch vào căn cứ Một trong những mục tiêu của đế quốc Mỹ trong chiến lược Chiến tranh cục bộ là tìm diệt lực lượng chủ lực và các cơ quan đầu não kháng chiến. Để thực hiện mục tiêu này, quân Mỹ và VNCH mở nhiều cuộc hành quân càn quét, đánh phá 98

100 quyết liệt vào hai chiến trường trọng điểm là miền Đông Nam Bộ và Khu V. Đối với các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ, địch tăng cường lực lượng, sử dụng mọi thủ đoạn đánh phá. Tháng với sự hỗ trợ của máy bay B.52 và pháo binh, đối phương tổ chức hai cuộc càn quét cấp trung đoàn vào Căn cứ Núi Bà, nơi đứng chân của Tỉnh ủy Bình Định. Trong tháng , quân Mỹ và đồng minh liên tiếp mở các cuộc hành quân đánh vào Bắc Bình Định, Nam Quảng Ngãi và vùng giải phóng Nam Phú Yên với mục tiêu tìm diệt các đơn vị chủ lực của Quân khu V và các tỉnh, triệt phá căn cứ địa cách mạng, bảo vệ an toàn cho các căn cứ của Mỹ dọc ven biển Trung Trung Bộ. Tháng , 5 tiểu đoàn lính Mỹ thực hiện cuộc càn quét vào Căn cứ Sơn Cẩm Hà của tỉnh Quảng Nam. Tháng , quân Mỹ VNCH tiếp tục tổ chức cuộc càn quét cấp sư đoàn kéo dài suốt một tháng vào Căn cứ Núi Bà (Bình Định). Cuối tháng , Lữ đoàn 1 Sư đoàn 4 quân Mỹ mở cuộc càn quét mang tên Adams đánh vào Căn cứ Vân Hòa, Tây Đồng Xuân của tỉnh Phú Yên. Trong các cuộc hành quân đánh phá các căn cứ địa, vùng giải phóng, địch sử dụng cả máy bay B.52 và hàng trăm tấn chất độc hóa học nhằm triệt phá tận gốc các cơ sở kinh tế, kho tàng, trục hành lang của Khu và các tỉnh. Song song với những hoạt động đánh phá về quân sự, Mỹ và quân đội VNCH tung lực lượng thám báo, biệt đội sưu tầm giả dạng quân giải phóng, thanh niên trốn bắt lính, người khai thác lâm sản để xâm nhập các căn cứ địa, gây cơ sở hoạt động thu thập tin tức; điều tra địa điểm cơ quan kho tàng, nơi đóng quân ở các căn cứ địa Qua đó, chỉ điểm cho máy bay đến đánh phá. Để bảo vệ vững chắc các căn cứ địa cách mạng, LLVT và nhân dân tích cực tổ chức các hoạt động chiến đấu, từng bước làm thất bại nhiều cuộc tấn công của địch vào căn cứ. Chỉ tính từ tháng đến tháng , du kích các căn cứ địa miền núi Trung Trung Bộ và các tỉnh miền núi khác trên địa bàn Khu V thực hiện độc lập chiến đấu tiêu diệt quân địch, hạ 115 máy bay, bắn bị thương 125 chiếc khác, phá hủy 164 xe, 42 cầu cống, 156 km đường ô tô, thu 449 súng [52, tr. 5], trong đó có nhiều trận chống càn tiêu biểu. Ngày , phát hiện lực lượng của Trung đoàn 2 Sư đoàn 3 Sao Vàng đang luyện quân tại thung lũng Thuận Ninh (huyện Bình Khê, Bình Định), đối phương tiến hành một cuộc càn lớn với sự tham gia lính Mỹ cùng sự yểm trợ 99

101 của máy bay, pháo binh nhằm tiêu diệt lực lượng bộ đội chủ lực ở đây. Để đối phó với địch, lực lượng an ninh vũ trang bảo vệ căn cứ tỉnh Bình Định phối hợp với bộ đội và du kích địa phương tổ chức chặn đánh, tiêu diệt hơn 200 quân Mỹ, bắn cháy 11 máy bay lên thẳng, bẻ gãy cuộc càn quét, bảo vệ an toàn cho các cơ quan đứng chân tại đây [28, tr. 151]. Tháng , khi quân Mỹ VNCH tiến hành cày ủi, âm mưu lập vành đai trắng ở Căn cứ K20 (Đà Nẵng), một số đảng viên và quần chúng trung kiên đã dũng cảm đứng ra cản đầu xe địch, hoặc nằm chặn xe ủi, không cho địch cày ủi; số khác thông qua thông dịch viên thực hiện công tác binh vận thuyết phục lính Mỹ không cày ủi ruộng đồng, bắn giết dân thường. Nhiều mẹ, nhiều chị và các em thiếu nhi bất chấp cả nguy hiểm nhảy lên xe địch thuyết phục, thậm chí ép buộc tài xế không cho xe đi cày ủi phá hoa màu. Trước những phương thức đấu tranh chính trị phong phú và kiên quyết, địch đã phải nhượng bộ. Căn cứ K20 được giữ vững. Ngày , hơn lính thủy đánh bộ Mỹ được huy động tấn công vào Căn cứ Sơn Cẩm Hà (Quảng Nam). Tuy nhiên, khi vào đây, đi đến đâu chúng cũng vấp phải hầm chông, bãi mìn do nhân dân và du kích cài đặt. Lực lượng du kích các xã Tiên Sơn, Tiên Cẩm lúc ẩn, lúc hiện liên tục bắn tỉa, phục kích, tập kích làm chết và bị thương hàng chục quân Mỹ. Sau 3 ngày bị tiêu hao lực lượng, chiều ngày 17, địch kéo xuống Cẩm Khê. Lúc này, Trung đoàn Ba Gia và một bộ phận lực lượng của Tiểu đoàn 70 dựa vào địa hình quanh co, vực thẳm, tổ chức bao vây, phục kích, tiêu diệt hơn 400 quân địch, bắn rơi 3 máy bay. Đây là lần đầu tiên trên chiến trường Quảng Nam, cuộc hành quân tìm diệt với quy mô cấp tiểu đoàn của địch hoàn toàn thất bại [14, tr. 128]. Căn cứ Sơn Cẩm Hà vẫn đứng vững. Mặc dù bị thua đau, nhưng vào tháng , Mỹ vẫn tiếp tục đổ quân càn quét Căn cứ địa Sơn Cẩm Hà. Một tiểu đoàn quân Mỹ được trực thăng đổ xuống hai xã Tiên Sơn, Tiên Hà rồi nống ra Tiên Cẩm. Tại đây, chúng bị du kích các xã Sơn Cẩm Hà phối hợp cùng bộ đội huyện chặn đánh quyết liệt buộc phải bỏ cuộc càn, rút chạy khỏi địa bàn căn cứ địa cách mạng được mệnh danh là vùng đất thánh này. 100

102 Ngày , sau khi bắn pháo tới tấp vào vùng giải phóng, đối phương huy động khoảng quân Mỹ VNCH, 28 lượt máy bay trực thăng, với sự yểm trợ của 5 thuyền máy và nhiều vũ khí hiện đại, càn quét Căn cứ rừng dừa Bảy Mẫu (thị xã Hội An). Các lực lượng trong và ngoài căn cứ phối hợp chặn đánh quyết liệt, bảo vệ vững chắc Căn cứ rừng dừa Bảy Mẫu. Từ ngày 25 đến ngày , Sư đoàn không vận số 1 của Mỹ mở cuộc tấn công vào Sơn Long, Sơn Định, Kỳ Lộ, Cây Vừng, Đồng Cam, Phước Tân thuộc Căn cứ Vân Hòa (tỉnh Phú Yên). Hàng trăm máy bay, trong đó có cả B.52 và pháo binh các loại liên tục oanh tạc, bắn phá vào căn cứ. Lính Nam Triều Tiên lùng sục từng khu rừng, núi đá. Máy bay Mỹ còn rải chất độc hóa học nhằm hủy diệt cuộc sống ở căn cứ địa. Để kịp thời chống lại cuộc càn quét này, Tiểu đoàn 13 đang trên đường hành quân đã nhanh chóng triển khai đội hình tổ chức phục kích, đánh thiệt hại nặng một cánh quân Mỹ tại Bằng Kè (Sơn Định), diệt 120 quân địch đồng thời phối hợp với LLVT các xã bắn rơi 1 máy bay và làm bị thương 3 chiếc khác. Đến ngày , quân Mỹ và đồng minh buộc phải rút quân khỏi Căn cứ Vân Hòa [90, tr. 124]. Ác liệt hơn cả là vào các ngày 17 và , Mỹ và VNCH huy động lực lượng hùng hậu gồm Sư đoàn Mãnh Hổ, một bộ phận Sư đoàn Bạch Mã (Nam Triều Tiên), một lữ đoàn không vận Mỹ và hai trung đoàn của Sư đoàn 22 VNCH mở cuộc càn quét xung quanh Căn cứ Núi Bà (tỉnh Bình Định). Lúc này, LLVT của tỉnh, các địa phương và nhân dân trên căn cứ có khoảng 1 vạn người. Ngày , sau khi cho máy bay B.52 ném bom dữ dội, với khẩu hiệu Lật đá bắt Cộng sản, địch tiến hành lùng sục từng hang đá, ném lựu đạn, dùng xăng đốt, rải chất độc hóa học. Tuy nhiên, lực lượng bám trụ trên núi vẫn kiên quyết đánh trả đến cùng trong nhiều ngày, khiến cho kế hoạch tấn công tiêu diệt Căn cứ Núi Bà của quân Mỹ VNCH không thực hiện được. Do đó, chúng điên cuồng tàn sát giết hại hơn 60 đồng bào xã Cát Hải và trên 50 đồng bào xã Cát Tiến là những địa phương ở quanh chân núi. Trước những hy sinh, tổn thất của nhân dân và lực lượng cách mạng tại căn cứ, Tỉnh ủy, Ban cán sự, Ban chỉ huy Tỉnh đội đã nghiêm khắc kiểm 101

103 điểm và nhận khuyết điểm: thiếu cảnh giác, không nắm vững bản chất và âm mưu, thủ đoạn tàn ác của địch, đặc biệt là đối với bọn lính Nam Triều Tiên, từ đó thiếu chỉ đạo tổ chức cụ thể cho nhân dân và LLVT địa phương các huyện phía Nam tích cực chuẩn bị phương án đối phó với các cuộc càn quét lớn của địch [110, tr. 310]. Bước sang năm 1967, quân Mỹ VNCH tập trung lực lượng đánh mạnh vào Căn cứ Sơn Cẩm Hà (Quảng Nam) và các căn cứ địa miền núi tỉnh Quảng Ngãi. Tháng , cùng với việc đổ quân xuống khu vực đồi tranh Ba Xã, địch thả Lữ đoàn 196 American đổ bộ đánh phá căn cứ. Ở Tiên Cẩm, một tiểu đoàn quân VNCH kết hợp với quân Mỹ tiến hành càn quét, xúc tát dân. Chi bộ Đảng ở đây vừa kịp thời phát động quần chúng trực diện đấu tranh chính trị với địch, vừa tổ chức lực lượng du kích chiến đấu ngăn chặn cuộc càn của quân Mỹ VNCH ngay khi chúng đổ quân, buộc địch phải bỏ dở cuộc càn. Tại căn cứ địa miền núi tỉnh Quảng Ngãi, quân Mỹ và đồng minh mở Chiến dịch càn Sông Hre với mục đích truy tìm và tiêu diệt các lực lượng quân chủ lực, quân địa phương của khu, tỉnh, huyện. Trong trận càn này, địch sử dụng lực lượng lớn gồm nhiều binh chủng, phối hợp không quân với bộ binh đánh phá ác liệt, thực hiện thọc sâu vào các căn cứ địa. Được sự chỉ đạo kịp thời của Tỉnh ủy Quảng Ngãi, LLVT các huyện Ba Tơ, Sông Hre phối hợp với Tiểu đoàn 20, Tiểu đoàn 107 của tỉnh tổ chức chiến đấu đánh bại cuộc càn của quân Mỹ và tay sai. Bị thất bại nặng nề, địch phải bỏ dở cuộc tấn công vào căn cứ địa và rút chạy khỏi Sông Hre. Hoạt động chiến đấu của quân dân tại căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ đã góp phần đáng kể cùng các địa phương ở Khu V tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch. Chỉ tính từ tháng đến tháng , bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích tại các căn cứ địa miền núi Khu V đã liên tục chiến đấu, loại khỏi vòng chiến gần quân địch, trong đó có khoảng quân Mỹ, bắn rơi và phá hủy 321 máy bay, bắn bị thương 148 chiếc khác, phá hủy 365 xe quân sự các loại [52, tr. 3]. Nhờ đó, các cơ quan, đơn vị, kho tàng, đường hành lang vận chuyển tại các căn cứ địa đều được giữ vững. Chính Đại sứ Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam Henry Cabot Lodge, Jr. phải thừa nhận: Các mục tiêu làm 102

104 hao tổn lực lượng của Việt cộng; tiêu diệt quân chính quy, ngăn chặn chiến tranh du kích phát triển; hậu phương của đối phương bất ổn định đều không thực hiện được [28, tr. 173]. Mặc dù quân Mỹ VNCH đánh phá hết sức ác liệt song một số căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ vẫn được tiếp tục được xây dựng, tiêu biểu là Căn cứ Hòn Tàu. Đây là dãy núi thuộc hệ thống núi Đông Trường Sơn, nằm trong địa phận tỉnh Quảng Nam. Dãy núi Hòn Tàu nằm ở vị trí giáp ranh giữa các huyện Quế Sơn, Nông Sơn, Duy Xuyên; có độ cao 935 m so với mặt nước biển, diện tích khoảng 100 km². Trên núi có nhiều ngọn núi hiểm trở như Nhà Muỗi, Cù Hang, Mặt Rạng; nhiều hang động có sức chứa số lượng người lớn, dùng làm nơi trú quân, cất giấu vũ khí, lương thực rất thuận lợi. Bên cạnh đó, trong núi còn có các mạch nước ngầm, nhiều loại cây rừng nguyên sinh và động vật quý hiếm. Hòn Tàu là khu vực xung yếu có vị trí chiến lược quan trọng, là tấm bình phong che chắn khu vực Bắc Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng. Do vậy, từ cuối năm 1967 đến 1975, Hòn Tàu trở thành căn cứ và là hậu phương tại chỗ, nơi đứng chân an toàn của Huyện ủy Quế Sơn, Đặc khu ủy Quảng Đà và Bộ chỉ huy Mặt trận 4. Để mở rộng hệ thống căn cứ địa và khai thông các hành lang chiến lược, thực hiện chủ trương của Khu ủy V, tháng , Sư đoàn 2 thuộc LLVT Khu V mở chiến dịch Khâm Đức, tiêu diệt cụm cứ điểm Ngok Tavak Khâm Đức (Quảng Nam). Tiến hành thắng lợi chiến dịch này, LLVT đã khai thông hành lang chiến lược Bắc Nam và Đông Tây, nối hậu phương lớn miền Bắc với Tây Nguyên, Hạ Lào, mở thông cửa ngõ xuống đồng bằng đoạn đường 14 từ Giằng (Quảng Nam) lên giáp với đường vận chuyển cơ giới ở biên giới Việt Lào. Nhờ đó, các căn cứ địa có điều kiện tiếp nhận được một số trang bị vũ khí, lương thực, thực phẩm, kịp thời giải quyết khó khăn, tiếp tục củng cố và tăng cường thực lực cách mạng để bước vào cuộc chiến đấu mới. Sau chiến thắng Khâm Đức Ngok Tavak, toàn bộ huyện Phước Sơn được giải phóng, địa bàn căn cứ địa cách mạng của Khu V được mở rộng. Năm 1969, Khu ủy V quyết định chuyển từ Căn cứ Nam Giang về Trà My (Quảng Nam), một 103

105 địa bàn tiếp giáp ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Kon Tum để trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo phong trào cách mạng của Khu V. Song song với hoạt động chiến đấu chống càn quét, phong trào bảo mật, phòng gian, chống gián điệp, trấn áp bọn phản cách mạng không ngừng được tăng cường tại các căn cứ địa. Lực lượng an ninh đã kịp thời phát hiện và đối phó hiệu quả đối với các âm mưu thủ đoạn chống phá từ bên trong của địch. Đầu năm 1966, lực lượng an ninh Quảng Nam phát hiện và triệt phá mạng lưới tình báo Biệt đội sưu tầm mang mật hiệu Con két do Nguyễn Tích chỉ huy. Trong năm 1967, an ninh huyện Hoài Nhơn (Bình Định) phát hiện và vây bắt toán Biệt kích hải thuyền thu vũ khí và máy truyền tin; an ninh tỉnh Phú Yên cũng phát hiện và xử lý 7 vụ gián điệp tung vào các căn cứ địa và vùng giải phóng [28, tr ]. Nhằm phát huy cao độ vai trò của quần chúng trong hoạt động bảo vệ căn cứ địa, lực lượng an ninh bố trí các tổ công tác bám sát địa bàn phát động phong trào phòng gian bảo mật chống do thám, gián điệp, biệt kích và bọn phản động tay sai. Qua phát động, quần chúng ở nhiều nơi đã tự giác tổ chức ra các ban bảo vệ nông thôn, ban bảo mật, trạm gác làm công tác bảo vệ an ninh, trật tự tại các căn cứ địa. Quần chúng cũng kịp thời cung cấp tin tức và hoạt động của bọn do thám, gián điệp, biệt kích. Nhờ đó, các lực lượng bảo vệ căn cứ có kế hoạch chủ động đối phó và trấn áp. Đi đôi với việc mở rộng căn cứ, công tác quản lý hành chính công khai cũng được chú trọng. An ninh các tỉnh thuộc Trung Trung Bộ tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát, tổ chức cấp giấy chứng nhận cho cán bộ, nhân dân trong căn cứ địa; phối hợp với dân quân, du kích tổ chức kiểm soát lưu động, tuần tra đề phòng ngăn chặn các hoạt động xâm nhập của bọn gián điệp, hoạt động gây rối của bọn tội phạm hình sự, giữ gìn an ninh, trật tự tại các căn cứ địa Phát huy vai trò hậu phương tại chỗ của căn cứ địa cách mạng Bên cạnh hoạt động củng cố, phát triển thực lực cách mạng về mọi mặt, quân và dân tại các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ vừa tích cực đóng góp sức người, sức của phục vụ chiến trường, vừa phối hợp với bộ đội chủ lực tổ chức đánh địch. Trong hai cuộc phản công chiến lược mùa khô và , một bộ 104

106 phận LLVT và dân công ở các căn cứ địa cách mạng tham gia diệt ác phá kìm, tiến công các đồn bốt, cứ điểm quân sự, sở chỉ huy và các cơ quan đầu não của địch. Thực hiện sự chỉ đạo của Khu ủy và BTL Quân khu V, một tháng trước khi diễn ra cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, các cơ quan, ban, ngành trong các căn cứ huy động hơn một nửa số cán bộ, nhân viên cùng hàng nghìn đồng bào các dân tộc tham gia chiến dịch vận chuyển vũ khí [49, tr. 110]. Phần lớn căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trở thành hậu phương trực tiếp phục vụ chiến trường và là bàn đạp để các LLVT thực hiện cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân Chi bộ Đảng, chính quyền và các đoàn thể ở căn cứ địa vận động thanh niên tòng quân nhập ngũ, nhân dân tham gia vận chuyển lương thực, vũ khí, phục vụ LLVT đánh địch ở phía trước. Tại Khu Sông Đà (Đà Nẵng), các tổ chức cơ sở Đảng và quần chúng cách mạng tham gia vận chuyển và cất giấu vũ khí ở những nơi bí mật an toàn. Nhiều ngư dân ở Lỗ Sài, Hóa Sơn, Cầm Chánh, Trung Lương huy động ghe thuyền phục vụ đưa bộ đội tiến vào thành phố Đà Nẵng. Trong đêm 30 rạng ngày , khi LLVT thành phố tấn công vào các sân bay Nước Mặn, Đà Nẵng... mở màn cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân tại Quảng Đà, ngư dân Sông Đà phối hợp với đồng bào các xã Hòa Hải, Hòa Xuân, Hòa Cường chuẩn bị 100 chiếc thuyền, 3 ca nô đưa bộ đội vào thành phố. Cùng với Khu Sông Đà, Căn cứ K20 cũng là nơi tổ chức nhiều cuộc họp và đề ra những quyết định quan trọng của Quận ủy quận Ba. K20 chính là nơi tập kết vũ khí và lực lượng trong Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 ở Đà Nẵng. Nhân dân K20 tổ chức tốt công tác hậu cần: thu dọn chiến trường, cứu chữa thương binh, phục vụ bộ đội tấn công sân bay Nước Mặn. Với khẩu hiệu: Đóng cửa nhà, trẻ già vận chuyển, nhân dân căn cứ địa miền núi huyện Đông Giang và Tây Giang 5F1 (Quảng Đà) hăng hái tham gia tiếp lương, tải đạn ra phía trước. Đội thiếu niên xã A Vương gần 100 em nêu cao tinh thần tuổi 1 Tháng , Tỉnh ủy Quảng Đà giải thể huyện Thống Nhất để thành lập 3 huyện mới: Huyện Nam Giang gồm phần đất huyện Bến Giằng; huyện Đông Giang và Tây Giang gồm phần đất Bến Hiên và khu B1(tức miền Tây Hòa Vang và vùng Trhy trước kia) 105

107 nhỏ chí lớn làm việc anh hùng vận chuyển 3,5 tấn hàng hóa phục vụ chiến trường. Bhúôch, một thanh niên mù hai mắt song vẫn tích cực tham gia suốt 5 tháng, cả ban ngày và ban đêm. Mỗi chuyến anh chuyển được 46 kg hàng [76, tr. 142]. Trong 4 tháng, Căn cứ Nam Giang huy động 790 người đi dân công phục vụ từ 3 đến 4 tháng, tham gia vận chuyển 300 tấn vũ khí cho mặt trận Quảng Đà [75, tr. 324]. Các căn cứ địa miền núi tỉnh Quảng Ngãi huy động lượt người với ngày công, vận chuyển 229 tấn lương thực, thực phẩm và đồ dùng quân sự phục vụ cho Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 [4, tr. 265]. Nhân dân Căn cứ Vĩnh Thạnh (Bình Định) đóng góp ngày công, đội dân công thường trực với khoảng 300 người, phục vụ liên tục 3 tháng (từ tháng đến hết tháng ) để vận chuyển vũ khí cho bộ đội đánh địch. Cũng trong đợt này, có 97 thanh niên hăng hái gia nhập LLVT huyện, tỉnh và chủ lực Khu. Riêng trong nửa đầu tháng với số thóc thu được từ sự đóng góp của nhân dân là kg thóc, Vĩnh Thạnh trở thành huyện đứng đầu toàn tỉnh Bình Định về thu thóc động viên Xuân 1968 [8, tr. 210]. Trong dịp Tết Mậu Thân 1968, Căn cứ Núi Bà (Bình Định) là điểm tập kết của các đơn vị trước khi đánh vào thị xã Quy Nhơn. Nhờ có bàn đạp này mà cuộc tiến công ở Quy Nhơn diễn ra đúng kế hoạch, LLVT và nhân dân đã làm chủ thành phố trong 7 ngày. Sau Tết Mậu Thân, các đơn vị lại rút về Căn cứ Núi Bà để củng cố, xây dựng lực lượng. Núi Bà tiếp tục trở thành bàn đạp của lực lượng kháng chiến tiến công vào các căn cứ của địch, vây ép Quy Nhơn. Bên cạnh đó, Căn cứ Núi Bà còn làm nhiệm vụ đào tạo bồi dưỡng nguồn cho cách mạng bằng cách đưa đón cán bộ qua Đầm Thị Nại rồi tung về hậu phương địch ở Quy Nhơn, Tuy Phước hoạt động. Ở Phú Yên, một bộ phận LLVT từ Căn cứ Vân Hòa tiến xuống thị xã Tuy Hòa, hỗ trợ cho phong trào đấu tranh ở đồng bằng. Số còn lại phối hợp với lực lượng du kích tổ chức tập kích vào sân bay, quận lỵ Sơn Hòa, Phú Đức, lô cốt Cây Da phá khu dồn Sơn Hà, đột nhập đánh địch ở Bắc Lý, Xóm Mới tấn công vào chi khu, quận lỵ hành chính Củng Sơn. Sau đó, tiếp tục đánh vào sân bay và khu dồn Sơn Hà, giải phóng cho hơn dân trở về làng cũ làm ăn. Tóm lại, trong giai đoạn , các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ đã góp 106

108 sức cùng hệ thống căn cứ địa, căn cứ du kích, lõm chính trị ở Khu V động viên tại chỗ được số quân bằng 43% tổng số quân tuyển tại chỗ trong suốt cuộc chiến tranh; đã khai thác tại chỗ được 78% tổng số lương thực, 94% số thực phẩm sử dụng tại chiến trường [61, tr ] Khôi phục căn cứ địa cách mạng, tạo thế và lực mới góp phần kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến ( ) Củng cố căn cứ địa cách mạng sau Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 ( ) Sau Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, LLVT các căn cứ địa bị sụt giảm quân số một cách đáng kể. Sản xuất của nhân dân và cơ quan, đơn vị ở các căn cứ địa giảm sút do tập trung phục vụ chiến đấu, tham gia lực lượng nổi dậy ở thành phố. Trong khi đó, Mỹ và chính quyền VNCH tăng cường bao vây và phá hoại kinh tế. Nguồn gạo lấy từ vùng địch ra lúc có, lúc không. Bộ đội, cơ quan và dân các căn cứ địa thiếu đói nghiêm trọng. Mặt khác, từ sau thất bại của chiến lược Chiến tranh cục bộ, đế quốc Mỹ chuyển sang thực thi một chiến lược chiến tranh mới: Việt Nam hóa chiến tranh. Để triển khai chiến lược này, song song với việc phát triển và hiện đại hóa quân đội, quân Mỹ VNCH tập trung mở hàng loạt các cuộc phản kích đánh phá các căn cứ địa, vùng giải phóng, hành lang chiến lược nhằm triệt phá cơ sở kinh tế, cắt đứt sự chi viện từ miền Bắc vào miền Nam. Chỉ trong 10 ngày đầu năm 1969, đã có 180 lần máy bay B.52 của địch thả trên tấn bom vào căn cứ của BTL Quân Khu V dọc sông Tranh (Quảng Nam). Mỗi ngày, địch huy động hàng trăm lượt máy bay B.52 ném hàng ngàn tấn bom hạng nặng xuống hủy diệt Căn cứ Hòn Tàu Mặt Rạng, nơi đứng chân của Đặc Khu ủy Quảng Đà. Ở Căn cứ Sơn Cẩm Hà (Quảng Nam), với thủ đoạn sử dụng Mỹ lết, quân Mỹ dùng từ 5 đến 7 lính Mỹ cơ động luồn sâu vào đây thực hiện hoạt động phục kích gây sát thương cho cán bộ, chiến sĩ rồi nhanh chóng rút đi. Mỹ lết gây nhiều tổn thất và hoang mang trong cán bộ, bộ đội đi lại hoạt động trong căn cứ. Chỉ riêng trong năm 1969, quân Mỹ VNCH đã tiến hành 90 trận càn vào các căn cứ huyện Ba Tơ, Sông Hre (Quảng Ngãi) và hơn 50 trận càn vào vùng giáp ranh hành lang của Căn cứ Vĩnh Thạnh, An Lão (Bình Định). 107

109 Những hoạt động càn quét, đánh phá của quân Mỹ VNCH đã gây tổn thất cho các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ. Một số căn cứ ở đồng bằng bị địch cày ủi trở thành vùng trắng, nhân dân bị bắt tập trung vào khu dồn, LLVT phải bật lên các căn cứ địa ở vùng núi phía Tây. Các căn cứ địa miền núi rơi vào tình trạng cô lập, đời sống sinh hoạt, chiến đấu của bộ đội và nhân dân đã khó khăn, thiếu thốn lại càng trở nên thiếu thốn, gian khổ hơn. Tình trạng thiếu đói, dịch bệnh diễn ra phổ biến. Các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến phải lùi vào các vùng núi cao, vùng sâu. Các cơ quan Đảng, chính quyền của Khu V liên tục phải di chuyển địa điểm từ Quảng Nam, Quảng Đà đến sát Quảng Ngãi, Kon Tum [28, tr. 225]. Cơ quan Đặc Khu ủy Quảng Đà, Mặt trận 4 ở Nam Giang phải di chuyển chỗ trú quân nhiều lần. Trong tháng 2 và tháng , Căn cứ Nam Giang có 879 người bị đói kiệt, 6 xã bị lạt muối, dịch bệnh hoành hành [13, tr. 236]. Năm đợt càn quét dài ngày của Mỹ và quân đội VNCH vào Căn cứ Vân Hòa (Phú Yên) trong tháng đã hủy diệt hơn 1 triệu gốc sắn, hàng chục ha lúa, bắp, đốt phá gần 200 ngôi nhà, chòi trại của nhân dân và cơ quan [73, tr. 107]. Song song với hoạt động đánh phá các căn cứ địa miền núi, ở đô thị, địch khủng bố hết sức gắt gao. Tại Căn cứ K20 (Đà Nẵng), trong vòng chưa đầy 1 tháng đã có đến 5 cán bộ trong Ban Thường vụ Quận ủy quận Ba hy sinh. Phong trào cách mạng tại Nước Mặn, Đa Phước (Đà Nẵng) bị đánh phá, cán bộ bất hợp pháp và hợp pháp phải bật ra ngoài [70, tr. 187]. Tại Căn cứ Bầu Bính (Quảng Nam) chỉ trong hai năm trụ bám ( ) đã tổn thất trên 150 cán bộ, bộ đội, du kích và nhân dân; trong đó có 1 phó bí thư Huyện ủy, 3 ủy viên Ban Thường vụ và 1 Huyện ủy viên [138, tr. 6]. Để nhanh chóng phục hồi thực lực cách mạng, đáp ứng yêu cầu đánh bại chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, tháng , Khu ủy V đề ra nhiệm vụ: Tăng cường xây dựng vùng giải phóng, căn cứ toàn diện mạnh mẽ, đánh bại bình định, lấn chiếm, bảo vệ vững chắc vùng ta, đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế tự cung tự cấp, cải thiện đời sống cán bộ, chiến sĩ và nhân dân [95, tr. 22]. Thực hiện chủ trương của Khu ủy, quân dân Trung Trung Bộ tích cực củng cố, xây dựng thực lực căn cứ toàn diện về mọi mặt. 108

110 Trên lĩnh vực kinh tế, các cơ quan, đơn vị đứng chân tại căn cứ đều thành lập bộ phận sản xuất và lập trại sản xuất, trồng các loại cây lương thực và rau màu quanh năm. Một số cán bộ nông nghiệp được tỉnh, huyện điều động về hướng dẫn nhân dân trong các căn cứ áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong nông nghiệp để tăng năng xuất lương thực và chăn nuôi. Nhờ đẩy mạnh sản xuất, 6 tháng đầu năm 1970, nhân dân Căn cứ Bắc Trà My thu hơn tấn lương thực, tăng gần gấp hai lần thời gian trước đó [66, tr. 181]. Đến cuối năm 1970, các căn cứ địa tỉnh Phú Yên trồng 2 triệu gốc sắn, thu hoạch lúa ở các căn cứ địa và vùng giáp ranh tỉnh Phú Yên đạt 100 tấn [5, tr. 187]. Song song với hoạt động sản xuất của nhân dân căn cứ địa, các cơ quan kinh tài thông qua cơ sở cách mạng vận động đồng bào vùng địch kiểm soát lợi dụng sơ hở của địch thu mua, vận chuyển lương thực, thực phẩm đến cửa khẩu và chuyển ra căn cứ. Triển khai chiến dịch gạo, giữa năm 1971, ngành hậu cần Quân khu, LLVT của Khu V và các tỉnh tập trung dồn sức thu mua và vận chuyển lương thực về căn cứ. Hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ, phụ nữ, các em thiếu nhi đã vượt qua sự kiểm soát gắt gao của chính quyền VNCH, vận chuyển gạo từ vùng địch ra căn cứ. Những biện pháp trên đã góp phần giải quyết những khó khăn trước mắt, ngăn chặn được nạn đói tại các căn cứ địa. Cùng với việc đẩy mạnh hoạt động sản xuất, được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đời sống văn hóa, xã hội ở căn cứ địa tiếp tục có nhiều tiến bộ. Một số hủ tục mê tín, dị đoan từng bước được hạn chế. Đông đảo các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia cuộc vận động xây dựng nếp sống mới. Văn hóa, văn nghệ phát triển mạnh mẽ trở thành phong trào rộng lớn trong quần chúng, tạo không khí lạc quan, vui tươi ở nhiều căn cứ địa. Các đoàn văn công, văn nghệ giải phóng, các đội văn nghệ nghiệp dư ở các huyện thường xuyên đem lời ca tiếng hát phục vụ nhân dân, góp phần bồi dưỡng tinh thần chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ, động viên quần chúng hăng hái sản xuất, tích cực đóng góp cho kháng chiến. Phong trào bình dân học vụ thu hút sự tham gia của đông đảo cán bộ, bộ đội và nhân dân. Nhiều căn cứ địa đã hoàn thành việc thanh toán nạn mù chữ đồng thời trở thành những đơn vị điển hình trong xây dựng kinh tế, văn hóa, xã hội. Tháng , Căn cứ Trà Bồng 109

111 được công nhận hoàn thành xoá mù chữ [160, tr. 728]. Năm 1972, nổi bật trong phong trào bình dân học vụ ở Căn cứ Nam Giang là xã Chaval, một xã đã hoàn thành việc thanh toán mù chữ cho 499 người từ trước đến nay chưa được học hành [75, tr. 374]. Bên cạnh đó, phong trào xây dựng làng Ba sạch (Ăn sạch, ở sạch, uống sạch), bài trừ các hủ tục lạc hậu, xây dựng đời sống mới được đồng bào các dân tộc ở đây hưởng ứng sôi nổi. Về kinh tế, Nam Giang còn là một huyện điển hình trong xây dựng kinh tế ở Khu A. Nghề trồng lúa nước, các tiến bộ kỹ thuật, giống mới đã được áp dụng trong sản xuất nông nghiệp, nhiều nghề thủ công như rèn, dệt, đan lát được mở mang. Với những tiến bộ về đời sống văn hóa, xã hội, kinh tế, Căn cứ Nam Giang, thuộc đặc khu Lam Sơn trở thành huyện điển hình trong toàn Khu A. Đây là địa phương được công nhận là huyện Hai đủ (đủ ăn, đủ mặc), và Năm có (có sức khỏe, có học hành, có đường đi, có nhà ở và có ruộng [111, tr. 220]. Đóng góp một phần không nhỏ vào quá trình xây dựng và củng cố thực lực cách mạng ở các căn cứ địa là các phong trào thi đua yêu nước. Nhờ sự phát triển sôi nổi của các phong trào: Vòng đổi công hợp tác, Đi dân công phục vụ tiền tuyến, Phụ nữ ba đảm đang, Thanh niên 5 xung phong, Tiếng hát át tiếng bom nhiều căn cứ địa đã huy động được tiềm lực to lớn về sức người, sức của; đồng thời tạo ra không khí lạc quan tin tưởng, động viên đồng bào, chiến sĩ vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để đưa sự nghiệp kháng chiến đi đến ngày thắng lợi. Ở Căn cứ huyện Sơn Tây (Quảng Ngãi), với phong trào thi đua Lập công đền ơn Bác, Quyết tâm thực hiện Di chúc Bác, nhân dân tích cực đẩy mạnh hoạt động sản xuất và phục vụ chiến đấu. Tổng sản lượng lương thực quy thóc cả năm 1970 đạt tấn, bình quân lương thực đầu người đạt 412 kg, mức cao nhất trong năm Nhờ sản xuất tăng khá nên trong năm 1972 nhân dân tự nguyện đóng góp cho kháng chiến 85 tấn lương thực, hàng triệu gốc mỳ [72, tr ]. Cùng thời gian này, với tinh thần thi đua Cõng thêm 1 kg hàng là diệt thêm một tên giặc Mỹ, lực lượng dân công Căn cứ Sơn Tây vận chuyển được tấn 110

112 hàng đến các chiến trường của tỉnh Quảng Ngãi và các tỉnh miền Nam Trung Bộ [72, tr. 252]. Từ sau năm 1971, tại các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ, các phong trào thi đua vẫn tiếp tục diễn ra sôi nổi, tiêu biểu là phong trào tăng gia sản xuất, du kích chiến tranh và phục vụ tiền tuyến. Các cấp ủy Đảng, chính quyền động viên nhân dân tăng cường hoạt động bố phòng chiến đấu, chống địch càn quét, lấn chiếm, bảo vệ căn cứ địa. Do sản xuất được đẩy mạnh nên các căn cứ địa về cơ bản đã tự túc được lương thực; hơn nữa còn có dự trữ, nhân dân hăng hái đóng đảm phụ và bán cho cách mạng. Nhân dân Căn cứ Nam Giang huy động ngày công vận chuyển vũ khí, hàng hóa lương thực, thực phẩm đồng thời đóng góp nuôi quân ang lúa, ang bắp, ang sắn khô [13, tr ]. Nhân dân căn cứ địa miền núi tỉnh Bình Định cũng đóng góp 36 tấn gạo, gốc mỳ, huy động dân công dài hạn, dân công ngắn hạn, lượt người phục vụ tại chỗ, rào m rào chiến đấu, cắm gần 2 triệu chông, đào 120 hầm chông, 490 hầm chống phi pháo, chế tạo 150 mang cung [148, tr. 8-9]. Công tác vận chuyển lương thực, vũ khí phục vụ cho các đơn vị chiến đấu phía trước được đảm bảo tiến hành khẩn trương, kịp thời và hiệu quả. Trong những năm đầu khi đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, căn cứ địa ở Trung Trung Bộ đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Tuy nhiên, vượt qua những thử thách khắc nghiệt của chiến tranh, chỉ trong một thời gian ngắn, các căn cứ địa đã nhanh chóng củng cố thực lực về mọi mặt: sản xuất tự túc được đẩy mạnh; đời sống văn hóa, tinh thần của quân dân được cải thiện; LLVT phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đi đôi với hoạt động củng cố về mọi mặt, căn cứ địa ở Trung Trung Bộ tiếp tục được mở rộng, phát triển. Năm 1970, nhằm giúp cho Đảng bộ các tỉnh Quảng Đà, Quảng Nam tập trung đối phó với chiến lược tìm diệt, quét và giữ của địch, Khu ủy quyết định tách một số huyện miền núi các tỉnh cùng với Kon Tum để thành lập khu căn cứ đặc biệt của Khu gọi là Khu A. Khu A gồm 11 huyện, 117 xã, dân giải phóng, được 111

113 chia thành 4 đặc khu: Lam Sơn, Nam Trà, Yên Thế, Sơn Trà [111, tr. 219]. Trong đó, miền Tây Quảng Nam, Quảng Đà nơi có địa bàn hiểm trở, địch khó kiểm soát đồng thời là vùng căn cứ địa khá an toàn được chia làm 2 khu Lam Sơn, Nam Trà. Nam Trà gồm các huyện: Phước Sơn, Nam Trà My, Bắc Trà My; Lam Sơn có các huyện Nam Giang, Đông Giang, Tây Giang. Hai khu Lam Sơn, Nam Trà được tách ra khỏi sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Quảng Nam, Quảng Đà và chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Khu ủy V. Ở miền núi Quảng Ngãi, khu Sơn Trà được thành lập trên cơ sở sáp nhập huyện Sơn Tây với huyện Trà Bồng. Bên cạnh căn cứ địa của Khu, các tỉnh Trung Trung Bộ xây dựng thêm một số căn cứ địa mới, theo đó là sự điều chỉnh thế trận bố phòng, bảo vệ căn cứ địa. Ở Quảng Nam, tháng , Khu ủy V và Tỉnh ủy Quảng Nam thành lập Căn cứ huyện Quế Tiên trên cơ sở sáp nhập các xã: Sơn Hòa, Sơn An (Quế Thọ), Sơn Bình (Quế Bình), Sơn Hiệp (Quế Lâm), Sơn Tân (Hiệp Thuận, Hiệp Hòa) của huyện Quế Sơn; Bình Lâm, Thăng Phước của huyện Thăng Bình và Phước Sơn, Phước Cẩm, Phước Hà của huyện Tiên Phước. Tổng dân số khoảng người. Đầu năm 1971, Đảng uỷ xã Bình Dương (Thăng Bình) phối hợp với bộ đội tỉnh, huyện đứng chân ở vùng Đông Thăng Bình xây dựng Căn cứ lõm Bầu Bính làm bàn đạp để tấn công vào vùng Đông Thăng Bình. Từ năm , Tỉnh ủy Quảng Nam xây dựng Chiến khu Tiên Sơn tại xã Tiên Sơn, huyện Tiên Phước. Với diện tích khoảng m², Tiên Sơn là vùng đất địa lợi, nhân hòa, có vị trí hiểm yếu với dãy núi Dương Bồ làm điểm tựa. Khi có địch càn quét, đánh phá, các cơ quan, đơn vị tạm rút vào núi Dương Bồ dễ dàng. Từ Tiên Sơn có tuyến đường giao thông dẫn đến các huyện Quế Sơn, Thăng Bình, Tam Kỳ thuận lợi cho việc chỉ đạo phong trào cách mạng mở rộng xuống vùng Đông của tỉnh. Chiến khu Tiên Sơn là căn cứ của Tỉnh ủy Quảng Nam và các ban ngành trong hai năm Ở Phú Yên, tháng , thực hiện sự chỉ đạo của Khu ủy V, Tỉnh ủy Phú Yên thành lập một huyện căn cứ mới lấy tên là Tây Nam bao gồm các xã: Sông Hinh, Tân Lập, Đức Bình, Phú Đức, Chí Thán, Dinh Điền, Mả Vôi và 3 xã Ea 112

114 trol, Ea bia, Ea bá của tỉnh Đắc Lắc nhập về. Dân số khoảng người, trong đó có hơn 80% là đồng bào các dân tộc Ê đê, Chăm, Ba Na và 20% người Kinh. Trong những năm , căn cứ địa ở Trung Trung Bộ tiếp tục đẩy mạnh công tác bố phòng chiến đấu chống địch lấn chiếm. Bên cạnh hệ thống chông, mìn, bẫy đá, nhân dân Căn cứ Trà Bồng (Quảng Ngãi) còn đào thêm công sự bắn máy bay và chống phi pháo [91, tr. 151]. LLVT Căn cứ Vĩnh Thạnh phối hợp cùng du kích xã Bình Quang và nhân dân phá nát đoạn đường từ Tiên Thuận (Bình Giang Bình Khê) đi về Định Bình (quận lỵ Vĩnh Thạnh) để ngăn cản hoạt động hành quân lấn chiếm của quân Mỹ VNCH. Cuối tháng 4 đầu tháng , 4 tiểu đoàn của Sư đoàn bộ binh Mỹ số 1 và Lữ đoàn 1, Sư đoàn dù Mỹ số 101 mở cuộc càn vào Căn cứ Vĩnh Thạnh (Bình Định), du kích xã Lơ Yang đã tổ chức đánh phủ đầu và quần đánh suốt cả ngày đêm dồn địch vào thế bị động [8, tr. 233]. Tại Quảng Ngãi, giữa năm 1970, phối hợp cùng Sơn Hà, quân dân Căn cứ Sơn Tây liên tiếp bẻ gãy ba cuộc càn cấp trung đoàn của địch tấn công vào căn cứ. Trong trận đánh địch càn quét vào Căn cứ xã Sơn Trung, ngày , chỉ trong vòng 20 phút, bộ đội tỉnh, huyện và du kích các xã đã hình thành các mũi tiến công ngăn chặn quyết liệt khiến địch phải nhanh chóng tháo chạy. Căn cứ của tỉnh, các kho tàng và đường hành lang chiến lược ở đây được bảo vệ an toàn. Trong 2 năm , du kích và bộ đội khu Nam Trà phối hợp với chủ lực Khu V đánh 244 trận, loại khỏi vòng chiến đấu quân địch, bảo vệ an toàn căn cứ địa [20, tr. 6]. Nhờ làm tốt công tác bố phòng và tổ chức chiến đấu nên các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy kháng chiến, các kho tàng trong căn cứ được bảo vệ an toàn; những thiệt hại về tài sản, tính mạng trong nhân dân cũng giảm đáng kể; nhiều cuộc hành quân càn quét của quân Mỹ VNCH vào căn cứ địa bị tổn thất nặng nề. Sau Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, các căn cứ lõm ở đồng bằng, các cơ sở chính trị, hầm bí mật ở đô thị và vùng giải phóng các tỉnh Quảng Nam, Quảng Đà, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên tập trung củng cố, khôi phục đảm bảo sự liên lạc với các căn cứ địa cách mạng ở vùng rừng núi, kịp thời tiếp nhận sự chỉ đạo của Khu ủy và BTL Quân khu V, Tỉnh ủy các tỉnh, tạo ra điều kiện 113

115 thuận lợi để quân dân trên địa bàn chuyển sang thời kỳ đấu tranh hoàn thành sự nghiệp giải phóng Đẩy mạnh phát triển thực lực căn cứ địa cách mạng ( ) Sau các thất bại liên tiếp trong Xuân Hè năm 1972 và trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai, đế quốc Mỹ buộc phải kí Hiệp định Paris 1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Theo Hiệp định, quân Mỹ và đồng minh rút khỏi miền Nam Việt Nam, điều này đã mở ra cục diện mới trên chiến trường miền Nam, tạo điều kiện thuận lợi để lực lượng cách mạng tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn. Tuy nhiên, với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, Mỹ vẫn tiếp tục theo đuổi chính sách xâm lược. Khi rút quân về nước, cùng với việc giữ lại hơn hai vạn cố vấn quân sự đội lốt dân sự, Mỹ đổi tên Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ (MACV thành lập năm 1961) thành cơ quan ngoại giao (DAO) đồng thời tiếp tục viện trợ quân sự, kinh tế cho phía VNCH. Trong năm 1973, Mỹ tăng viện trợ cấp tốc cho chính quyền VNCH triệu đô la, 700 máy bay, 500 khẩu pháo, 400 xe tăng, xe bọc thép tấn vật tư chiến tranh [69, tr. 436]. Được sự hậu thuẫn của Mỹ, chính quyền VNCH ra sức đôn quân bắt lính, trắng trợn tuyên bố không có hòa bình, không có ngừng bắn, không có tổng tuyển cử. Đối phương huy động lực lượng lớn quân đội để thực hiện kế hoạch tràn ngập lãnh thổ, giành dân, lấn đất xóa thế da báo, trước hết là giành lại các vùng giải phóng, các trục giao thông chiến lược. Ở Trung Trung Bộ, quân đội VNCH tăng cường các hoạt động càn quét đánh phá. Từ cuối tháng , đối phương tổ chức nhiều cuộc hành quân cấp tiểu đoàn, có sự hỗ trợ của máy bay và pháo binh, tiến công lấn chiếm các vùng giải phóng và căn cứ địa. Tháng , chúng huy động lực lượng gồm các sư đoàn, liên đoàn biệt động, quân địa phương với sự yểm trợ của xe tăng, máy bay đánh vào vùng giải phóng và căn cứ địa các tỉnh Quảng Đà, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định. Đối phương thực hiện bao vây kinh tế, phong tỏa các hành lang, cửa khẩu khiến cho việc giao lưu, đi lại giữa vùng ta, vùng địch kiểm soát hết sức khó khăn. Bên cạnh 114

116 đó, địch còn đẩy mạnh việc cài cắm gián điệp, tung thám báo, biệt kích nhằm ngăn trở hoạt động sản xuất, đánh phá hậu cứ các cơ quan, đơn vị bộ đội. Trong những tháng cuối năm 1973, quân VNCH đã 56 lần đổ biệt kích vào các căn cứ địa, vùng giải phóng tỉnh Bình Định [3, tr. 244]. Hoạt động đánh phá của địch đã gây không ít khó khăn cho các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ. Đến cuối tháng , hầu hết các lõm du kích mới mở ra ở vùng A, B Điện Bàn, vùng giải phóng Tây Duy Xuyên, vùng B Đại Lộc của tỉnh Quảng Đà đều bị địch chiếm lại. Lương thực, thuốc men đều thiếu thốn, đời sống của cán bộ, LLVT và nhân dân các căn cứ địa hết sức gian khổ. Trước tình hình đó, Trung ương đã kịp thời có ý kiến chỉ đạo đối với hoạt động xây dựng, củng cố và phát triển căn cứ địa cách mạng ở Khu V: Đánh bại một bước quan trọng kế hoạch bình định lấn chiếm ở vùng đồng bằng, vùng giáp ranh, giữ vững các lõm giải phóng của ta, thu hồi những vùng bị địch lấn chiếm, thiết lập và phát triển thế làm chủ của nhân dân, tăng thêm lực lượng dự trữ cho kháng chiến, thu hẹp vùng kiểm soát nguồn nhân lực, vật lực của địch, giành thế mạnh về ta. Giữ vững vùng giải phóng rộng lớn và các căn cứ địa của ta, tiêu diệt bọn biệt kích, thám báo, sẵn sàng đánh bại các cuộc hành quân của địch vào vùng ta, mở rộng vùng giải phóng có trọng điểm, ở những nơi có điều kiện, nhằm hoàn chỉnh thêm một bước vùng ta kiểm soát [64, tr ]. Thấu triệt tinh thần đó, Khu ủy V xác định nhiệm vụ trước mắt: tiến hành mở rộng căn cứ, giữ vững và phát triển thực lực cách mạng. Riêng ở các căn cứ và vùng giải phóng, tăng cường xây dựng kinh tế là nhiệm vụ rất quan trọng [96, tr. 16]. Thực hiện chủ trương của các cấp ủy Đảng, hoạt động xây dựng căn cứ địa được tiến hành trên nhiều mặt: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, làm chỗ dựa vững chắc cho phong trào kháng chiến. Về quân sự: Các căn cứ địa tích cực đẩy mạnh phát triển LLVT, tăng cường công tác huấn luyện quân sự và bố phòng chiến đấu. Ở Quảng Nam, từ giữa năm 1973, nhằm chống địch lấn chiếm, bảo vệ vùng căn cứ phía Tây của tỉnh, đặc biệt là 115

117 đối với Căn cứ Quế Tiên, khu vực Tây Thăng Bình Quế Sơn Hiệp Đức do các đơn vị của Sư đoàn 2 chốt giữ được xây dựng thành một thế trận liên hoàn với hệ thống gồm hầm chiến đấu, hầm nghỉ ngơi, hầm hỏa khí; hơn 10 km giao thông hào nối từ Châu Sơn Liệt Kiểm, Lạc Sơn, Núi Giai, đối diện với Sư đoàn 3 của địch [27, tr. 340]. Khu ủy và BTL Quân Khu V cũng quyết định giải thể các đặc khu Nam Trà, Lam Sơn, Sơn Trà. Từ năm 1973, các đặc khu được sáp nhập trở lại với các huyện miền núi; đồng thời trực thuộc sự chỉ đạo của Tỉnh ủy các tỉnh Quảng Đà, Quảng Nam, Quảng Ngãi. Giữa năm 1973, cơ quan Khu ủy và BTL Quân khu V chuyển từ Căn cứ Nước Oa (Trà My) về Phước Trà (nay là xã Sông Trà), huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam. Phước Trà là khu căn cứ lớn với diện tích gần 21 ha, nằm cách thị trấn Tân An (huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam) 15 km về phía Tây, cách Tỉnh lộ 612 khoảng 4 km về phía Nam. Từ địa bàn này có thể tỏa về vùng đồng bằng rất thuận tiện cả bằng đường bộ và đường thủy. Đây là căn cứ của Khu ủy và BTL Quân Khu V trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ( ). Việc bảo vệ vùng giải phóng và căn cứ địa vừa mới mở rộng được chú trọng. Trong năm 1974, các căn cứ địa ở Bình Định đã xây dựng 60 trạm gác ở những nơi xung yếu, rào trên m rào chiến đấu, gài hàng trăm kg chất nổ và hàng triệu cây chông, xây dựng nhiều hệ thống chốt điểm tương đối kiên cố để chống địch. [149, tr. 38]. Về chính trị: Tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể cách mạng được củng cố từ tỉnh, huyện đến các xã, thôn. Trong năm 1974, các căn cứ địa miền núi tỉnh Bình Định có 43 cán bộ trong HĐND cấp huyện, 14 cán bộ ủy ban, 242 cán bộ trong HĐND cấp xã, 384 cán bộ trong uỷ ban xã thôn [145, tr. 19]. UBNDCM lâm thời được thành lập ở 9 huyện, thị xã thuộc căn cứ địa tỉnh Phú Yên. Riêng hai huyện Miền Tây và Tây Nam tổ chức bầu HĐND với 43 thành viên [105, tr. 211]. Chính quyền cách mạng thực hiện tốt chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, đặc biệt là chính sách hòa hợp dân tộc. Nhờ đó, khối đoàn kết dân tộc ở căn cứ địa không ngừng được xây dựng, củng cố. Hệ thống chính quyền và các đoàn thể quần 116

118 chúng đã phát huy được vai trò, hiệu lực trong việc ổn định tình hình trật tự xã hội, phát triển kinh tế, từng bước cải thiện đời sống ở các căn cứ địa. Về kinh tế: Để giải quyết vấn đề lương thực, tháng , Quân khu V thành lập Binh đoàn xây dựng kinh tế 773, gồm cán bộ, chiến sĩ. Binh đoàn kết hợp với nhân dân các địa phương sử dụng các nguồn lực tại chỗ và cơ sở vật chất, máy móc, phương tiện kỹ thuật được chi viện từ hậu phương lớn miền Bắc vào, xây dựng tại các căn cứ địa những cơ sở sản xuất nông nghiệp ở Khâm Đức (Quảng Đà), Diên Bình (Kon Tum), Ba Tơ (Quảng Ngãi), An Lão (Bình Định). Nhằm khuyến khích sản xuất nông nghiệp, chính quyền cách mạng ở các căn cứ đẩy mạnh thực hiện việc cấp ruộng đất, cho vay vốn, giống, trâu bò cho nông dân. Phong trào hợp tác tiếp tục được củng cố và phát triển. Năm 1974, căn cứ địa miền núi tỉnh Quảng Đà có 70 hợp tác xã có ruộng, 48 hợp tác có đất khai hoang thành thục. Có 87 hợp tác có lò rèn và 10 hợp tác biết dùng trâu cày ruộng [144, tr. 5]. Các căn cứ miền núi tỉnh Bình Định có 114 tổ hợp tác, nhân khẩu, lao động [145, tr. 19]. Phong trào sản xuất tự túc phát triển mạnh mẽ ở các cơ quan, đơn vị và các địa phương. Cán bộ, bộ đội và công nhân viên các căn cứ địa ở Khu V đã thu hoạch hàng ngàn tấn lương thực, tự túc từ 3 đến 4 tháng ăn. Nhờ đẩy mạnh khai hoang phục hóa, diện tích đất trồng trọt tại các căn cứ địa tăng lên ha. Trong hai năm , nhân dân tại các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ đã đóng đảm phụ nuôi quân tấn lương thực, bán cho Ban kinh tế của Khu ủy tấn [69, tr. 496]. Việc tiếp nhận tấn gạo từ hậu phương lớn miền Bắc đã góp phần tăng cường dự trữ lương thực cho các căn cứ địa ở miền núi Khu V. Bên cạnh đó, hệ thống các kho tàng dự trữ, các tuyến giao thông vận tải cũng nhanh chóng được xây dựng. Chỉ trong thời gian chưa đầy 2 tháng, nhân dân Căn cứ huyện Quế Tiên (Quảng Nam) đã cùng nhân dân các huyện Phước Sơn, Tiên Phước, Quế Sơn, Thăng Bình và bộ đội Sư đoàn 2 chủ lực Quân khu V làm xong tuyến đường dài gần 100 km phục vụ cho việc vận chuyển của các loại ô tô cơ giới tham gia chiến dịch giải phóng Nông Sơn Trung Phước [67, tr. 147]. 117

119 Về văn hóa xã hội: Chính quyền cách mạng luôn luôn chăm lo việc xây dựng trường học, tổ chức hoạt động y tế đáp ứng yêu cầu chăm sóc sức khỏe cán bộ, chiến sỹ và nhân dân, phát triển các hoạt động văn hóa văn nghệ trong căn cứ địa. Năm 1974, các căn cứ địa miền núi tỉnh Quảng Đà đã xây dựng được 55 trường thôn, 20 trường xã và 3 trường bổ túc huyện với số lượng học sinh. Ngành y tế đẩy mạnh phong trào vệ sinh phòng dịch, phát động phong trào làng ba sạch, chống dịch bệnh kịp thời, tiến hành tiêm chủng cho người dân [144, tr. 5]. Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ có quy mô, đặc điểm khác nhau và thành quả xây dựng đạt được ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung đây là thời kỳ công tác xây dựng căn cứ địa được chú trọng một cách toàn diện nhất. Bộ mặt từng căn cứ có những khởi sắc, thể hiện được vai trò và tính ưu việt của chế độ mới chế độ dân chủ nhân dân. Điều này đã thu hút, động viên được một bộ phận nhân dân từ các đô thị chuyển đến sinh sống, làm ăn. Nhiều căn cứ địa từ chỗ không có dân trở thành có dân và ngày càng nhiều dân. Năm 1974, phối hợp với quân chủ lực của BTL Quân khu V, quân dân căn cứ địa ở Trung Trung Bộ tham gia các Chiến dịch Xuân Hè, Chiến dịch Tổng hợp Hè, Chiến dịch Tổng hợp Thu, bức rút hàng loạt cụm cứ điểm và hàng trăm chốt địch góp phần mở rộng vùng giải phóng, củng cố hệ thống căn cứ địa. Ngày , Sư đoàn 2 chủ lực Quân khu V nổ súng tiêu diệt cụm cứ điểm lớn Nông Sơn Trung Phước, cách Đà Nẵng 45 km về phía Tây Nam. Tiếp đó, từ ngày đến , Trung đoàn 66 (Sư đoàn 304), Trung đoàn 3 (Sư đoàn 324), cùng các đơn vị pháo binh, công binh, phòng không phối thuộc và lực lượng bộ đội địa phương huyện Đại Lộc tổ chức chiến dịch tấn công giải phóng Thượng Đức, một căn cứ quân sự lớn nhất ở miền Nam Việt Nam của địch nằm trên địa phận xã Đại Lãnh, huyện Đại Lộc, Quảng Nam. Trong năm 1974, với hai thắng lợi liên tiếp ở Nông Sơn Trung Phước, Thượng Đức, căn cứ địa ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Đà tiếp tục được củng cố và hoàn chỉnh, mạng lưới giao thông phát triển xuống tận vùng giáp ranh, uy hiếp trực tiếp các căn cứ lớn của địch. Cuối năm 1974, bốn huyện: Ba Tơ, Sông Hre, Minh Long của tỉnh Quảng Ngãi có 115/186 xã được giải phóng hoàn toàn. Các tuyến đường cơ giới: Nà Niêu 118

120 (Trà Bồng) đi Tân An (Sơn Tịnh); Sông Hre đi Minh Long, Nghĩa Hành, Ba Tơ, Đức Phổ, Mộ Đức và cả tuyến đường từ Ba Tơ, Đức Phổ nối liền với tuyến đường chiến lược liên tỉnh vào Bình Định được hoàn thành. Nhờ đó, vùng giải phóng ngày càng mở rộng, nối liền với căn cứ địa miền núi trở thành hậu phương vững chắc cho Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Tại Bình Định, đến cuối năm 1974, căn cứ địa, vùng giải phóng được mở ra 2 huyện miền núi là Vĩnh Thạnh và An Lão; đại bộ phận huyện Vân Canh và Hoài Ân, 18 xã 50 thôn đồng bằng với dân [3, tr. 260]. Bên cạnh đó, đường Hồ Chí Minh đã vào đến Bắc và Tây Bắc Bình Định. Tuyến đường vận tải cơ giới chiến dịch từ An Lão đến Bắc Đường 19 cũng thông suốt. Các con sông: An Lão, Kim Sơn, Côn được khơi thông luồng lạch đảm bảo cho thuyền trọng tải kg có thể xuôi ngược trong mùa khô. Hai tuyến đường An Lão Ân Nghĩa (Hoài Ân) và Kon Hà Nừng dốc Bà Bơi, tuyến dọc hai bờ sông Côn xuống Bắc Đường 19 cùng các đường nhánh được xây dựng đã góp phần đảm bảo giao thông liên lạc thông suốt giữa miền núi và đồng bằng, đặc biệt là giữa các căn cứ địa. Nhìn chung, đến cuối năm 1974, hầu hết các căn cứ địa cách mạng ở miền núi và giáp ranh các tỉnh Quảng Đà, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định đều được mở rộng, nối thông nhờ hệ thống giao thông nội tỉnh, liên tỉnh và tuyến hành lang chiến lược của Trung ương đi qua. Trên cơ sở những chuyển biến thuận lợi của tình hình chiến trường miền Nam, để tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, cuối năm 1974, Bộ Chính trị chỉ đạo các địa phương: Cần khẩn trương xây dựng vùng căn cứ, giải phóng, các xã, ấp mới mở và các lõm giải phóng xen kẽ ở vùng nông thôn phía trước vững mạnh về mọi mặt để dồn sức ra phía trước tấn công địch [89, tr. 378]. Các địa phương ở Trung Trung Bộ và Khu V thực hiện nhiệm vụ mở thông hành lang nối liền Tây Nguyên với Đông Nam Bộ, tạo điều kiện để bộ đội chủ lực cơ động nhanh vào miền Đông, phối hợp với quân chủ lực Miền tiến đánh Sài Gòn [89, tr. 195]. Tại các căn cứ địa cách mạng, trên tinh thần đoàn kết, hòa giải và hòa hợp dân tộc, chính quyền cách mạng thực hiện nghiêm túc 10 chính sách của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, đảm bảo các quyền tự do dân chủ của nhân dân. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, căn cứ địa cách mạng ở 119

121 Trung Trung Bộ đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc điều động lực lượng phối hợp, tham gia chiến đấu cùng với các đơn vị chủ lực. Từ cuối năm 1974 đầu năm 1975, nhân dân ở căn cứ địa thuộc các tỉnh Quảng Nam, Quảng Đà, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên tích cực tham gia cùng các đơn vị vũ trang tiến hành mở gấp nhiều con đường phục vụ cho việc vận chuyển vũ khí lương thực, thực phẩm ra chiến trường. Nhân dân Căn cứ Quế Tiên (Quảng Nam) cùng với Trung đoàn 803 công binh Quân Khu V tiến hành sửa chữa và làm mới hai tuyến đường dài, một tuyến từ An Tráng qua các xã Phước Hà, Phước Cẩm lên điểm cao 228 (Núi Vú Em) và một tuyến từ Núi Ngang qua Phước Sơn lên Chà Vu. Bên cạnh đó, còn làm mới các tuyến đường ngắn Hiệp Đức An Tráng Thôn 1, Phước Cẩm Hiệp Đức Trà My Diên Yên. Được sự động viên của Huyện ủy và chính quyền, ngư dân các vạn chài tự nguyện đem hàng trăm ghe thuyền để chuyển hàng ra phía trước phục vụ chiến dịch. Đến cuối tháng , đã có 179 tấn đạn, 136 tấn lương thực, thực phẩm được nhân dân Căn cứ Quế Tiên phối hợp cùng các huyện bạn và bộ đội Quân khu V đưa ra tuyến trước [67, tr. 150]. Nhân dân Căn cứ Vĩnh Thạnh (Bình Định) cùng các đơn vị công binh của Khu và Sư đoàn 3 mở các con đường nhánh kết hợp với vận chuyển vũ khí, lương thực, thực phẩm phục vụ các đơn vị cắt Đường 19 của Sư đoàn 3, đoạn từ Lăng Mai Xuân Thưởng (Bình Tường) lên ngã ba Vườn Xoài (Bình Quang). Được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Phú Yên, tại 3 huyện căn cứ địa cách mạng: Sơn Hòa, Miền Tây, Tây Nam, hàng ngàn người dân đã tham gia khai thông các tuyến đường từ Miền Tây Phú Yên nối liền với đường chiến lược Hồ Chí Minh: Đường số 6 chạy từ Cà Lúi đến Đồng Xuân, Tuy An; Đường số 7 từ Tây Nguyên xuống đồng bằng Tuy Hòa. Tháng , nhân dân và LLVT tại các căn cứ địa tích cực phối hợp cùng các đơn vị chủ lực tiến về giải phóng nhiều thành phố, thị xã. Tại Đà Nẵng, trên cơ sở chủ động nắm bắt diễn biến của tình hình chiến trường, Chi bộ cùng Ban khởi nghĩa Căn cứ K20 lãnh đạo nhân dân và 2 trung đội tự vệ kéo về sân bay Nước Mặn phối hợp với Trung đoàn 97 nhanh chóng làm chủ sân bay góp phần giải phóng 120

122 hoàn toàn thành phố Đà Nẵng vào ngày Lực lượng tự vệ Khu Sông Đà chiếm Đài phát thanh Đà Nẵng, kho An Đồn... vận động phần lớn binh lính, sĩ quan quân đội VNCH trên địa bàn quận Ba tự động rã ngũ, giao nộp kho An Đồn cho lực lượng cách mạng một cách an toàn. Ở Quảng Nam, các đơn vị V45, V11 và lực lượng du kích các xã thuộc Căn cứ huyện Quế Tiên được huy động tham gia trực tiếp chiến đấu, hiệp đồng chặt chẽ với bộ đội chủ lực của Khu, LLVT tỉnh bao vây, tấn công và tiêu diệt các cứ điểm Núi Vú, Chóp Chài, cầu Ông Triệu, Bình Định, Bình Lãnh. Trong những ngày đầu tháng , lực lượng bộ đội, du kích địa phương đang đứng chân tại Căn cứ Trà Bồng (Quảng Ngãi) tham gia phối hợp cùng bộ đội chủ lực của tỉnh tổ chức truy quét tàn quân VNCH đang tháo chạy, thu nhiều vũ khí, xe pháo các loại, đồng thời đưa số dân bị chúng bắt đi theo quay trở về làng cũ. Cùng thời gian này, bộ đội địa phương và du kích xã thôn Căn cứ Vĩnh Thạnh (Bình Định) phối hợp với Tiểu đoàn 51 và Đ10 đặc công tỉnh và LLVT hai huyện Bình Khê, An Nhơn mở khu chiến Đông Bắc Bình Khê Tây An Nhơn. Trong mùa Xuân lịch sử năm 1975, quân dân tại căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ đã huy động cao độ sức người, sức của để đóng góp cho sự nghiệp giải phóng quê nhà. LLVT huyện, dân quân, du kích các xã căn cứ địa được động viên tối đa tham gia chiến đấu. Hàng chục ngàn dân công mở đường, tải đạn, vận chuyển hàng hóa, đưa thương binh về tuyến sau Bên cạnh đó, nhân dân còn đóng góp rất lớn về lương thực, thực phẩm, nhân lực, vật lực phục vụ các LLVT. Họ tham gia tích cực vào công tác bảo đảm hậu cần cho các đơn vị, phối hợp cùng các LLVT nổi dậy phá đồn địch, tham gia diệt ác trừ gian, tiếp quản, giữ gìn an ninh, trật tự tại căn cứ địa, vùng giải phóng. * Tiểu kết chương 3 Trong giai đoạn chống chiến lược Chiến tranh đặc biệt ( ), hệ thống căn cứ địa ở Trung Trung Bộ tiếp tục được củng cố một cách toàn diện và không ngừng được mở rộng. Bên cạnh các căn cứ địa miền núi, ở vùng giáp ranh và đồng bằng, nhiều căn cứ mới tiếp tục được xây dựng, mở rộng như: Sơn Cẩm 121

123 Hà (Quảng Nam); Núi Bà, Hòn Chè (Bình Định); Vân Hòa, Đá Bàn (Phú Yên) Các căn cứ lõm ngay trong lòng địch cũng được hình thành: K20 (Đà Nẵng); Triều Tiên, Đà Lạt, Liên Xô (Quảng Ngãi); các thôn bao quanh Căn cứ Núi Bà (Bình Định) là Tân Thanh, Vĩnh Hội (Cát Chánh) và Lộc Khánh (Cát Thắng); Hòa Kiến (Phú Yên) Địch đã tiến hành nhiều cuộc hành quân lớn, đánh phá ác liệt vào các căn cứ. Tuy nhiên, nhờ không ngừng được xây dựng và củng cố về mọi mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, quân sự, quân và dân các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ đã bẻ gãy hầu hết các cuộc càn quét của địch. Các căn cứ địa không những không bị xóa sổ mà còn trở thành chỗ dựa vững chắc để LLVT tổ chức các cuộc chiến đấu tiến công địch ở bên ngoài căn cứ, làm thất bại âm mưu bình định và tìm diệt của đối phương. Trong giai đoạn chống chiến lược Chiến tranh cục bộ ( ), căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ tiếp tục phát triển thực lực về mọi mặt; đồng thời không ngừng phát huy cao độ vai trò hậu phương tại chỗ trong việc huy động một cách tối đa các nguồn lực phục vụ cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ đã góp phần đánh bại chiến lược Chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ tại địa bàn. Trên cơ sở những thành quả, kinh nghiệm xây dựng và bảo vệ căn cứ địa cách mạng của các giai đoạn trước, bước vào giai đoạn chống chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh ( ), mặc dù các căn cứ địa cách mạng gặp nhiều khó khăn do Mỹ và chính quyền VNCH đẩy mạnh hoạt động đánh phá nhưng với cách thức tổ chức linh hoạt, tích cực chủ động khai thác tiềm năng sẵn có tại chỗ, thực hiện vừa sản xuất vừa tích cực đánh địch, tăng cường xây dựng lực lượng về mọi mặt, căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ đã vượt qua được những khó khăn, thử thách cam go, các lực lượng kiên trì trụ bám lâu dài. Giai đoạn này, một số căn cứ đã được mở rộng và phát triển thêm như: Lam Sơn, Nam Trà, Sơn Trà, Quế Tiên, Bầu Bính, Phước Trà, Tây Nam Với thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, các căn cứ địa cách mạng đã trở thành điểm tựa vững chắc cho phong trào kháng chiến và là địa 122

124 điểm xuất phát của các LLVT hiệp đồng với các đơn vị chủ lực tổ chức tiến công địch ở phía trước. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, quân dân căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ tập trung huy động tối đa nguồn nhân lực, vật lực phục vụ chiến trường tại chỗ, phục vụ các cánh quân cơ động tiến về Sài Gòn. Các căn cứ đã cung cấp một phần đáng kể lương thực, thực phẩm, tham gia vận chuyển vũ khí cho LLVT; đồng thời còn phối hợp tổ chức chiến đấu với các đơn vị chủ lực, tham gia cuộc tổng tiến công, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. 123

125 CHƯƠNG 4 ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM 4.1. Một số đặc điểm của căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ Cũng giống như căn cứ địa ở những vùng miền khác ở miền Nam, căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ có cùng một số đặc điểm chung là được xây dựng từ các cơ sở chính trị đến xây dựng các căn cứ có quy mô nhỏ, rồi từ quy mô nhỏ phát triển thành các căn cứ địa có quy mô lớn; từ những địa bàn đứng chân ban đầu đến hình thành một hệ thống căn cứ địa cách mạng rộng lớn; hoạt động xây dựng căn cứ địa được tiến hành toàn diện trên nhiều mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, kết hợp xây dựng với bảo vệ, bảo vệ để xây dựng căn cứ Tuy nhiên, ngoài những đặc điểm chung đó, do sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử, tình hình chiến trường, điều kiện tự nhiên, dân cư, xã hội ở địa phương nên căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ còn có một số đặc điểm nổi bật Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ phong phú về loại hình, đa dạng về quy mô và hình thức tổ chức Trên cơ sở điều kiện địa lý tự nhiên, xã hội và thực tiễn chiến trường, quân dân Trung Trung Bộ xây dựng hệ thống căn cứ địa với sự phong phú về loại hình, quy mô và hình thức tổ chức. Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ tồn tại với nhiều loại hình: Có căn cứ được xây dựng ở miền núi, có căn cứ ở vùng giáp ranh giữa đồng bằng và miền núi, có căn cứ ở ven sông biển, có căn cứ lõm trong vùng địch kiểm soát. Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy cuộc kháng chiến đã dựa vào địa bàn rừng núi để giữ gìn, bảo tồn lực lượng cách mạng; đồng thời từng bước dựa vào các nhân tố địa quân sự, địa chính trị, địa văn hóa để xây dựng căn cứ địa làm chỗ đứng chân lâu dài. Căn cứ địa ở miền rừng núi Trung Trung Bộ có: Nước Oa, Nước Là, Phước Trà, Quế Tiên (Quảng Nam), Trà Bồng, Sơn Tây (Quảng Ngãi), Vĩnh Thạnh (Bình Định), Vân Hòa, Tây Nam (Phú Yên) Đa số các căn cứ này có quy mô, diện tích 124

126 không phải là lớn nếu so với một số căn cứ địa ở Tây Nguyên, miền Đông hay miền Tây Nam Bộ nhưng phần lớn đều có ATK. Những khu vực này được xây dựng khá hoàn chỉnh, được bảo vệ chắc chắn, là nơi đứng chân của các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến cấp khu, tỉnh, huyện. Ở đây, chính quyền cách mạng, LLVT, các đoàn thể quần chúng được thành lập và hoạt động công khai, nhân dân hoàn toàn làm chủ mọi mặt đời sống xã hội. Ở vùng giáp ranh giữa miền núi và đồng bằng, có các căn cứ: Sơn Cẩm Hà, Tiên Sơn, Hòn Tàu (Quảng Nam), Vĩnh Tuy (Quảng Ngãi), Núi Bà, Hòn Chè (Bình Định), Đá Bàn (Phú Yên) Thời kỳ quân Mỹ VNCH đánh phá mạnh, nhờ các căn cứ dạng này mà lực lượng kháng chiến có thể cơ động rút lên các căn cứ địa miền núi hoặc dựa vào hệ thống căn cứ địa loại này để trụ bám. Đây cũng là khu vực bàn đạp để khi có thời cơ, lực lượng kháng chiến tiến về giải phóng đồng bằng, mở rộng căn cứ địa, vùng giải phóng. Đối với vùng đồng bằng, địa bàn đông dân, nhiều của nhưng cũng là nơi Mỹ và chính quyền VNCH kiểm soát gắt gao thì có một số căn cứ tiền phương tiêu biểu như Ba Làng An (Quảng Ngãi). Đối với vùng sông, biển có các căn cứ như: Khu Sông Đà (Đà Nẵng), rừng dừa Bảy Mẫu (Quảng Nam), Miền Đông (Phú Yên). Cách thức tổ chức của các căn cứ ở đây là dựa vào ngư dân, ghe thuyền, các cồn nổi, rừng dừa nước, bến bãi để đào hầm bí mật nuôi giấu cán bộ, tổ chức đánh địch, tiếp nhận sự chi viện của miền Bắc. Ngoài ra, còn có các căn cứ lõm : K20 (Đà Nẵng), Bầu Bính (Quảng Nam); Triều Tiên, Liên Xô (Quảng Ngãi); Hòa Kiến, Chóp Chài (Phú Yên) Đây là những căn cứ nằm trong vùng địch hậu. Tại các căn cứ này, cán bộ dựa vào dân, hệ thống hầm bí mật, công sự mật để hoạt động. Loại hình căn cứ lõm trở thành nơi đứng chân an toàn trong lòng địch của các cơ quan, lãnh đạo, chỉ huy kháng chiến; nơi cất giấu vũ khí, lương thực; đồng thời làm bàn đạp xuất phát của LLVT trước những trận đánh lớn tấn công vào sào huyệt của địch. Ở đô thị, nơi tập trung cơ quan đầu não của địch, lực lượng kháng chiến xây dựng cơ sở chính trị, hầm bí mật để nuôi giấu, che chở cán bộ, nơi ém quân của các 125

127 nhóm biệt động. Loại hình này tồn tại với quy mô nhỏ trong một vài gia đình cơ sở; có trường hợp trong khu phố hoặc địa bàn vùng giáp ranh giữa nông thôn và đô thị. Bên cạnh sự phong phú về loại hình, căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ còn được xây dựng với nhiều quy mô: một xã (Căn cứ Tiên Sơn, Căn cứ Thồ Lồ), một huyện (Căn cứ Trà Bồng, Căn cứ Sơn Tây, Căn cứ Vĩnh Thạnh, Căn cứ Tây Nam), liên huyện (Căn cứ Hải Nam, Căn cứ Quế Tiên) Khác với Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ, Cực Nam Trung Bộ, bên cạnh cấp Khu, cấp tỉnh, cấp huyện, căn cứ địa ở Trung Trung Bộ còn tồn tại cấp đặc khu. Khu A được thành lập năm 1970 trên cơ sở tách nhập một số huyện miền núi của tỉnh Kontum và các tỉnh Quảng Nam, Quảng Đà, Quảng Ngãi bao gồm 4 đặc khu: Lam Sơn, Nam Trà, Yên Thế, Sơn Trà. Các đặc khu đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Khu ủy V. Mặc dù chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn từ năm 1970 đến năm 1973 nhưng Khu A được xây dựng thành một khu căn cứ mạnh về các mặt, bước đầu thể nghiệm mô hình của chế độ mới chế độ dân chủ nhân dân. Qua đó, phản ánh sự quan tâm đặc biệt của Khu ủy đối với vấn đề xây dựng căn cứ địa miền núi. Sự ra đời của Khu A bao gồm các đặc khu kể trên là nét độc đáo trong hoạt động xây dựng căn cứ miền núi Trung Trung Bộ. Hình thức tổ chức của các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ khá đa dạng. Từ năm 1955, nhằm phục vụ cho hoạt động xây dựng căn cứ, tỉnh Quảng Nam thành lập Ban Căn cứ giao thông chăm lo việc xây dựng nơi đóng cơ quan Tỉnh ủy và giao thông liên lạc. Tỉnh Quảng Ngãi cũng thành lập Ban xây dựng và bảo vệ căn cứ. Đầu năm 1960, Thường vụ Khu ủy V thành lập Ban căn cứ thực hiện nhiệm vụ bảo vệ cơ quan Liên khu ủy và căn cứ chung. Tùy thuộc vào tình hình phát triển của cuộc kháng chiến và yêu cầu, nhiệm vụ của mỗi giai đoạn cách mạng các căn cứ có hình thức tổ chức phù hợp. Ở cấp khu, bên cạnh các bộ phận: cơ yếu, sản xuất, y tế, xưởng sản xuất, sửa chữa vũ khí, hệ thống kho tàng Các căn cứ thành lập các Ban phụ trách các hoạt động chuyên môn. Căn cứ Nước Oa có Ban Tổ chức Khu ủy V, Ban Quân sự Khu V, Ban Tài mậu Khu V (lo hậu cần) Căn cứ Nước Là có Ban Tổ chức Khu ủy V, Ban Quân sự Khu V, Ban Kinh tài Khu V, Ban Tuyên huấn Khu V, Ban Dân vận Khu V Căn cứ Phước Trà có Ban Tổ chức Khu 126

128 ủy Khu V, Ban Tuyên huấn Khu ủy Khu V, Ban đại diện Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam Ở cấp tỉnh, các căn cứ đều thành lập các Ban sản xuất, Ban Tuyên giáo, Ban quân dân y, Ban an ninh, Xưởng quân giới. Tuy nhiên, tùy theo tình hình địa phương mà một số căn cứ cũng có cách thức tổ chức riêng: Căn cứ Núi Bà có Ban chỉ đạo tiền phương được thành lập bao gồm các bộ phận như: binh vận, tuyên huấn, giao liên, y tế, hậu cần, xưởng in và một đại đội chủ lực của tỉnh. Ở Căn cứ Hòn Tàu, bên cạnh các cơ quan như: Ban Tuyên huấn, Ban Tổ chức, Ban Kiểm Tra; các ngành Tài Mậu, Lương thực, Y tế còn có Sở chỉ huy của Bộ Tư lệnh Mặt trận 4 và các đơn vị trực thuộc. Từ khi mới được xây dựng (1964), Căn cứ lõm K20 đã có các chi bộ đảng, các tiểu đội du kích và các đoàn thể quần chúng cùng với khoảng dân. Ngược lại, ở Căn cứ lõm Bầu Bính trong hơn một năm đầu thành lập (1971), căn cứ không có dân cư, chỉ có cán bộ, bộ đội và du kích bám trụ hoạt động. Cho đến tháng , sau khi LLVT tỉnh Quảng Nam mở lại vùng Đông Thăng Bình, tiêu diệt các chốt điểm của địch, phát động quần chúng phá khu dồn trở về quê cũ làm ăn sinh sống, số dân Căn cứ Bầu Bính lúc này mới tăng lên 300 người. Mặc dù được xây dựng với sự phong phú về loại hình, đa dạng về quy mô và hình thức tổ chức nhưng căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ chủ yếu tập trung ở địa bàn rừng núi. Miền núi Trung Trung Bộ thuộc phần cuối của dãy Trường Sơn Bắc và nửa phần đầu của dãy Trường Sơn Nam. Đây là khu vực có nhiều dãy núi cao với nhiều hang động và rừng già kín đáo, có thể sử dụng làm nơi ẩn nấp, cất giấu lương thực, vũ khí, tránh sự tấn công của kẻ địch. Vùng rừng núi phía Tây các tỉnh Nam Ngãi Bình Phú nối liền với nhau, tiếp giáp với nước bạn Lào, đồng thời liên hoàn với Tây Nguyên là địa thế tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ. Với lợi thế về quân sự và diện tích chiếm gần 3/4 diện tích tự nhiên, vùng rừng núi Trung Trung Bộ là địa bàn lý tưởng để xây dựng căn cứ địa cách mạng. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đa phần căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ được xây dựng chủ yếu ở miền núi phía Tây. Các căn cứ của Khu 127

129 ủy và BTL Quân khu V: Nước Oa, Nước Là, Phước Trà đều được xây dựng ở các huyện miền núi Trà My, Hiệp Đức, Hiên, Giằng của tỉnh Quảng Nam. Các căn cứ Hải Nam, Thống Nhất và các đặc khu Nam Trà, Lam Sơn, Sơn Trà được xây dựng trên địa bàn các huyện miền núi: Hiên, Giằng (Quảng Nam), Sơn Tây, Trà Bồng (Quảng Ngãi). Ba khu căn cứ địa cách mạng của tỉnh Quảng Ngãi ra đời vào giữa năm 1958 và các Căn cứ Trà Bồng, Sơn Tây được xây dựng chủ yếu tập trung trên địa bàn các huyện miền núi Trà Bồng, Sơn Hà, Ba Tơ, Minh Long. Căn cứ địa Vĩnh Thạnh, Hòn Dồ, Hầm Hô, Núi Bà, Hòn Chè là những căn cứ nằm ở khu vực rừng núi các huyện Vĩnh Thạnh, Tây Sơn và Phù Cát tỉnh Bình Định. Căn cứ địa Thồ Lồ Ma Dú, Vân Hòa được xây dựng tại khu vực rừng núi hiểm trở của các huyện Đồng Xuân, Sơn Hòa của tỉnh Phú Yên. Cùng với lợi thế về quân sự, địa bàn rừng núi còn là nơi có thể tận dụng để khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên bảo đảm hậu cần tại chỗ; xây dựng nền sản xuất tự cấp, tự túc nhằm giải quyết một phần quan trọng nhu cầu lương thực, thực phẩm cho căn cứ địa khi sự chi viện của miền Bắc chưa đến kịp. Dựa vào địa bàn rừng núi rộng lớn, liên hoàn, các căn cứ địa tiến hành xây dựng, củng cố lực lượng kháng chiến; xây dựng hệ thống kho tàng, xưởng, trạm, xây dựng các công trình quân sự phục vụ kháng chiến lâu dài. Bên cạnh đó, vùng rừng núi Trung Trung Bộ còn là nơi cư trú tập trung của đồng bào các dân tộc thiểu số: Cơ tu, Mnông, Cadong, Cor, Hrê, Ba Na, Chăm Mặc dù trình độ dân trí còn thấp, đời sống kinh tế nghèo nàn, lạc hậu nhưng đồng bào các dân tộc miền núi Trung Trung Bộ giàu truyền thống đấu tranh chống áp bức, bất công. Từ những năm đầu thế kỷ XX miền núi Trung Trung Bộ đã liên tiếp nổ ra những cuộc vũ trang chống Pháp của đồng bào Cadong, Cor, Hrê, Ba Na... Truyền thống đấu tranh chống áp bức, cường quyền của đồng bào các dân tộc miền núi Trung Trung Bộ là cơ sở hết sức thuận lợi đối với hoạt động xây dựng và bảo vệ căn cứ địa trong kháng chiến chống Mỹ sau này. Tóm lại, việc xây dựng hệ thống căn cứ địa cách mạng với sự phong phú về loại hình, đa dạng về quy mô và hình thức tổ chức đồng thời tập trung chủ yếu ở địa 128

130 bàn miền núi là một sự lựa chọn sáng tạo, phù hợp với quy luật phát triển của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Nhờ đó, quân dân Trung Trung Bộ đã giải quyết được vấn đề đất đứng chân tương đối an toàn, xây dựng, củng cố lực lượng, tạo thế đứng vững chắc về quân sự để trường kỳ kháng chiến Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ thường xuyên có sự biến động Trong kháng chiến chống Mỹ, các căn cứ ở miền Đông Nam Bộ như: Căn cứ Minh Đạm, Căn cứ Tây Ninh và Chiến khu Đ hoặc các căn cứ ở miền Tây Nam Bộ như: Căn cứ Ba Hòn, Căn cứ U Minh, Căn cứ Bảy Núi đều được hình thành và phát triển trên một địa bàn nhất định, các căn cứ không có sự biến động về quy mô. Tuy nhiên, khác với Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, ở Trung Trung Bộ, quy mô các căn cứ địa có sự thay đổi tùy theo tình hình phát triển của cuộc kháng chiến. Bên cạnh đó, từ căn cứ của Khu ủy V cho đến căn cứ của các địa phương thường xuyên phải di chuyển địa điểm đóng trú, địa bàn hoạt động và đa phần các ATK cũng không cố định như ở Việt Bắc, Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ. Sở dĩ các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ thường xuyên có sự biến động là vì một số lý do: Thứ nhất, Trung Trung Bộ có đặc điểm địa hình hiểm trở, chia cắt, việc hỗ trợ, liên lạc giữa các căn cứ là hết sức khó khăn nên khi địch tổ chức tấn công từ nhiều hướng, các căn cứ địa thường dễ bị cô lập. Do vậy, để có thể đứng vững và phát huy vai trò đối với cuộc kháng chiến, các căn cứ phải thường xuyên phải di chuyển, tìm kiếm những nơi an toàn hơn. Thực tế cho thấy, trong kháng chiến chống Mỹ, mặc dù phải thường xuyên di chuyển địa điểm, địa bàn đóng trú ở các huyện miền núi Hiên, Giằng, Trà My, Phước Sơn, Hiệp Đức của tỉnh Quảng Nam nhưng căn cứ của Liên Khu ủy V vẫn được bảo vệ an toàn, đảm bảo được sự lãnh đạo của Khu ủy đối với phong trào cách mạng ở Khu V. Thứ hai, Khu V cũng như các tỉnh Trung Trung Bộ là địa bàn trung chuyển cán bộ, LLVT, hàng hóa chi viện từ miền Bắc vào miền Nam. Đây cũng là điểm đầu của tuyến vận tải chiến lược đường Hồ Chí Minh trên biển, trên bộ. Một số lượng lớn cán bộ, bộ đội chủ lực, hàng hóa trước khi được chuyển về các địa phương đều tập trung tại căn cứ địa của Khu V và Trung Trung Bộ. Do vậy, địa bàn này cũng là chiến trường đánh phá ác liệt của địch. Hơn nữa, Trung Trung 129

131 Bộ lại là nơi số lượng quân Mỹ và đồng minh tập trung đông hơn so với Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ. Cơ sở hậu cần của địch ở đây tương đối thuận lợi cho việc triển khai hoạt động chiến tranh. Vì vậy, địch tập trung lực lượng đánh phá nhằm phá hủy các tuyến hành lang chiến lược, kho vũ khí, hàng hóa chi viện từ miền Bắc, tiêu diệt lực lượng chủ lực của ta. Để hạn chế tổn thất, đảm bảo an toàn, bí mật, các căn cứ ở Trung Trung Bộ phải thường xuyên di chuyển địa điểm. Thứ ba, do yêu cầu, nhiệm vụ của cuộc kháng chiến, các căn cứ ở Trung Trung Bộ có thể được sáp nhập, chia tách hoặc xây dựng mới. Điển hình như: Căn cứ huyện Quế Tiên (1969), Khu A và Căn cứ Tây Nam (1970), Căn cứ Tiên Sơn và Căn cứ Phước Trà (1973) Bên cạnh đó, tùy thuộc vào tình hình phát triển của cuộc kháng chiến, địa bàn hoạt động, quy mô căn cứ cũng có sự thay đổi. Trong giai đoạn từ , đặc biệt là từ sau thắng lợi của phong trào Đồng khởi, cùng với sự phát triển của vùng làm chủ, vùng giải phóng, địa bàn các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ cũng được mở rộng mạnh mẽ. Tuy nhiên, sau Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, nhiều vùng giải phóng, căn cứ địa bị lấn chiếm, tình trạng mất đất, mất dân diễn ra ở một số nơi, các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ phải liên tục di chuyển địa điểm, lùi sâu địa bàn hoạt động vào trong núi cao, rừng sâu. Để khắc phục sự biến động và đảm bảo phát huy hiệu quả vai trò của các căn cứ địa đối với cuộc kháng chiến, các cấp Đảng bộ, chính quyền ở Trung Trung Bộ đã phát huy cao độ tinh thần chiến đấu kiên cường, ý thức phòng gian bảo mật của LLVT và nhân dân nhằm bảo vệ căn cứ vững chắc. Mặt khác, cũng không ngừng đẩy mạnh phong trào kháng chiến ở các địa phương. Qua đó, ngày càng mở rộng địa bàn hoạt động của các căn cứ địa. Thực tiễn cuộc kháng chiến cho thấy, mặc dù thường xuyên phải di chuyển địa điểm, thay đổi địa bàn đóng trú, cơ sở vật chất, nhân lực có thể bị địch đánh phá và chịu những tổn thất nhất định song các cơ quan đầu não kháng chiến vẫn được bảo vệ an toàn. Trong những thời điểm địch đánh phá ác liệt, các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy kháng chiến có khi phải lùi vào sâu hơn, hoặc phải chuyển vùng hoạt động nhưng về cơ bản cùng với sự phát triển của cuộc kháng chiến, quy mô, địa bàn hoạt động của các căn cứ địa cách mạng ở Trung 130

132 Trung Bộ vẫn không ngừng được mở rộng, phát triển gắn liền với sự phát triển của phong trào kháng chiến ở địa phương. Trong những năm , Căn cứ Liên Khu ủy V đứng chân tại vùng Bến Hiên, Bến Giằng của tỉnh Quảng Nam. Đây là giai đoạn địch khủng bố, truy tróc hết sức ác liệt nhưng Căn cứ Liên Khu ủy V vẫn được bảo vệ an toàn chính là nhờ sự bảo vệ, che chở của đồng bào các dân tộc. Sau này, khi Liên khu ủy chuyển căn cứ vào Nước Là (Trà My), nhờ làm tốt công tác bố phòng chiến đấu và ý thức phòng gian bảo mật trong quân dân nên các hoạt động xâm nhập, đánh phá của địch đều được quần chúng và LLVT kịp thời phát hiện và đối phó hiệu quả. Trong những năm , căn cứ của Tỉnh ủy Quảng Nam đứng chân ở các huyện miền núi Hiên, Giằng và miền Tây Hòa Vang, cuối năm 1962, trên cơ sở phong trào du kích chiến tranh phát triển mạnh mẽ, để mở rộng địa bàn căn cứ, nối liền đồng bằng với miền núi, từ cuối tháng , bộ đội địa phương tỉnh Quảng Nam và LLVT Quân khu V đã phối hợp tiến hành thắng lợi chiến dịch Vượt sông Tiên, giải phóng các xã Phước Sơn, Phước Cẩm, Phước Hà thuộc phía Tây Bắc huyện Tiên Phước, hình thành căn cứ địa cách mạng: Sơn Cẩm Hà. Quá trình di chuyển các cơ quan và hoạt động xây dựng căn cứ diễn ra ở nhiều địa phương, vùng miền khác nhau đã góp phần tích cực vào việc thúc đẩy phong trào cách mạng ở những địa phương nơi căn cứ đứng chân, đóng trú Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ có khả năng đảm bảo sản xuất tự túc, tự cấp Trong quá trình kháng chiến, các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng nền sản xuất tự túc, tự cấp. Thực tiễn cho thấy, trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, khi sự chi viện của miền Bắc chưa đến kịp, quân dân các địa phương gần như phải tự lực cánh sinh trong hoạt động xây dựng, bảo vệ căn cứ địa. Về sau, khi các căn cứ địa ngày càng mở rộng, phát triển, quân dân đã tích cực tiến hành các hoạt động sản xuất: trồng trọt, chăn nuôi, chế tạo vũ khí thô sơ, thuốc chữa bệnh... Bên cạnh việc đáp ứng nhu cầu tại chỗ, với sự cố gắng vượt bậc, một số căn cứ còn có những đóng góp đáng kể cho kháng chiến về lương thực, thực phẩm, nhân lực. Điều này cho thấy những nỗ 131

133 lực hết lớn lao của quân dân trong việc xây dựng nền kinh tế kháng chiến cũng như khả năng đảm bảo sản xuất tự túc, tự cấp của các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ. Tuy nhiên, khả năng này vẫn còn hạn chế, bởi vì một số lý do. Thứ nhất, khác với Miền Đông Nam Bộ là khu vực có địa hình tương đối bằng phẳng, đất đai màu mỡ, khí hậu tương đối thuận lợi cho hoạt động sản xuất nông nghiệp, thì Trung Trung Bộ lại là nơi có địa hình chia cắt, đồng bằng nhỏ, hẹp, đất đai kém màu mỡ, khí hậu khắc nghiệt, mưa bão, hạn hán thường xuyên xảy ra. Do vậy, sản xuất nông nghiệp tương đối bấp bênh, năng xuất lương thực thấp, sản lượng lúa gạo không dồi dào như ở Miền Đông Nam Bộ. Ở các căn cứ địa miền núi, nguồn gạo sản xuất được rất ít ỏi, cán bộ, chiến sĩ và nhân dân phải thường xuyên sử dụng sắn, khoai, ngô, củ mài để ăn thay cơm. Đặc biệt, trong những thời điểm địch tiến hành bao vây, phong tỏa, hạn chế sự giao lưu giữa miền núi và đồng bằng, một số căn cứ bị cô lập, nguồn lương thực, thuốc men dự trữ hạn hẹp, đời sống của các lực lượng trụ bám ở đây vô cùng khó khăn, gian khổ. Thứ hai, các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ chủ yếu tập trung ở miền rừng núi, nơi có địa hình hiểm trở, giao thông khó khăn. Mặt khác, Trung Trung Bộ cũng không có một hệ thống kênh rạch chằng chịt giàu nguồn thủy hải sản và thuận lợi cho giao lưu hàng hóa như ở Đông Nam Bộ. Điều này cũng tạo nên sự hạn chế đối với sự phát triển của nền sản xuất tự cấp, tự túc... Những yếu tố trên đã khiến cho việc duy trì kinh tế tự cấp, tự túc là hết sức khó khăn và đa phần các căn cứ đều thiếu lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh Vì vậy, để duy trì cuộc chiến đấu lâu dài, các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ rất cần sự chi viện từ hậu phương miền Bắc. Sự chi viện này bao gồm nhiều mặt từ lương thực, thực phẩm, thuốc men, vũ khí, đạn dược đến con người. Trong khi chờ đợi sự chi viện từ bên ngoài, các căn cứ phải tự lực cánh sinh trong việc giải quyết tình hình khó khăn trên. Bên cạnh việc đẩy mạnh sản xuất tại chỗ, các căn cứ tổ chức tiếp tế từ vùng địch, khai thác, thu mua, động viên sự đóng góp của nhân dân các địa phương. Nhiều cán bộ, chiến sĩ được cử về vùng địch thu mua lương thực, khơi thông luồng hàng. Để vận chuyển được lương thực, hàng hóa về căn cứ, nhiều người đã phải hy sinh cả xương máu. Do vậy, công tác tuyên truyền, vận động nhân dân ở vùng giáp 132

134 ranh đấu tranh với địch đòi tự do mua bán, trao đổi hàng hóa giữa vùng ta và vùng địch, chống việc bao vây phong tỏa về kinh tế miền núi, động viên nhân dân các địa phương bán lương thực, hàng hóa ủng hộ cách mạng cũng góp phần hỗ trợ đáng kể cho nền kinh tế ở các căn cứ. Vấn đề xây dựng các cơ sở chính trị ở nội đô có vai trò quan trọng trong việc tạo nguồn tiếp tế vận chuyển lương thực, thuốc men, các nhu yếu phẩm từ các đô thị cho các căn cứ địa. Việc thực hiện các giải pháp trên đã phần nào giúp cho các căn cứ địa có điều kiện duy trì nền kinh tế kháng chiến trong một chừng mực nhất định. Để tiến hành cuộc chiến đấu lâu dài, căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ vẫn rất cần sự chi viện kịp thời của hậu phương lớn miền Bắc. Thực tế cuộc kháng chiến cũng cho thấy, việc tiếp nhận sự chi viện mọi mặt của hậu phương lớn miền Bắc chính là nguồn lực cơ bản để tăng cường sức mạnh về mọi mặt cho các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ. Nhờ có nguồn lực này, các căn cứ đã không ngừng được củng cố, phát triển thực lực về mọi mặt. Từ đó, góp phần đắc lực vào việc thúc đẩy sự phát triển của phong trào cách mạng ở các địa phương Hệ thống căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ dễ bị chia cắt, cô lập khi địch tập trung lực lượng đánh phá mạnh Ở miền Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ, các căn cứ địa thường được xây dựng tập trung trên một địa hình nhất định (vùng đồng bằng, rừng cao su, rừng ngập mặn, đồi núi thấp). Nhìn chung, địa hình ở những khu vực này tương đối bằng phẳng nên việc di chuyển của các cơ quan và LLVT tương đối thuận lợi. Nếu địch đánh phá ở căn cứ này, các lực lượng trụ bám có thể di chuyển sang căn cứ khác để bảo tồn lực lượng, hạn chế tổn thất. Mặt khác, việc tiếp nhận sự chi viện từ miền Bắc ở Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ cũng tương đối thuận lợi hơn so với Trung Trung Bộ. Vì thế, các căn cứ có điều kiện dự trữ tương đối khá về mặt hậu cần. Khi bị địch đánh phá, các căn cứ có khả năng hỗ trợ kịp thời cho nhau về nhiều mặt: LLVT, vũ khí, lương thực. Bên cạnh đó, các căn cứ còn thực hiện sự phối hợp, hiệp đồng tác chiến trong các cuộc chiến đấu chống lại các cuộc càn quét quy mô lớn của địch. Vì vậy, tính liên hoàn giữa các căn cứ là khá vững chắc và cho dù địch đánh phá hết sức ác liệt, các căn cứ vẫn khó có thể bị chia cắt, cô lập. Khác với Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ, 133

135 căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ được xây dựng trải rộng trên nhiều loại địa hình: vùng rừng núi, rừng núi giáp ranh đồng bằng, sông lạch. Trong quá trình kháng chiến chống Mỹ, chủ trương và cách thức tiến hành của Đảng là xây dựng hệ thống căn cứ liên hoàn giữa các vùng miền. Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động xây dựng căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ chưa thể bảo đảm được việc thực hiện vấn đề này một cách hoàn toàn vì một số lý do. Thứ nhất, hoạt động giao thông liên lạc giữa các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ được thực hiện trong điều kiện địa hình đa dạng, hiểm trở cùng với sự kiểm soát gắt gao của địch ở nhiều địa bàn là hết sức khó khăn. Do vậy, khi địch tập trung lực lượng đánh phá ở căn cứ này, việc di chuyển sang căn cứ khác để bảo tồn lực lượng không thể thuận lợi như ở Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ. Thứ hai, phần lớn các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ tập trung chủ yếu ở vùng rừng núi với quy mô vừa và nhỏ. Việc tiếp nhận sự chi viện của miền Bắc đối với các căn cứ cũng bị hạn chế hơn nhiều so với Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Do vậy, khả năng dự trữ về hậu cần không lớn. Địa hình hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn cũng ảnh hưởng đến khả năng hỗ trợ và phối hợp chiến đấu giữa các căn cứ khi bị địch đánh phá. Những yếu tố trên đã làm cho tính liên hoàn giữa các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ tương đối lỏng lẻo. Vì vậy, khi địch tập trung lực lượng đánh phá mạnh, phong tỏa từ nhiều hướng, các căn cứ dễ bị chia cắt, cô lập, khả năng nhận được sự hỗ trợ, chi viện từ bên ngoài rất khó khăn. Có những thời điểm, các căn cứ phải độc lập chiến đấu chống lại các cuộc càn quét, đánh phá của địch. Trong một số trường hợp, các lực lượng trụ bám phải lùi sâu vào các hang động, hốc đá, rừng già kín đáo để trú ẩn và đảm bảo an toàn. Tháng , địch tập trung lực lượng bao vây, phong tỏa, đánh phá Căn cứ Núi Bà (Bình Định) từ nhiều hướng. Các lực lượng trụ bám tại Núi Bà đã phải độc lập chiến đấu trong hàng tháng trời. Sau đó rút lui lên phía Tây để bảo toàn lực lượng. Tháng , địch bao vây Căn cứ Hòn Tàu (Quảng Đà) gần 1 tháng, các lực lượng trụ bám ở đây đã lùi dần vào các hang động, hốc đá, đồng thời họ phải độc lập chiến đấu trong điều kiện nguồn lương thực cạn kiệt, vũ khí thiếu thốn. Do khả năng dự trữ về hậu 134

136 cần của các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ không lớn nên nếu bị địch bao vây, phong tỏa dài ngày, cuộc sống và chiến đấu của quân dân ở đây là vô cùng gian khổ hơn nhiều so với các căn cứ ở Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Vì vậy, để bảo vệ các căn cứ, bên cạnh việc xây dựng LLVT đủ mạnh, một hệ thống bố phòng chặt chẽ, chuẩn bị một nguồn hậu cần dự trữ tương đối dồi dào để có đủ sức mạnh đối phó với các cuộc tấn công của địch, cần triển khai thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp để có thể bảo vệ căn cứ từ xa, đồng thời đảm bảo hệ thống thông tin liên lạc với các căn cứ và địa phương lân cận, kịp thời có sự hỗ trợ khi bị địch đánh phá. Thực tế này cũng góp phần làm phong phú thêm bức tranh đa dạng về quá trình xây dựng, bảo vệ căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vừa qua Vai trò của căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ Mặc dù chịu sự chi phối của điều kiện địa hình; thường xuyên có sự biến động; khả năng sản xuất tự cấp, tự túc còn hạn chế; hệ thống căn cứ dễ bị chia cắt, cô lập khi địch tập trung lực lượng đánh phá mạnh, song vượt lên trên những trở ngại này, căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ không những đã đứng vững trước nhiều cuộc tiến công càn quét, đánh phá của quân Mỹ, quân đồng minh và quân đội VNCH mà còn có nhiều đóng góp quan trọng đối với cuộc kháng chiến tại các địa phương nói riêng, sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc nói chung Nơi đứng chân và hoạt động của các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy kháng chiến của Khu V và các tỉnh trên địa bàn Các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trước hết là nơi đứng chân an toàn cho các cơ quan đầu não của Liên tỉnh II, Khu V, các tỉnh, các huyện trên địa bàn. Cơ quan Liên tỉnh II đứng chân ở vùng căn cứ địa cách mạng của Tỉnh ủy Bình Định. Mặc dù di chuyển trên nhiều địa bàn khác nhau như Tam Kỳ, Quế Sơn, Duy Xuyên, Phước Sơn, Hiên, Giằng nhưng trong những năm , , , các cơ quan Khu ủy và BTL Quân Khu V chủ yếu đứng chân ở Nước Oa, Nước Là thuộc vùng rừng núi Trà My (Quảng Nam). Từ 1973 đến 1975, cơ quan Khu ủy V chuyển về Căn cứ Phước Trà (Quảng Nam). 135

137 Ở cấp thành phố, cơ quan Thành ủy Đà Nẵng đóng ở Khu Sông Đà, Căn cứ K20. Ở cấp tỉnh, Căn cứ Sơn Cẩm Hà, Chiến khu Tiên Sơn là nơi đứng chân của Tỉnh ủy Quảng Nam. Căn cứ Hòn Tàu là nơi đóng cơ quan của Đặc khu ủy Quảng Đà. Khu II (Trà Bồng) là trung tâm căn cứ của Tỉnh ủy Quảng Ngãi. Ban chỉ đạo tiền phương và các cơ quan Tỉnh ủy Bình Định đóng cơ quan ở các Căn cứ Núi Bà, Hòn Chè (Phù Cát). Tỉnh ủy Phú Yên đứng chân ở Căn cứ Thồ Lồ Ma Dú (Đồng Xuân), Vân Hòa (Sơn Hòa) Ở cấp huyện, căn cứ của Huyện ủy Hòa Vang (Đà Nẵng) đóng tại thôn Phú Túc, xã Hòa Phú (Hòa Vang). Địa đạo Phú An (xã Đại Thắng, Đại Lộc, Quảng Nam) là căn cứ tiền phương của Đặc khu ủy Quảng Đà; đồng thời cũng là nơi đứng chân của Huyện ủy Đại Lộc. Đặc biệt, địa điểm này còn là nơi tiếp nhận các nguồn cán bộ và quân chủ lực từ hậu phương lớn bổ sung cho chiến trường; đồng thời là nơi làm việc và hội họp của Đặc khu ủy Quảng Đà, Khu ủy Khu V và Mặt trận 4 ( ). Đây cũng là nơi trú chân an toàn của các cán bộ lãnh đạo cao cấp: Võ Chí Công Bí thư Khu ủy Khu V, Chu Huy Mân Phó Bí thư Tư lệnh Quân khu V, Đoàn Khuê Phó Chính ủy Khu V, Nguyễn Chánh Tư lệnh Mặt trận 4 Quảng Đà, Giáp Văn Cương Thường vụ Đặc Khu ủy Phó Tư lệnh Tham mưu trưởng Mặt trận 4 cùng nhiều vị lãnh đạo, tướng lĩnh khác đã từng chiến đấu, công tác trên chiến trường Quảng Đà cũng có mặt tại đây. Huyện ủy Sơn Tịnh (Quảng Ngãi) đứng chân tại Căn cứ Vĩnh Tuy. Chiến khu Rừng Nà (Đức Thạnh, Mộ Đức, Quảng Ngãi) là nơi đóng cơ quan của Huyện ủy Mộ Đức. Các căn cứ Hòn Dồ, Hầm Hô là nơi đứng chân của Huyện ủy Tây Sơn (Bình Định). Thị ủy Tuy Hòa đóng cơ quan tại Căn cứ địa Đá Bàn Từ sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi, bên cạnh việc tái lập, duy trì các căn cứ từ thời kháng chiến chống Pháp, nhiều căn cứ địa mới tiếp tục được xây dựng, mở rộng và không ngừng phát triển về mọi mặt trong quá trình kháng chiến chống Mỹ. Từ những căn cứ riêng lẻ, dần dần phát triển thành mạng lưới rộng khắp, tạo thế liên hoàn, đảm bảo đáp ứng nhu cầu đóng trú, sinh hoạt, chiến đấu và bảo vệ cơ quan lãnh đạo, chỉ huy kháng chiến trên địa bàn. Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ là nơi đảm bảo sự liên lạc và tiếp nhận sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc; nơi diễn ra nhiều hội nghị đề ra 136

138 những chủ trương, quyết định quan trọng của cuộc kháng chiến. Tại Căn cứ Nước Là, Liên Khu ủy V đã đề ra những biện pháp triển khai Nghị quyết 15 của BCHTƯ Đảng. Nơi đây là địa điểm tập kết của nhiều cán bộ, LLVT từ miền Bắc vào trước khi được điều động về tham gia chiến đấu ở các địa phương. Hội nghị Liên khu ủy mở rộng tháng và Hội nghị Quân Khu ủy tháng được tổ chức tại Nước Là đã đề ra các chủ trương: phát động quần chúng ở miền núi chống càn quét, đẩy mạnh xây dựng LLVT ở cả 3 vùng chiến lược và đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích, xây dựng và mở rộng căn cứ địa, xây dựng các cơ quan: quân y, quân giới, các đơn vị sản xuất. Căn cứ Nước Oa là nơi diễn ra Đại hội Khu ủy lần thứ III. Tại đây, Khu uỷ và BTL Quân khu V tổ chức nhiều lớp tập huấn cho cán bộ các trung đoàn, sư đoàn, cán bộ các tỉnh trong toàn Khu về học tập nghị quyết của Đảng; đồng thời đề ra những nghị quyết quan trọng chỉ đạo hoạt động quân sự trong năm , quyết định mở các chiến dịch, các trận đánh của LLVT Quân khu V. Tháng , tại Căn cứ Phước Trà, trên tinh thần quán triệt Nghị quyết 21 của BCHTƯ Đảng nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên [88, tr. 232], Đại hội đại biểu Đảng bộ Khu V lần thứ III đã thảo luận và ra nghị quyết mở các chiến dịch lớn diệt địch, mở rộng vùng giải phóng trên các chiến trường từ Tây Nguyên đến đồng bằng, tạo thời cơ thuận lợi tiến đến giải phóng các tỉnh trong toàn Khu V. Những căn cứ địa cách mạng cấp tỉnh, thành phố, cấp huyện là nơi diễn ra các kỳ đại hội, hội nghị của các cấp ủy Đảng, nơi tổ chức học tập và triển khai thực hiện chủ trương, đường lối, kế hoạch chỉ đạo cuộc kháng chiến của Đảng đối với Trung Trung Bộ Là hậu phương tại chỗ, trực tiếp bảo đảm cung cấp sức người, sức của cho các lực lượng kháng chiến; nơi nhân dân gửi gắm niềm tin vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ là hậu phương tại chỗ, trực tiếp bảo đảm cung cấp sức người, sức của cho các lực lượng kháng chiến ở địa phương. Ở địa bàn miền núi Trung Trung Bộ, điều kiện giao thông hết sức khó khăn do địch thường xuyên đánh phá, phong tỏa. Các bến bãi thuộc bờ biển ở vùng đồng bằng bị 137

139 địch kiểm soát hết sức gắt gao. Do vậy, việc tiếp nhận sự chi viện của cấp trên cho địa bàn Trung Trung Bộ là hết sức khó khăn. Vượt qua những trở ngại này, các cấp ủy Đảng và chính quyền đã kiên cường bám đất, bám dân, chủ động, sáng tạo trong sản xuất và chiến đấu, xây dựng căn cứ địa cách mạng, dựa vào đó để đảm bảo duy trì và phát triển lực lượng kháng chiến. Quân dân các căn cứ tích cực tận dụng, khai thác những nguồn tài nguyên sẵn có trong tự nhiên để đáp ứng nhu cầu của đời sống và chiến đấu. Trong điều kiện vùng giải phóng còn nhỏ hẹp, vùng tranh chấp thường xuyên bị địch đánh phá ác liệt thì các căn cứ địa ở miền núi trở thành hậu phương tại chỗ, đảm bảo cung cấp một phần quan trọng nhu cầu về nhân lực, vật lực cho lực lượng kháng chiến. Để làm được điều này, quân và dân tại nhiều căn cứ địa đã chủ động đẩy mạnh hoạt động tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế, coi đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng để tăng cường tiềm lực căn cứ địa. Bên cạnh việc khai thác các sản phẩm sẵn có trong tự nhiên: thịt thú rừng, cá, tôm, các loại rau, củ Nhiều cơ quan, đơn vị và nhân dân còn tích cực khai phá đất đai ở những khu vực thung lũng, sườn đồi, núi để trồng các loại cây lương thực: lúa, ngô, khoai, sắn đồng thời chăn nuôi thêm một số loại gia súc, gia cầm: trâu, bò, dê, lợn, gà; tận dụng nguyên vật liệu tại chỗ để xây dựng nhà cửa, lán trại, chế tạo vũ khí thô sơ: chông, thò, cung, nỏ Nguồn dược liệu quý từ rừng được khai thác, chế biến để phục vụ hoạt động y tế. Sau Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, một số căn cứ ở miền núi như: Hiên, Sơn Tây, Vĩnh Thạnh, Thồ Lồ, Vân Hòa là nơi phong trào thi đua sản xuất diễn ra sôi nổi, nguồn lương thực, thực phẩm không những đáp ứng đủ nhu cầu tại chỗ mà còn có dự trữ. Được sự hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật, năng suất và sản lượng lương thực của đồng bào các dân tộc đã được cải thiện đáng kể. Nhờ sự chủ động trong xây dựng nền kinh tế kháng chiến, các căn cứ địa không những đã giải quyết được nhu cầu tại chỗ mà còn tích cực đóng góp cho kháng chiến. Nhân dân căn cứ địa ở Trung Trung Bộ vừa đẩy mạnh sản xuất, ủng hộ lương thực cho kháng chiến, vừa hăng hái đi dân công phục vụ chiến trường, thực hiện hoạt động phòng gian bảo mật, phối hợp chiến đấu đánh địch bảo vệ căn cứ, tham gia LLVT; đặc biệt 138

140 là tham gia phục vụ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Ở vùng đồng bằng, các cơ sở chính trị, căn cứ lõm ở đô thị tuy không phải là nơi trực tiếp sản xuất tự cấp tự túc nhưng là nơi tổ chức quyên góp ủng hộ kháng chiến từ các tầng lớp nhân dân trong vùng địch kiểm soát, nơi vận động, tổ chức đưa thanh niên thoát ly tham gia kháng chiến. Thông qua phong trào đóng quỹ nuôi quân, hũ gạo tiết kiệm, các đường dây tiếp tế, nhân dân vùng địch đã tích cực tham gia ủng hộ kháng chiến. Đây cũng là nguồn lực quan trọng tiếp thêm sức mạnh cho căn cứ địa. Bên cạnh những đóng góp về nhân lực, vật lực cho kháng chiến, căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ còn là điểm tựa tinh thần, là nơi gửi gắm niềm tin của nhân dân vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Sự ra đời và lớn mạnh của các căn cứ địa cách mạng gắn liền với sự thay đổi cục diện chiến trường và sự phát triển của cuộc kháng chiến. Căn cứ địa cách mạng trở thành biểu tượng cho ý chí, sức mạnh của chiến tranh cách mạng, của tinh thần yêu nước, chống xâm lược của quân và dân Trung Trung Bộ. Căn cứ địa cách mạng là chỗ dựa về chính trị, tinh thần, là nơi để đồng bào các dân tộc hướng về Đảng, Bác Hồ, củng cố niềm tin vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, tích cực tham gia kháng chiến Là bàn đạp xuất phát tiến công của các LLVT tổ chức các chiến dịch, trận đánh tiêu hao sinh lực địch và phát triển chiến tranh du kích Để tổ chức các chiến dịch, trận đánh lớn tấn công vào sào huyệt của địch, các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy kháng chiến và LLVT cần phải có đất đứng chân an toàn. Nơi đó chính là căn cứ địa cách mạng. Căn cứ là địa bàn chuẩn bị về hậu cần và LLVT cho các trận đánh tiến công quân địch ở bên ngoài. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, mọi công tác chuẩn bị từ lực lượng chính trị, LLVT, cho đến việc vận chuyển vũ khí, tài liệu, truyền đạt mệnh lệnh tổng tiến công và nổi dậy, phân công các đồng chí dẫn đường cho LLVT đều được chuẩn bị tại Căn cứ K20. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, tại Căn cứ Hòn Tàu, Đặc khu ủy Quảng Đà đã vạch kế hoạch tấn công và nổi dậy giải phóng Đà Nẵng; đồng thời tổ chức và phân công các mũi tấn công về giải phóng thành phố. 139

141 Tại Căn cứ Tiên Sơn, tháng , Tỉnh ủy Quảng Nam chỉ đạo bộ đội địa phương phối hợp với quân chủ lực đập tan Chi khu quận lỵ Tiên Phước Phước Lâm, từ đó tiến về giải phóng thị xã Tam Kỳ, tỉnh lỵ Quảng Tín, tạo thế bao vây cô lập Đà Nẵng, góp phần vào thắng lợi của chiến dịch giải phóng thành phố này. Trên cơ sở sự chuẩn bị về hậu cần và LLVT, căn cứ địa trở thành bàn đạp xuất phát tiến công của các LLVT, tổ chức các chiến dịch, trận đánh tiêu hao sinh lực địch và phát triển chiến tranh du kích. Từ căn cứ, LLVT tiến công vào các cứ điểm, đồn bốt của địch. Đêm ngày 26, rạng ngày , xuất phát từ Khu Sông Đà, một đơn vị đặc công đánh thủy tổ chức đánh chiếc tàu US.LST550 của Mỹ trên sông Hàn ngay khi địch chưa kịp bốc dỡ hàng hóa. Tháng , trong trận tập kích vào sân bay Nước Mặn, Căn cứ K20 trở thành điểm ém quân và xuất phát an toàn của Tiểu đoàn đặc công 489. Từ trung tuần tháng , Căn cứ Sơn Cẩm Hà đóng vai trò bàn đạp để Sư đoàn 2 thuộc LLVT Quân khu V mở trận tấn công chi khu quận lỵ Hiệp Đức. Trong những năm sau này, Sư đoàn 2 cũng luôn lấy Sơn Cẩm Hà làm bàn đạp để mở các chiến dịch tiến công hoặc những đợt hoạt động hỗ trợ phong trào đấu tranh của quần chúng ở các huyện Hiệp Đức, Quế Sơn, Thăng Bình, Bắc Tam Kỳ, Tiên Phước. Hơn thế nữa, Sơn Cẩm Hà còn là căn cứ địa, hậu phương và bàn đạp cho các tiểu đoàn tập trung của tỉnh Quảng Nam trong hoạt động chiến đấu suốt những năm kháng chiến chống Mỹ. Chiến khu Vĩnh Sơn là nơi trú quân của các LLVT để tổ chức hai trận đánh lịch sử: Ba Gia (5-1965) và Vạn Tường (8-1965). Từ Căn cứ Núi Bà, hai tiểu đoàn của Trung đoàn 12 Sư đoàn 3 Sao Vàng tiến về giải phóng quận lỵ Tuy Phước vào ngày Từ những vị trí ém quân ở Căn cứ lõm Liên Trì, Ninh Tịnh (Thị xã Tuy Hòa), Đại đội đặc công 202 xuất kích đánh vào Trung đoàn 47 quân đội VNCH, Khu cố vấn Mỹ và Tỉnh đường Phú Yên trong đêm 30 Tết Mậu Thân Trong chiến dịch Thu năm 1972, các tiểu đoàn 70, 72, 74 và Sở chỉ huy tiền phương của tỉnh Quảng Nam đã tập kết lực lượng tại Căn cứ lõm Bầu Bính, sau đó tiến công tiêu diệt các chốt điểm của địch ở Mù U, Cù Đồi, giải phóng xã Bình Dương, huyện Thăng Bình. 140

142 Bên cạnh đó, các căn cứ còn là địa bàn để lực lượng kháng chiến phát triển mạnh mẽ chiến tranh du kích. Để đối phó với những cuộc càn quét của địch, bảo vệ căn cứ địa, lực lượng du kích phối hợp cùng LLVT sử dụng hầm chông, bẫy đá tổ chức mai phục, đánh và tiêu hao nhiều bộ phận sinh lực địch. Điển hình là các cuộc tấn công quy mô lớn của địch vào Mật khu Đỗ Xá trong năm 1962, 1963 đều bị lực lượng du kích và bộ đội chủ lực bẻ gãy, hàng chục máy bay địch bị bắn rơi Là nơi tiếp nhận sự chi viện bằng đường bộ, đường biển cho chiến trường Khu V, góp phần hình thành thế bao vây chia cắt, trực tiếp uy hiếp lực lượng của địch ở Trung Trung Bộ Trong kháng chiến chống Mỹ, các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ được xây dựng nằm trên tuyến hành lang chiến lược Bắc Nam, nơi các tuyến giao thông chi viện bằng đường bộ và đường biển đi qua, nơi tiếp nhận và vận chuyển nguồn hàng chi viện từ hậu phương lớn miền Bắc vào. Phần lớn các căn cứ địa nằm trên tuyến hành lang chiến lược H50 và hành lang chiến lược của Trung ương. Tuyến đường Hồ Chí Minh trên bộ dài trên 400 km nối liền các tỉnh Quảng Đà, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Đắc Lắc đi qua căn cứ huyện Hiên (Quảng Nam), Sơn Tây, Trà Bồng (Quảng Ngãi). Tuyến vận chuyển Bắc Nam trên biển đi qua các căn cứ: Khu Sông Đà (Đà Nẵng), Đức Phổ (Quảng Ngãi), Lộ Diêu (Bình Định), Vũng Rô (Phú Yên). Vì vậy, ngoài nhiệm vụ hậu phương tại chỗ cho cuộc kháng chiến tại địa phương, các căn cứ địa còn là nơi tiếp nhận và trung chuyển nguồn chi viện của Trung ương cho những tỉnh bạn. Một khối lượng lớn hàng hóa, vũ khí, cán bộ, bộ đội từ miền Bắc vào chi viện cho Khu V, Tây Nguyên, Nam Bộ được chuyển qua các tuyến đường vận chuyển của Trung Trung Bộ. Hệ thống căn cứ địa có vai trò trong việc duy trì và bảo vệ an toàn tuyến hành lang chiến lược Bắc Nam đi qua địa bàn các tỉnh Trung Trung Bộ. Để đảm nhận vai trò này, hầu hết các căn cứ đều có lực lượng chuyên trách tham gia bảo vệ đường hành lang, các trạm giao liên, vận chuyển phục vụ đường hành lang. Hoạt động tiếp nhận sự chi viện hàng hóa từ miền Bắc vào Khu V được thực hiện từ rất sớm. Ngay từ chuyến đi đầu tiên vào cuối năm 1955, Tập đoàn đánh cá 141

143 Sông Đà đã mang vào Khu V một số tài liệu của Trung ương để chỉ đạo phong trào cách mạng cùng với đồng tiền VNCH, 2 chiếc máy chữ, nhiều thuốc men, vải vóc [150, tr. 258]. Sau khi Nghị quyết 15 của BCHTƯ Đảng ra đời, ngoài nhiệm vụ vận chuyển người, tài liệu, các thuyền của Tập đoàn đánh cá Sông Đà còn chuyên chở vũ khí, đạn dược cho các chiến trường từ những căn cứ ở ven biển Khu V vào đến Đông Nam Bộ. Bước vào giai đoạn chống chiến lược Chiến tranh đặc biệt, yêu cầu về vũ khí, hàng hóa cho chiến trường Khu V rất lớn và cấp thiết. Để đưa hàng chi viện theo đường biển vào các bến ở Khu V, Trung ương đã chỉ đạo cho Liên tỉnh III và các địa phương chuẩn bị những điều kiện về bến bãi, nhân lực, phương tiện vận chuyển, xây dựng địa bàn để tiếp nhận, bảo vệ hàng hóa. Năm 1964, bến Lộ Diêu (Bình Định) được chọn là nơi tiếp nhận hàng chi viện từ các tàu Không số. Đây là bãi ngang thuộc thôn Lộ Diêu, xã Hoài Mỹ, huyện Hoài Nhơn (Bình Định). Khu vực này có địa thế biệt lập với một mặt giáp biển và ba mặt giáp núi. Ở hai đầu thôn có đèo Lộ Diêu (xã Hoài Mỹ, huyện Hoài Nhơn). Phía Nam là đèo Hà Ra, một địa bàn thuộc vùng giải phóng của xã Mỹ Đức, huyện Phù Mỹ, nơi có tổ chức Đảng, các đoàn thể quần chúng phát triển mạnh. Với những đặc điểm trên, bến Lộ Diêu hội đủ các điều kiện để tàu Không số cập bến. Đêm , Tàu 401 chở 33 tấn vũ khí vào bến Lộ Diêu. Tranh thủ thời gian ngay trong đêm, lực lượng du kích và dân quân nhanh chóng chuyển vũ khí lên bờ và cất giấu ở nơi an toàn. Sau chuyến mở đường, theo báo cáo của Đại tá Trương Thái Ất, nguyên chủ nhiệm Chính trị Đoàn 125, cho đến năm 1971, tổng cộng có 3 chuyến tàu Không số vào Bình Định với số hàng hóa là 89 tấn [129, tr. 234]. Bến thứ hai là Vũng Rô (Phú Yên), một trong những bến quan trọng thực hiện nhiệm vụ tiếp nhận chi viện của Trung ương. Đây là vùng biển tương đối sâu nằm trong địa phận xã Hòa Xuân Nam, huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Phía Bắc giáp dãy núi Đá Bia cao 706 m. Phía Nam giáp Hòn Nưa. Phía Tây giáp dãy đèo Cả, Quốc lộ 1A và đường sắt. Phía Đông có mũi Điện (còn gọi là Mũi Nạy). Với ba mặt được bao bọc bởi núi, vịnh Vũng Rô là khu vực khá kín đáo. Núi Đá Bia và Mũi Điện là 142

144 những mục tiêu định hướng, chỉ đường rất thuận lợi cho tàu khi xác định điểm chuyển hướng để vào bến. Địa hình Vũng Rô vừa có núi non hiểm trở bao bọc, lại có nhiều hang, gộp đá rất thuận tiện cho việc xây dựng căn cứ tiếp nhận và cất giấu tạm thời chờ vận chuyển về vùng giải phóng. Hơn thế nữa, ngoài việc huy động dân công vận chuyển bằng đường bộ, ở đây còn có thể sử dụng thuyền của ngư dân để vận chuyển hàng hóa theo cửa sông Đà Nông để lên phía Tây đường quốc lộ. Bên cạnh đó, địa bàn Vũng Rô cũng là nơi tiếp giáp vùng giải phóng rộng lớn bao gồm các xã Hòa Hiệp, Hòa Xuân. Lực lượng du kích và dân quân ở đây khá mạnh. Tuy nhiên, ngoài những yếu tố thuận lợi kể trên, Vũng Rô có một số hạn chế như: Khu vực bến nằm sát quốc lộ 1A, đường sắt, đường hàng không Bắc Nam, thường xuyên có phương tiện đi lại, địch dễ phát hiện; địa hình trống trải không có kênh rạch cây cối um tùm để cất giấu khi tàu cần lưu lại bốc hàng; cửa vào vịnh Vũng Rô là cửa độc đạo giữa Hòn Nưa và Mũi Điện, nếu địch phát hiện án ngữ cửa vịnh thì tàu Không số khó thoát ra Biển Đông. Trên cơ sở đánh giá các yếu tố thuận lợi và khó khăn nêu trên, Hội nghị Ban Thường vụ Liên Tỉnh ủy III và Phân khu Nam quyết định chọn Vũng Rô làm căn cứ để đón tàu của miền Bắc vào chi viện cho Khu V. Trong kháng chiến chống Mỹ, từ cuối 1964 đến đầu năm 1965 đã có bốn chuyến tàu cập bến Vũng Rô, trong đó có ba chuyến thành công, một chuyến bị địch phát hiện (Tàu 143). Sau sự kiện Tàu 143 ở Vũng Rô bị phát hiện, địch tăng cường hoạt động tuần tiễu, phong tỏa Biển Đông. Vượt qua thời điểm khó khăn này, các tàu Không số vẫn tiếp tục những chuyến hàng vào Nam. Cuối năm 1966, Tàu 41 chở 59 tấn vũ khí vào bến Phổ An, Đức Phổ (Quảng Ngãi). Những năm sau đó, các bến Lộ Diêu (Bình Định), Phổ An, Đức Phổ (Quảng Ngãi) tiếp tục là điểm đến của các tàu Không số. Mặc dù có một số chuyến cập bến không thành công nhưng nhờ đó, các địa phương có điều kiện tiếp nhận số lượng đáng kể vũ khí, hàng hóa đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến. Bên cạnh các bến bãi đảm nhận nhiệm vụ tiếp nhận sự chi viện từ miền Bắc, các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ còn là nơi có nhiều kho tàng thực hiện việc bảo quản, trung chuyển vũ khí, hàng hóa cho các địa phương ở Khu V. Điều này góp 143

145 phần tăng cường thực lực cho các căn cứ, hỗ trợ phong trào cách mạng ở các địa phương. Những bến bãi như: Khu Sông Đà, Lộ Diêu, Vũng Rô, Phổ An đã tồn tại và hoạt động ngay trên chính địa bàn mà địch đang trực tiếp kiểm soát. Thực tế này cũng tạo nên một thế tiến công chiến lược mới cho lực lượng cách mạng, thực sự uy hiếp trực tiếp đối với lực lượng địch ở Trung Trung Bộ Một số bài học kinh nghiệm Xây dựng căn cứ địa cách mạng phải chú trọng đặc điểm địa chính trị, địa quân sự, địa kinh tế, địa văn hoá của địa phương Về đặc điểm địa chính trị, Trung Trung Bộ là vùng đất luôn đi đầu trên trận tuyến chống xâm lược, là nơi mở đầu các phong trào yêu nước và tiếp nhận từ rất sớm những hệ tư tưởng tiến bộ của thời đại. Trải qua quá trình lịch sử, truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất trong đấu tranh chống áp bức, bất công, chống xâm lược đã trở thành đặc điểm địa chính trị nổi bật của vùng đất này. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, truyền thống này tiếp tục được phát huy mạnh mẽ trong các cao trào cách mạng , , và đỉnh cao là cuộc Tổng khởi giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm Với đặc điểm địa chính trị nêu trên, Trung Trung Bộ hội đủ yếu tố nhân hòa cho việc xây dựng, mở rộng và phát triển các căn cứ địa. Về đặc điểm địa quân sự, Trung Trung Bộ có vị trí chiến lược quan trọng ở khu vực miền Trung, là cửa ngõ từ Biển Đông vào Tây Nguyên và Đông Dương; là đầu mối giao thông và là cầu nối đi các chiến trường trong cả nước. Đặc biệt, địa bàn rừng núi Trung Trung Bộ là nơi tiến có thể công, thoái có thế thủ, thuận lợi cho hoạt động chiến tranh nhân dân. Quân dân các địa phương đã biết tận dụng triệt để lợi thế này để xây dựng nơi đây thành các căn cứ địa cách mạng. Trong quá trình kháng chiến, địa bàn rừng núi các tỉnh Quảng Nam, Quảng Đà, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên trở thành nơi tổ chức, xây dựng LLVT, chuẩn bị điều kiện cần thiết để LLVT tiến về đồng bằng, mở rộng vùng làm chủ. Với việc xây dựng hệ thống các căn cứ địa cách mạng ở miền rừng núi trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lực lượng cách mạng đã làm chủ 3/4 diện tích đất đai trên toàn địa bàn Trung Trung Bộ, tạo thế bao vây khiến cho địch co cụm về đồng bằng, ven đô. Về đặc điểm địa kinh tế, tuy địa bàn này còn nghèo nàn, lạc hậu nhưng trên 144

146 cơ sở tận dụng đất đai, sản vật sẵn có trong tự nhiên, quân dân Trung Trung Bộ có thể chủ động tổ chức sản xuất để giải quyết một phần nhu cầu đời sống cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân. Hầu hết các căn cứ địa đều triển khai có hiệu quả hoạt động tăng gia sản xuất. Mặc dù hoạt động sản xuất kinh tế ở miền núi còn hạn chế nhưng điều quan trọng là đã góp phần giảm bớt gánh nặng chi viện của Trung ương. Việc phát triển kinh tế tự túc, tự cấp ở các căn cứ miền núi là hoạt động có ý nghĩa thiết thực nhằm tận dụng, khai thác những ưu thế về địa kinh tế của vùng rừng núi trong xây dựng, phát triển căn cứ địa. Nhờ đó, cho dù địch đánh phá ác liệt, thực hiện bao vây phong tỏa về kinh tế, các căn cứ vẫn đứng vững và phát huy vai trò đối với cuộc kháng chiến tại địa bàn. Khác với miền núi, ở vùng đồng bằng, hoạt động sản xuất của nhân dân tương đối thuận lợi, sản lượng lương thực có phần dồi dào hơn, các loại hàng hóa phong phú hơn. Việc khai thác tối đa nguồn lợi kinh tế ở đồng bằng để phục vụ cho kháng chiến là yêu cầu tất yếu. Các căn cứ du kích, căn cứ lõm vừa là nơi trực tiếp sản xuất, vừa là nơi thu hút, động viên cao nhất sự đóng góp về kinh tế của nhân dân cho kháng chiến. Một cách khái quát, đặc điểm địa kinh tế ở Trung Trung Bộ về cơ bản đảm bảo đáp ứng được yêu cầu xây dựng hệ thống căn cứ địa cách mạng. Về đặc điểm địa văn hóa, như đã phân tích ở phần trên, căn cứ địa ở Trung Trung Bộ chủ yếu được xây dựng ở miền rừng núi. Đây là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc với sự đa dạng về văn hóa. Tuy nhiên, trong sự đa dạng đó vẫn có những nét tương đồng về văn hóa giữa các dân tộc. Sự tương đồng biểu hiện ở truyền thống đoàn kết, tính cộng đồng; tinh thần yêu chuộng tự do, dũng cảm đấu tranh chống cường quyền áp bức và khả năng bền bỉ chịu đựng gian khó. Từ những nét tương đồng đó, qua sự tuyên truyền, giác ngộ của Đảng, đồng bào các dân tộc hăng hái tham gia xây dựng các làng bí mật, lập cứ, đấu tranh chống địch dồn dân, trở thành chỗ dựa quan trọng trong hoạt động xây dựng và bảo vệ căn cứ địa cách mạng. Tóm lại, dựa vào đặc điểm địa chính trị, địa quân sự, địa kinh tế, địa văn hoá của địa phương, quân dân Trung Trung Bộ đã biết khai thác hiệu quả để xây dựng hệ thống căn cứ địa cách mạng một cách phù hợp. Nhờ đó, các căn cứ địa 145

147 đã không ngừng phát triển lớn mạnh và phát huy vai trò đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước tại địa phương Phát huy vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân trong quá trình xây dựng và bảo vệ căn cứ địa cách mạng Trong quá trình kháng chiến, sự ra đời và phát triển của các căn cứ địa cách mạng luôn gắn liền với vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân. Nơi nào tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân mạnh thì nơi ấy huy động được nguồn lực đóng góp cho kháng chiến càng nhiều. Do vậy, việc phát huy vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân trong quá trình xây dựng và bảo vệ căn cứ địa cách mạng là vấn đề hết sức quan trọng nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển của căn cứ địa cách mạng. Để phát huy được vai trò lãnh đạo, tổ chức Đảng phải được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Trong điều kiện chiến tranh ác liệt, việc học tập các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, việc triển khai các đợt chỉnh huấn đối với các tổ chức Đảng và đảng viên được thực hiện một cách nghiêm túc theo sự chỉ đạo của Khu ủy V. Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nên tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên của Đảng đều tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, hết lòng phụng sự nhân dân, được nhân dân tin yêu. Nhiều tấm gương chiến đấu bền bỉ, hy sinh anh dũng của cán bộ, đảng viên đã làm tăng thêm lòng tin yêu của nhân dân đối với Đảng. Cán bộ, đảng viên của Đảng, đặc biệt là các đồng chí lãnh đạo chủ chốt luôn bám sát địa bàn, dựa vào dân, tận tụy chiến đấu hy sinh vì nhân dân. Đa số cán bộ, đảng viên của Đảng phát huy được vai trò là lực lượng tiên phong, gương mẫu trong mọi hoạt động. Những biểu hiện sai lệch về tư tưởng của một phận cán bộ, đảng viên trong tổ chức Đảng được chấn chỉnh kịp thời. Trong công tác cán bộ, tổ chức Đảng đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ tại chỗ. Từ đầu năm 1959, tại Căn cứ Vĩnh Thạnh đã mở lớp huấn luyện tập trung đầu tiên cho gần 60 nam nữ thanh niên ưu tú để đào tạo cán bộ cơ sở [8, tr. 151]. Năm 1974, căn cứ địa miền núi Quảng Đà cử 32 đồng chí đi học trường Đảng tỉnh, khu; 87 đồng chí đi học các lớp bổ túc văn hóa, cán bộ trường tỉnh, 146

148 huyện [144, tr. 6]. Khu V, các tỉnh liên tục mở các lớp bồi dưỡng, huấn luyện cho hàng ngàn cán bộ, đảng viên. Nhờ đó, đã tạo được nguồn cán bộ đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của cuộc kháng chiến; đồng thời bổ sung cho LLVT. Ở căn cứ địa, tổ chức Đảng, đảng viên thực sự trở thành trung tâm đoàn kết các dân tộc, các tầng lớp xã hội. Sự tiên phong, gương mẫu của cán bộ đảng viên trong hoạt động xây dựng và bảo vệ căn cứ, trong các phong trào thi đua sản xuất và chiến đấu đã lôi cuốn, động viên các tầng lớp nhân dân căn cứ địa nỗ lực, tự cường vượt lên mọi gian khổ, hy sinh hăng hái tham gia kháng chiến. Bên cạnh công tác xây dựng Đảng, vấn đề xây dựng chính quyền nhân dân là một trong những nhiệm vụ căn bản của các căn cứ địa. Chính quyền phải thật sự vững mạnh, được nhân dân ủng hộ mới đủ sức điều hành, quản lý mọi mặt đời sống, xã hội, mới có khả năng huy động nhân tài, vật lực cho kháng chiến. Ở nhiều nơi, chính quyền tự quản của nhân dân được thành lập ngay từ khi căn cứ địa mới được hình thành. Từ năm 1956, chính quyền tự quản của nhân dân được thành lập ở Căn cứ địa Thồ Lồ (Phú Yên). Tháng , Ủy ban nhân dân tự quản xã đầu tiên được thành lập ở xã Trà Phong (Căn cứ Trà Bồng) [63, tr. 75]. Hệ thống chính quyền nhân dân được thành lập tùy theo quy mô của các căn cứ địa cách mạng. Có căn cứ thành lập được chính quyền cấp xã, thôn, huyện như: Căn cứ Quế Tiên (Quảng Nam), Căn cứ Trà Bồng (Quảng Ngãi), Căn cứ Vĩnh Thạnh (Bình Định), Căn cứ Tây Nam (Phú Yên) Có căn cứ thành lập được chính quyền nhân dân từ cấp tỉnh, huyện đến xã thôn như Căn cứ Vân Hòa (Phú Yên) Chính quyền nhân dân đã thực sự phát huy vai trò trong việc tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, tổ chức các hoạt động sản xuất, xây dựng đời sống mới, huy động đóng góp nghĩa vụ nuôi quân, giữ gìn trật tự an ninh căn cứ địa, động viên lực lượng tham gia dân công và LLVT. Được sự quan tâm của Đảng, chính quyền, từ sau sự ra đời của MTDTGPMN Việt Nam, ở nhiều căn cứ, các đoàn thể nhân dân như: MTDTGP, Đoàn Thanh niên nhân dân cách mạng, Hội phụ nữ giải phóng, Hội Phụ lão được thành lập và phát triển rộng khắp. Các tổ chức đoàn thể có vai trò tích cực trong việc đoàn kết các tầng lớp nhân dân; tuyên truyền, giáo dục, động viên nhân dân chấp hành đường lối, 147

149 chính sách của Đảng, hăng hái tham gia đóng góp cho kháng chiến: chế tạo vũ khí thô sơ, đi dân công làm đường, nộp thuế đảm phụ, tham gia tòng quân nhập ngũ Tăng cường xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chủ trương của Trung ương Đảng đối với việc giải quyết vấn đề dân tộc ở miền Nam là: Cách mạng miền Nam phải có chính sách đúng đắn đối với các dân tộc ít người để phá âm mưu xây dựng căn cứ của địch, phá chính sách chia rẽ dân tộc của địch để mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất ở miền Nam, để xây dựng căn cứ cách mạng của nhân dân miền Nam [162, tr. 7]. Chủ trương đó xuất phát từ thực tế phần lớn căn cứ địa ở Trung Trung Bộ được xây dựng ở miền rừng núi nơi có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống. Vì vậy, các cấp ủy Đảng, chính quyền, LLVT tại các căn cứ đã chú trọng thực hiện các vấn đề: Thứ nhất, trên tinh thần quán triệt chủ trương của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam về việc thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc, tôn trọng tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng, thực hiện bình đẳng giữa các tôn giáo [9, tr. 431], trong quá trình vận động đồng bào các dân tộc tham gia hoạt động xây dựng và bảo vệ căn cứ, cán bộ đảng viên luôn tôn trọng phong tục tập quán, tự do tín ngưỡng của nhân dân. Trong quan hệ giữa các dân tộc, cán bộ chú trọng đẩy mạnh tuyên truyền vận động, xây dựng quan hệ bình đẳng, xóa bỏ sự kỳ thị giữa các dân tộc, tăng cường sự hợp tác, tương trợ, tình đoàn kết trong nội bộ các dân tộc, giữa các dân tộc. Khi địch thực hiện thủ đoạn chia rẽ các dân tộc, cán bộ luôn luôn lấy đoàn kết dân tộc làm trọng, xem Kinh Thượng là anh em một nhà, lấy chân lý Không có gì quý hơn độc lập tự do và lý tưởng Đất nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một của Chủ tịch Hồ Chí Minh là mục tiêu [18, tr. 180]. Nhờ đó, đã đập tan những âm mưu thủ đoạn chống phá của các thế lực phản động, tăng cường tình đoàn kết giữa các dân tộc cùng chung sống trong các căn cứ, củng cố niềm tin của đồng bào vào chính sách dân tộc của Đảng. Thứ hai, tranh thủ lôi kéo các tầng lớp bên trên người dân tộc và những người làm việc trong bộ máy của địch ở các thôn, xã. Cán bộ vận động các già làng, 148

150 trưởng bản đồng tình với các cuộc đấu tranh của quần chúng. Lực lượng này đã phát huy vai trò tích cực trong việc thuyết phục, động viên đồng bào tham gia đấu tranh chống địch dồn dân, xây dựng và bảo vệ các căn cứ: B1 (Quảng Nam), Vĩnh Thạnh (Bình Định), Thồ Lồ (Phú Yên) Bên cạnh đó, nhằm tăng cường, củng cố khối đoàn kết dân tộc, các căn cứ còn mời họ tham gia vào Ủy ban nhân dân tự quản, tổ chức mặt trận ở xã, huyện Tháng , một nhân sĩ người dân tộc Cor được bầu làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân tự quản huyện Trà Bồng [63, tr.100]. Đối với những người làm việc trong bộ máy của địch thì vận động, xây dựng họ thành cơ sở cách mạng, biến chính quyền cơ sở của địch thành chính quyền hai mặt, bên ngoài là của địch, bên trong do lực lượng cách mạng nắm. Tại Căn cứ K20 (Đà Nẵng), ngay trong ấp chiến lược Xóm Mới, lực lượng kháng chiến vẫn xây dựng được cơ sở mật. Ở các làng Mỹ Thị, Đa Mỹ, Nước Mặn, Xóm Cát... Tuy bên ngoài là tổ chức chính quyền địch quản lý, nhưng bên trong ta xây dựng được tổ chức Đảng, thành lập các tiểu đội du kích, các đoàn thể quần chúng. Thứ ba, các cấp ủy Đảng, chính quyền luôn chăm lo nâng cao đời sống mọi mặt cho đồng bào các dân tộc. Đây là việc làm hết sức thiết thực, một trong những nội dung quan trọng trong chính sách dân tộc của Đảng, nhất là tại các căn cứ địa miền núi. Thực tế hoạt động xây dựng căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ đã chỉ ra rằng, có đem lại những lợi ích cụ thể trong đời sống các dân tộc, cách mạng mới có thể tạo dựng được niềm tin của đồng bào, mới có thể huy động tập hợp, đoàn kết được các lực lượng dân tộc. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cho đến những năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, đời sống của đa số đồng bào các dân tộc miền núi Trung Trung Bộ còn hết sức khó khăn, lạc hậu. Vì vậy, việc từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào, tạo điều kiện cho sự phát triển bình đẳng giữa các dân tộc đã trở thành mục tiêu quan trọng mà các cấp ủy Đảng, chính quyền ở các căn cứ hướng đến. Đây cũng là cách làm thiết thực nhất để củng cố niềm tin của người dân đối với chính sách dân tộc của Đảng, tạo động lực để đồng bào hăng hái đứng lên đoàn kết đấu tranh chống xâm lược. Hơn nữa, việc nâng cao đời sống vật 149

151 chất và tinh thần cho đồng bào còn có ý nghĩa bồi dưỡng sức dân, củng cố thực lực cách mạng cho các căn cứ địa. Phát triển kinh tế là một trong vấn đề cơ bản nhằm từng bước nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc. Ở nhiều căn cứ, được sự hướng dẫn của cán bộ, đồng bào các dân tộc hăng hái khai thác đất đai, tổ chức lao động sản xuất, cải tiến cách thức sản xuất như: thực hiện vòng công hợp tác, làm rẫy kết hợp trồng lúa nước ở những địa bàn thuận lợi, phát triển chăn nuôi, tăng cường trồng các loại cây màu Nhờ đó, các căn cứ địa không những đã giải quyết được nạn đói kinh niên trước đó mà còn có dự trữ, đóng góp nghĩa vụ và bán cho chính quyền cách mạng. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn cả là cách thức sản xuất mới đã làm thay đổi tập quán canh tác lạc hậu, tạo điều kiện cho việc hình thành quan hệ sản xuất mới, xây dựng không khí mới trong hoạt động sản xuất và phát triển kinh tế ở miền núi. Đi đôi với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, nhiều chính sách tiến bộ về chính trị, văn hóa cũng được thực thi bao gồm: tổ chức cho nhân dân tham gia bầu chính quyền tự quản ở xã, thôn; tổ chức phong trào bình dân học vụ xóa nạn mù chữ, vận động nhân dân từng bước xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, hướng dẫn xây dựng đời sống văn hóa mới tiến bộ Tất cả những việc làm này đã làm thay đổi căn bản đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc tại các căn cứ địa. Từ cuộc sống nghèo khổ, lạc hậu, phụ thuộc vào tự nhiên và người đứng đầu các làng bản, tộc họ, đồng bào vươn lên làm chủ bản làng, rừng núi, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trong quan hệ với các dân tộc xung quanh. Một cuộc sống mới được hình thành trên tinh thần tự do lao động sản xuất, đoàn kết, tương trợ, hợp tác diễn ra ở nhiều làng bản. Những đổi thay này thực sự mang lại niềm tin tưởng lớn lao cho đồng bào đối với sự lãnh đạo của Đảng. Chính niềm tin ấy đã cổ vũ đồng bào gắn bó chặt chẽ với căn cứ địa, hết lòng đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến. Thứ tư, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc. Đây là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong chính sách dân tộc của Đảng. Đồng bào dân tộc luôn tự hào, tin tưởng về người đại biểu của dân tộc mình, đặc biệt là đối với những cán bộ người dân tộc đã được Đảng bồi dưỡng, đào tạo. Chính cán bộ người dân tộc mới am hiểu về địa bàn, phong tục tập quán, tâm lý, nguyện vọng của đồng bào mình, dễ 150

152 truyền đạt, vận động họ tham gia xây dựng và bảo vệ căn cứ địa. Từ sau khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi, người dân tộc Cor tham gia vào ban lãnh đạo tỉnh. Đến Đại hội lần thứ nhất của Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (2-1960), trong tổng số 17 người được bầu vào ban lãnh đạo tỉnh có 3 người dân tộc Hrê, 2 người dân tộc Cor tham gia [63, tr. 106]. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc, tạo điều kiện để họ làm việc, cống hiến cho địa phương cũng là cách thức để nâng cao uy tín, năng lực cho cán bộ người dân tộc. Qua đó, thể hiện niềm tin của Đảng vào khả năng của quần chúng người dân tộc. Việc làm này không những khẳng định quan điểm, đường lối đúng đắn của Đảng về công tác quần chúng mà còn góp phần củng cố niềm tin của đồng bào đối với sự lãnh đạo của Đảng. Trong thực tiễn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Trung Trung Bộ, đã có nhiều cán bộ người dân tộc được Đảng đào tạo, bồi dưỡng nắm giữ những vị trí chủ chốt như: Bhriu Trứ (thôn Chrlac, xã Racông, huyện Nam Giang) là đảng viên người dân tộc đầu tiên được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Đà; Đinh Xuân Ba (dân tộc Rhe), Đinh Thoang và Đinh Tý (dân tộc Ba Na) là Tỉnh ủy viên tỉnh Bình Định. Họ đều là những cán bộ trưởng thành từ các căn cứ địa cách mạng. Chính sách đúng đắn của Đảng trong việc chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ và thực tiễn cuộc kháng chiến làm cho đội ngũ cán bộ đảng viên người dân tộc trưởng thành nhanh. Ở nhiều địa phương, lực lượng này đã có những đóng góp quan trọng trong quá trình xây dựng và chiến đấu bảo vệ căn cứ địa cách mạng miền núi. Khi địch tiến hành các cuộc càn quét lớn vào căn cứ địa, chi bộ Đảng vững vàng lãnh đạo nhân dân tổ chức bố phòng, đánh địch, kiên quyết giữ vững quyền làm chủ, đẩy lùi các cuộc càn quét của địch. Điển hình như các xã: Chà Val, La Dêê (Căn cứ Nam Giang); Thồ Lồ, Bầu Bèng, Phú Mỡ (Căn cứ Thồ Lồ Ma Dú) đã trở thành những mảnh đất thánh của phong trào cách mạng Khu V, được Nhà nước phong tặng danh hiệu là những xã anh hùng. Nhờ giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc mà hàng ngàn cán bộ, đảng viên của Đảng bám trụ hoạt động tại các căn cứ địa vùng rừng núi đã được đồng bào các dân tộc nơi đây đùm bọc, chở che. Nhiều cuộc đấu tranh của đồng bào miền núi góp 151

153 phần làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn đánh phá của địch, bảo vệ an toàn căn cứ địa cách mạng, tinh thần đoàn kết chiến đấu giữa các dân tộc tại nhiều căn cứ địa luôn được giữ vững, đồng bào hết lòng ủng hộ nhân lực, vật lực cho kháng chiến Xây dựng căn cứ địa cách mạng vững mạnh toàn diện, kết hợp xây dựng với bảo vệ, bảo vệ để xây dựng Sự ra đời của các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ mới chỉ là thắng lợi bước đầu. Để các căn cứ có thể đứng vững và phát huy vai trò đối với cuộc kháng chiến thì cần phải ra sức xây dựng củng cố về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa đồng thời kết hợp hài hòa giữa hai nhiệm vụ xây dựng với bảo vệ, bảo vệ để xây dựng. Trong xây dựng căn cứ địa cách mạng, xây dựng về chính trị là nhiệm vụ hàng đầu cần được coi trọng bởi vì sự vững chắc của căn cứ địa trước hết phải dựa vào thế trận lòng dân ; tức là sự giác ngộ cách mạng, sự nhất trí về chính trị, tinh thần của nhân dân, dựa vào sự vững chắc của các tổ chức chính trị của quần chúng cách mạng [103, tr. 241]. Đối với địa bàn Trung Trung Bộ, xây dựng về chính trị được thực hiện thông qua việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục lòng yêu nước, nêu cao quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, động viên nhân dân hăng hái khắc phục khó khăn, tích cực tham gia xây dựng, bảo vệ căn cứ địa cách mạng. Trong quá trình kháng chiến, sự tuyên truyền giáo dục của Đảng, chính quyền, các đoàn thể đã làm cho trình độ giác ngộ chính trị của quần chúng ngày càng được nâng cao. Chủ trương, đường lối kháng chiến và chính sách dân tộc của Đảng trở thành niềm tin, động lực to lớn cổ vũ đồng bào vượt qua mọi hy sinh, thử thách, giữ vững quyền làm chủ, xây dựng cuộc sống mới tại các căn cứ địa. Để xây dựng về chính trị, việc củng cố hoạt động của tổ chức Đảng ở căn cứ địa được hết sức chú trọng. Tại đây, chi bộ Đảng phải thực sự trở thành những pháo đài vững chắc, có khả năng bám trụ kiên cường, đứng vững được ở địa phương trong mọi tình thế và có đủ năng lực lãnh đạo cuộc kháng chiến ở địa phương [103, tr. 242]. Bên cạnh tổ chức Đảng, việc củng cố, xây dựng hệ thống chính quyền nhân dân vững mạnh, phát triển rộng rãi các đoàn thể quần chúng cũng là những điều kiện cơ bản để xây dựng, phát triển căn cứ địa cách mạng. 152

154 Xây dựng căn cứ về chính trị sẽ tạo nên sự nhất trí cao độ về chính trị tinh thần để tiến hành nhiệm vụ kháng chiến chống Mỹ, đồng thời góp phần duy trì và củng cố chế độ dân chủ nhân dân, tạo cơ sở cho công cuộc xây dựng đất nước sau này. Xây dựng căn cứ địa cách mạng về quân sự là nhiệm vụ quan trọng nhằm thực hiện hoạt động bảo vệ và mở rộng căn cứ. Trong đó, LLVT ba thứ quân được xây dựng vững mạnh là nòng cốt trong chiến đấu đánh địch bảo vệ căn cứ địa. Phát triển LLVT ở các căn cứ địa phải biết dựa vào nhân dân, bắt đầu từ việc giáo dục, giác ngộ chính trị cho quần chúng tiến lên xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, du kích và bộ đội địa phương. Đến năm 1965, dân quân du kích tại các căn cứ địa thuộc các tỉnh: Quảng Đà, Quảng Ngãi, Bình Định đã phát triển nhanh chóng đạt tỉ lệ 4% ở đồng bằng và 9% ở miền núi [69, tr. 220]. Những năm về sau, tỉ lệ này ngày càng tăng lên. Ở Căn cứ Sơn Tây (Quảng Ngãi), năm 1969, lực lượng dân quân du kích đạt 14% dân số [72, tr. 247]. Với sự tham gia của đông đảo lực lượng đoàn viên, đảng viên, chất lượng LLVT ngày càng được nâng lên. Năm 1968, tại Căn cứ Vĩnh Thạnh (Bình Định), tỷ lệ đảng viên chiếm 15%, tỷ lệ đoàn viên chiếm 22% trong lực lượng du kích xã thôn [8, tr. 213]. Ngoài việc tham gia LLVT địa phương ở căn cứ (dân quân, du kích xã, bộ đội huyện); nhiều thanh niên đã thoát ly gia nhập LLVT tỉnh, khu; nhiều người dân (không phân biệt tuổi tác, giới tính) cũng hăng hái đi dân công phục vụ chiến đấu. Lực lượng du kích tại các căn cứ địa còn trực tiếp tham gia chiến đấu. Tiêu biểu như du kích Căn cứ Nam Trà trong năm 1971 tham gia đánh 226 trận, loại khỏi vòng chiến hơn quân địch, bắn rơi 16 máy bay, thu viên đạn [20, tr. 5]. Từ năm 1969 đến 1972, du kích Căn cứ Sơn Tây phối hợp với Sơn Hà đánh địch 374 trận, loại khỏi vòng chiến đấu hơn quân địch, bắn rơi 27 máy bay, bắn hỏng 26 chiếc khác, thu 159 súng các loại [7, tr. 228]. LLVT địa phương không ngừng trưởng thành về chất lượng, số lượng, phong trào xây dựng thôn xã chiến đấu phát triển mạnh mẽ cùng với thế trận chiến tranh nhân dân được triển khai sâu rộng đảm bảo thế đứng vững chắc cho các căn cứ địa cách mạng. Các cuộc càn quét, tấn công của địch vào căn cứ địa đều bị LLVT và 153

155 nhân dân đánh trả quyết liệt. Địch không những không thực hiện được mục tiêu hủy diệt tận gốc các căn cứ địa cách mạng mà ngược lại chúng còn bị tổn thất nặng nề. Xây dựng kinh tế căn cứ địa là một nội dung hết sức quan trọng nhằm duy trì và phát triển tiềm lực kháng chiến, duy trì và phát triển cuộc chiến đấu lâu dài. Vấn đề xây dựng nền kinh tế kháng chiến ở các căn cứ địa cách mạng, đặc biệt là ở miền núi Trung Trung Bộ rất khó khăn do trình độ sản xuất thấp, kỹ thuật canh tác lạc hậu, địch lại thường xuyên đánh phá và bao vây, phong tỏa về kinh tế. Do vậy, ngay khi được hình thành, để tồn tại và đứng vững, các căn cứ địa thực hiện việc xây dựng nền kinh tế tự túc, tự cấp nhằm giải quyết nhu cầu về đời sống và chiến đấu của cán bộ, LLVT và nhân dân trong căn cứ. Hoạt động xây dựng kinh tế căn cứ địa tập trung vào việc đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm, đáp ứng nhu cầu của quân dân, hạn chế nạn đói đồng thời có nguồn dự trữ; tăng cường sản xuất các loại thuốc trong ngành y tế từ nguyên liệu tại chỗ; chế tạo vũ khí thô sơ, duy trì một số ngành nghề thủ công: mộc, rèn, dệt; tăng cường mở rộng giao lưu hàng hóa giữa vùng ta và vùng địch thông qua các cửa khẩu ; đẩy mạnh khơi thông các luồng hàng từ vùng địch dưới hình thức các chợ vùng giải phóng Bên cạnh đó, việc động viên sự đóng góp của nhân dân ở đồng bằng, các đô thị cũng góp phần đáng kể trong việc hỗ trợ hoạt động xây dựng nền kinh tế kháng chiến ở các căn cứ địa. Song song với các lĩnh vực kể trên, xây dựng về văn hóa cũng là một nội dung thiết yếu nhằm xây dựng nền văn hóa mới tiến bộ, đời sống mới giản dị, lạc quan phù hợp với yêu cầu cuộc kháng chiến. Xây dựng về văn hóa căn cứ địa ở Trung Trung Bộ tập trung vào các hoạt động: Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, của MTDTGPMN Việt Nam, đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc, chia rẽ của kẻ địch; Phát động phong trào bình dân học vụ; Động viên nhân dân xóa bỏ các tập tục lạc hậu; Đẩy mạnh phong trào văn hóa nghệ thuật quần chúng nhằm nâng cao tinh thần yêu nước, tạo không khí vui tươi lạc quan cách mạng, động viên quân dân tích cực tham gia kháng chiến. Xây dựng căn cứ địa về mọi mặt là biện pháp tích cực để tạo nên sức mạnh bảo vệ căn cứ. 154

156 Các căn cứ ở Trung Trung Bộ được hình thành và phát triển rộng khắp ở nhiều địa phương đã thực sự uy hiếp lực lượng địch, nó trở thành mục tiêu, trọng điểm đánh phá của đối phương. Tính chất của cuộc chiến đấu bảo vệ căn cứ rất quyết liệt. Địch thường xuyên tổ chức các cuộc hành quân càn quét nhằm triệt tiêu lực lượng và các cơ quan đầu não kháng chiến ở căn cứ, thực hiện giành đất, giành dân với phía cách mạng. Vì vậy, xây dựng căn cứ phải gắn liền với cuộc chiến đấu bảo vệ căn cứ, giữ đất, giữ dân. Để bảo vệ căn cứ phải đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn đánh phá của địch mới bảo vệ được căn cứ. Đây là quá trình đấu tranh liên tục, kiên trì, bền bỉ. Hoạt động bảo vệ căn cứ được thực hiện bằng nhiều biện pháp. Trước hết là tích cực đánh địch để mở rộng căn cứ của ta, thu hẹp địa bàn chiếm đóng của địch. Các căn cứ chủ động chống địch càn quét, huy động sức mạnh tổng hợp của LLVT ba thứ quân, xây dựng phương án tác chiến phù hợp nhằm làm thất bại các âm mưu và thủ đoạn đánh phá của địch, giữ vững căn cứ địa. Thứ hai là tăng cường công tác phòng gian, bảo mật, loại trừ những phần tử phản động, gián điệp; đồng thời đẩy mạnh hoạt động tuần tra canh gác, giữ gìn an ninh trật tự cũng là một trong những cách thức tích cực để bảo vệ căn cứ địa. Tuy nhiên, nếu địch tập trung lực lượng mạnh để tấn công vào căn cứ trong khi lực lượng ở căn cứ chưa đủ sức đối phó thì cần thay đổi phương thức đấu tranh, có thể kết hợp sử dụng đấu tranh quân sự, chính trị và binh vận trong đấu tranh bảo vệ căn cứ. Việc kết hợp xây dựng với bảo vệ căn cứ phản ánh quy luật chung của lịch sử dân tộc đó là dựng nước đi đôi với giữ nước, xây dựng chế độ mới gắn liền với bảo vệ chế độ mới Kết hợp đồng thời việc xây dựng căn cứ địa cách mạng ở miền núi với xây dựng căn cứ du kích ở vùng địch tạm chiếm, các cơ sở, lõm chính trị trong nội đô Cùng với việc xây dựng các căn cứ địa cách mạng ở miền núi, các cấp ủy Đảng, chính quyền ở Trung Trung Bộ đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng các căn cứ du kích ở vùng đồng bằng; các cơ sở, các lõm chính trị ở nội đô. Căn cứ du kích ở đồng bằng có: Núi Thình Thình (Quảng Ngãi); Miền Đông (Tuy Hòa 1) 155

157 Căn cứ lõm có: K20 (Đà Nẵng), Bầu Bính (Quảng Nam); Triều Tiên, Đà Lạt, Liên Xô (Quảng Ngãi); Hưng Thạnh, Phước Hậu (ven Qui Nhơn), Hòa Kiến, Chóp Chài (Phú Yên) Đặc điểm nổi bật của các căn cứ này là được xây dựng ngay trong vùng địch, ở những địa bàn có vị trí chiến lược. Ví như Căn cứ K20 nằm trên vành đai từ Quy Mỹ đến đèo Ông Gấm, sát nách phía Đông con đường Đà Nẵng (Sơn Trà) đi Hội An và nhất là gần sân bay Nước Mặn của địch. Phía Nam Căn cứ lõm Bầu Bính giáp với một dãy chốt điểm của địch, phía Tây là sông, vùng giáp ranh giữa ta và địch. Các căn cứ Hòa Kiến, Chóp Chài nằm án ngữ Quốc lộ 1, sát nách hang ổ chính quyền VNCH ở thị xã Tuy Hòa Các căn cứ lõm được xây dựng dựa trên những điều kiện: có cơ sở chính trị vững chắc, có LLVT để tự vệ, có hệ thống hầm bí mật, công sự mật. Quy mô của các căn cứ du kích, cơ sở, căn cứ lõm thường nhỏ, diện tích chỉ khoảng 2-3 km², dân số khoảng vài trăm người trở lên, cá biệt có căn cứ lõm không có dân ( Căn cứ lõm Bầu Bính trong thời gian đầu mới thành lập). Tại các căn cứ này, lực lượng tự vệ mật, du kích mật đóng vai trò chủ chốt trong chiến đấu bảo vệ căn cứ. Nguyên tắc hoạt động của căn cứ du kích, cơ sở, căn cứ lõm là đảm bảo bí mật tuyệt đối, dựa vào sự trung thành tuyệt đối của nhân dân. Nhờ có các căn cứ du kích ở đồng bằng, các cơ sở, các căn cứ lõm mà cán bộ lãnh đạo, du kích, tự vệ mật có điều kiện thuận lợi để bám chắc trong dân, gây dựng cơ sở, kịp thời tiêu diệt bọn ác ôn, phát triển phong trào cách mạng ở đồng bằng và đô thị. Dựa vào hệ thống hầm bí mật, công sự mật và thế trận lòng dân vững chắc, các căn cứ du kích, cơ sở, các lõm chính trị trở thành nơi nuôi giấu các đồng chí lãnh đạo, nơi ém quân của LLVT trước những trận tiến công vào sào huyệt của địch, nơi tích trữ vũ khí, lương thực, chăm sóc thương binh Ở Trung Trung Bộ, các căn cứ du kích, cơ sở, các lõm chính trị được xây dựng đều khắp ở các vùng đồng bằng đông dân, nhiều của, các đô thị và vùng ven đô, tạo thành mạng lưới rộng rãi tồn tại đan xen trong thế cài răng lược giữa ta và địch ở nhiều địa bàn. Đây cũng là nơi xây dựng lực lượng, động viên sự đóng góp của các tầng lớp nhân dân trong vùng địch cho kháng chiến. Tại đây, chi bộ Đảng đã kịp thời lãnh đạo, phát động nhân dân đấu tranh chính trị hỗ trợ cho đấu tranh quân sự, đẩy lùi nhiều cuộc càn quét của quân Mỹ VNCH vào căn cứ địa, bảo vệ an toàn nơi đứng chân của LLVT và các đồng chí lãnh đạo. Các căn cứ: Núi Thình Thình, 156

158 K20, Bầu Bính, Hòa Kiến đã trở thành những vùng đất thép tồn tại ngay trong hậu phương của địch khiến cho chúng gặp không ít khó khăn, tổn thất trong việc đối phó. Các căn cứ du kích ở đồng bằng, các cơ sở, các căn cứ lõm không tồn tại biệt lập mà nối thông với các căn cứ địa ở miền núi thông qua hệ thống liên lạc hợp pháp và bất hợp pháp, đảm bảo sự liên lạc, sự chỉ đạo, lãnh đạo giữa các vùng miền, tạo thuận lợi cho cán bộ và LLVT trong hoạt động lãnh đạo và tổ chức chiến đấu; đồng thời cũng góp phần hình thành thế bao vây trực tiếp uy hiếp các cơ quan đầu não của địch ngay tại sào huyệt của chúng. Căn cứ du kích ở vùng địch tạm chiếm, các cơ sở, lõm chính trị trong nội đô tiêu biểu cho niềm tin, ý chí và sức mạnh chiến đấu của nhân dân vùng địch trong thế đối đầu trực tiếp với kẻ thù. Sự hình thành, phát triển và đứng vững của các căn cứ trong vùng địch phản ảnh sự linh hoạt, sáng tạo của quân dân trong hoạt động tổ chức xây dựng căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ. Căn cứ du kích ở vùng địch tạm chiếm, các cơ sở, lõm chính trị về cơ bản đã phát huy được vai trò đối với cuộc kháng chiến tại địa phương. * Tiểu kết chương 4 Được khôi phục, xây dựng trên cơ sở yêu cầu tất yếu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ đã không ngừng được mở rộng, phát triển thực lực về mọi mặt. Các căn cứ hợp thành hệ thống liên hoàn trải rộng khắp các vùng, miền, các địa phương trên địa bàn Trung Trung Bộ đã thực sự phát huy vai trò không chỉ là nơi đóng cơ quan lãnh đạo, chỉ huy kháng chiến, nơi củng cố và xây dựng LLVT mà còn là nơi đảm nhận công tác hậu cần, cung cấp một phần nhân lực, vật lực cho kháng chiến. Đặc biệt, căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ đã thực hiện tốt nhiệm vụ tiếp nhận và trung chuyển sự chi viện của Trung ương cho các tỉnh ở Khu V và Đông Nam Bộ. Sự tồn tại, đứng vững của các căn cứ không những đã tạo nên thế và lực mới cho cuộc kháng chiến mà còn phản ánh sự linh hoạt, sáng tạo trong việc tổ chức xây dựng căn cứ địa đồng thời thể hiện thế tiến công chiến lược của phong trào cách mạng ở Trung Trung Bộ. Những kinh nghiệm được đúc rút từ quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò của căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ góp phần bổ sung đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng và làm phong phú lý luận quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. 157

159 KẾT LUẬN 1. Trung Trung Bộ là địa bàn có điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội thuận lợi cho hoạt động xây dựng căn cứ địa cách mạng. Trong cuộc vận động cách mạng Tháng Tám năm 1945 và kháng chiến chống Pháp, nhiều căn cứ địa được xây dựng ở vùng rừng núi, sông biển, đồng bằng. Các căn cứ đã đáp ứng được yêu cầu khách quan của khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng, đồng thời góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của cả dân tộc. Từ sau hiệp định Genève năm 1954, nhằm đối phó với chính sách đàn áp, khủng bố tàn bạo của đế quốc Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm đối với phong trào cách mạng miền Nam, quân dân các địa phương Trung Trung Bộ đã tích cực khôi phục các căn cứ địa được xây dựng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp để giữ gìn, bảo vệ lực lượng, từng bước tạo thế và lực đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Từ thực tiễn đấu tranh của quần chúng và yêu cầu của phong trào cách mạng trong tình hình mới, Trung ương Đảng và Liên Khu ủy V đã sớm xác định đường lối xây dựng căn cứ địa cách mạng ở miền Nam, đặc biệt là đối với địa bàn Tây Nguyên và miền núi các tỉnh. Quán triệt và vận dụng sáng tạo đường lối của các cấp ủy Đảng, quân dân Trung Trung Bộ đã kiên trì đấu tranh làm thất bại âm mưu dồn dân, tiêu diệt lực lượng cách mạng của địch; đồng thời tiếp tục khôi phục, củng cố, xây dựng thêm nhiều căn cứ địa mới đảm bảo đáp ứng yêu cầu xây dựng đất đứng chân và tiềm lực để chuẩn bị tiến hành kháng chiến lâu dài. Việc khôi phục, xây dựng kịp thời các căn cứ địa đã tạo điều kiện để quân dân Trung Trung Bộ sớm nổi dậy tiến hành khởi nghĩa từng phần và chiến tranh du kích cục bộ. Mặc dù đế quốc Mỹ và chính quyền VNCH đã sử dụng nhiều thủ đoạn chiến tranh vô cùng tàn khốc nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng và triệt phá căn cứ địa nhưng với ý chí cách mạng kiên cường và tinh thần bền bỉ đấu tranh, quân và dân Trung Trung Bộ đã vượt qua nhiều gian nan, thử thách, bảo vệ vững chắc và phát huy hiệu quả vai trò của hệ thống căn cứ địa cách mạng, nỗ lực góp phần quan trọng cùng chiến trường toàn Khu V từng bước làm thất bại các chiến lược chiến tranh của đối phương. 158

160 2. Quá trình xây dựng và phát triển của các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ diễn ra cam go, quyết liệt và liên tục. Đó là quá trình đấu tranh toàn diện, bền bỉ, gian nan và không tránh khỏi những bước quanh co, thậm chí tổn thất nhất định. Song từ thực tiễn đấu tranh cách mạng, các cán bộ, đảng viên đã biết dựa vào nhân dân, phát huy truyền thống yêu nước và tinh thần đoàn kết cộng đồng các dân tộc, gắn liền việc động viên sự đóng góp của nhân dân với chăm lo bồi dưỡng, củng cố sức dân. Để làm được điều này, các cấp ủy Đảng, chính quyền ở các căn cứ địa thường xuyên thực hiện tốt công tác chính trị, tư tưởng, nâng cao trình độ nhận thức của nhân dân về nhiệm vụ, vai trò, ý nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, từ đó tích cực tham gia xây dựng căn cứ địa; đồng thời chú trọng đẩy mạnh phát triển kinh tế, giáo dục, y tế từng bước cải thiện đời sống người dân, xây dựng những nền tảng ban đầu của chế độ mới. Quá trình xây dựng và bảo vệ căn cứ địa được tiến hành thường xuyên trên cơ sở lấy căn cứ lòng dân làm nền tảng căn cứ vững chắc nhất. Trải qua quá trình hình thành, phát triển và đứng vững qua nhiều thử thách ác liệt của chiến tranh, căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ là biểu trưng cho tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh kiên cường, sức mạnh đoàn kết và niềm tin to lớn của cộng đồng các dân tộc đối với Đảng, Bác Hồ. 3. Chịu sự chi phối của điều kiện tự nhiên và đặc điểm chiến trường Khu V, căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là sự đa dạng về loại hình, phong phú về quy mô, linh hoạt trong hình thức tổ chức, hợp thành hệ thống liên hoàn, thuận lợi cho hoạt động di chuyển và trụ bám của các lực lượng kháng chiến. Các căn cứ tồn tại đan xen khắp ba vùng chiến lược tạo thế cài răng lược, uy hiếp lực lượng địch ở các địa bàn. Bên cạnh đó, căn cứ địa ở Trung Trung Bộ cũng có một số đặc điểm riêng như: thường xuyên có sự biến động; có khả năng đảm bảo sản xuất tự túc, tự cấp; dễ bị chia cắt, cô lập khi địch tập trung lực lượng đánh phá mạnh. Tuy nhiên, vượt lên những trở ngại và thử thách cam go của chiến tranh, các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ nhìn chung đều đứng vững và liên tục được mở rộng, củng cố về mọi mặt. Sự tồn tại và phát 159

161 triển của các căn cứ phản ánh thế tiến công chiến lược linh hoạt, bền bỉ của quân dân Trung Trung Bộ. Với sự đa dạng như đã nêu trên, quân dân Trung Trung Bộ đã giải quyết được vấn đề đất đứng chân và xây dựng tiềm lực kháng chiến ở cả ba vùng chiến lược. 4. Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ có vai trò quan trọng góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên địa bàn và ở miền Nam. Trong quá trình xây dựng, phát triển, nhờ không ngừng được củng cố thực lực về nhiều mặt: kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ không những có đủ sức mạnh để đánh bại các thủ đoạn đánh phá của quân Mỹ VNCH mà còn trực tiếp đóng góp về nhân tài, vật lực phối hợp cùng các đơn vị bộ đội chủ lực đánh địch ở các chiến trường. Hoạt động chiến đấu ở các căn cứ địa đã góp phần tiêu hao một bộ phận sinh lực địch, khiến cho kẻ thù gặp không ít tổn thất; đồng thời tạo thế và lực mới cho lực lượng kháng chiến ở các địa phương. Có thể nói, sự ra đời và hoạt động của các căn cứ địa cách mạng đã tiếp thêm sức mạnh cho phong trào cách mạng ở Trung Trung Bộ. Căn cứ địa cách mạng trở thành tâm điểm cơ bản để đoàn kết các cộng đồng dân tộc, phát huy cao độ truyền thống đấu tranh chống xâm lược, chống áp bức bất công, làm hậu phương trực tiếp cho cuộc kháng chiến ở địa phương; vừa giữ vai trò là bàn đạp, kết nối các chiến trường Trị Thiên, Trung Trung Bộ và Tây Nguyên trong một cục diện chiến trường chung của Khu V và toàn miền Nam. Căn cứ địa ở Trung Trung Bộ còn là nơi đảm bảo vai trò tiếp nhận, trung chuyển sự chi viện vật chất, con người của hậu phương lớn miền Bắc cho Khu V và Nam Bộ theo đường biển, đường bộ. 5. Quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ đã để lại một số bài học kinh nghiệm, đó là: xây dựng căn cứ địa cách mạng phải chú trọng đặc điểm địa chính trị, địa quân sự, địa kinh tế, địa văn hoá của từng địa phương; phát huy vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân trong quá trình xây dựng và bảo vệ căn cứ địa cách mạng; xây dựng căn cứ địa cách mạng vững mạnh toàn diện, kết hợp xây dựng với bảo vệ, bảo vệ để xây dựng; tiến hành đồng thời việc xây dựng căn cứ địa cách mạng ở 160

162 miền núi với xây dựng căn cứ du kích ở vùng địch tạm chiếm, các cơ sở, lõm chính trị trong nội đô. Đặc biệt là việc tăng cường xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng, dựa vào dân, phát huy thế trận lòng dân, không ngừng chăm lo bồi dưỡng sức dân là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với thành công của quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ. Cho đến nay, những bài học kinh nghiệm này vẫn giữ nguyên giá trị đặc biệt là đối với hoạt động lãnh đạo, xây dựng khu vực phòng thủ, củng cố quốc phòng an ninh ở các địa phương Trung Trung Bộ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Những nội dung cơ bản nêu trên được rút ra từ việc khảo cứu quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò của căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đó cũng là những trang lịch sử đầy tự hào của quân dân Trung Trung Bộ trong sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc vừa qua. 161

163 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐÃ CÔNG BỐ 1. Trần Thúy Hiền (2011), Căn cứ K20 trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Tạp chí Lịch sử Quân sự, số Trần Thúy Hiền (2011), Khu Sông Đà trong kháng chiến chống Mỹ, Tạp chí Khoa học và Giáo dục Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng, số Trần Thúy Hiền (2012), Đấu tranh bảo vệ Căn cứ Trà Bồng trong kháng chiến chống Mỹ ( ), Tạp chí Khoa học và Giáo dục Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng, số Trần Thúy Hiền (2013), Kế hoạch chống phá căn cứ địa kháng chiến ở các tỉnh duyên hải Trung Trung Bộ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa trong Chiến tranh đặc biệt, Tạp chí Lịch sử Quân sự, số Trần Thúy Hiền (2014), Tìm hiểu một số căn cứ địa cách mạng ở các tỉnh Nam Ngãi Bình Phú trong kháng chiến chống Pháp ( ), Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Đà Nẵng, số Trần Thúy Hiền (2014), Hoạt động giáo dục đào tạo ở căn cứ địa miền núi các tỉnh Nam Ngãi Bình Phú trong kháng chiến chống Mỹ, những năm , Tạp chí Khoa học và Giáo dục Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng, số

164 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Phương Anh (2011), Căn cứ của Tỉnh ủy Quảng Ngãi trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ( ), Luận văn Thạc sĩ, Đại học Quy Nhơn năm Nguyễn Quang Ân (2003), Việt Nam những thay đổi địa danh và địa giới hành chính ( ), Nxb Thông Tấn, HN. 3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Định (1996), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Định ( ), Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Định xuất bản. 4. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1999), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi ( ), Nxb Chính trị Quốc gia, HN. 5. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Phú Yên (1996), Lịch sử Phú Yên kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ( ), Ban Tuyên giáo tỉnh Phú Yên xuất bản. 6. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Phù Cát (1996), Lịch sử Đảng bộ huyện Phù Cát ( ), Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Phù Cát xuất bản. 7. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Sơn Hà (1993), Lịch sử Đảng bộ huyện Sơn Hà ( ), Thường vụ Huyện ủy Sơn Hà xuất bản. 8. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Vĩnh Thạnh (1998), Lịch sử Đảng bộ huyện Vĩnh Thạnh ( ), Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Vĩnh Thạnh xuất bản. 9. Ban Chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam (2008), Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Tập 2 ( ), Nxb Chính trị Quốc gia, HN. 10. Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1996), Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị Quốc gia, HN. 11. Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1996), Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị Quốc gia, HN. 163

165 12. Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000), Chiến tranh cách mạng Việt Nam ( ). Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị Quốc gia, HN. 13. Ban Chỉ huy quân sự huyện Nam Giang (2001), Lịch sử LLVT huyện Nam Giang ( ), Sở Văn hóa Thông tin Quảng Nam xuất bản. 14. Ban Chỉ huy quân sự huyện Tiên Phước (1999), Lịch sử LLVT nhân dân huyện Tiên Phước ( ), Ban Chỉ huy quân sự huyện Tiên Phước xuất bản. 15. Ban Chỉ huy quân sự huyện Đồng Xuân (1998), LLVT huyện Đồng Xuân 30 năm chiến đấu và trưởng thành ( ), Ban Chỉ huy quân sự huyện Đồng Xuân xuất bản. 16. Ban Chỉ huy quân sự quận Ngũ Hành Sơn (2009), Lịch sử LLVT Quận Ngũ Hành Sơn ( ), Ban Chỉ huy quân sự quận Ngũ Hành Sơn xuất bản. 17. Ban Liên lạc Ban Tổ chức Liên khu ủy V (2008), Quá trình xây dựng và truyền thống của Ban Tổ chức Liên khu ủy V ( ), Ban Liên lạc Ban Tổ chức Liên khu ủy V xuất bản. 18. Ban Liên lạc Văn phòng khu ủy V (2004), Văn phòng Liên khu ủy V( ), Nxb Đà Nẵng. 19. Bản nghiên cứu địch tình và bình địa Mật khu Đỗ Xá, TTLT Quốc gia II. Tp. Hồ Chí Minh, kí hiệu PTT Ban Quân sự miền Tây Quảng Nam (1972), Dự thảo Báo cáo tổng kết nhân dân du kích chiến tranh từ tháng 1 năm 1971 đến tháng 11 năm 1972, Tài liệu lưu tại Bộ Chỉ huy quân sự Tỉnh Quảng Nam. 21. Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng (1997), Lịch sử Đảng bộ thành phố Đà Nẵng, Tập II, Nxb Đà Nẵng. 22. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ngãi (2000), Đội du kích Ba Tơ nhớ lại và suy nghĩ, Nxb Chính trị Quốc gia, HN. 164

166 23. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Định (2004), 70 năm công tác tuyên giáo của Đảng bộ Bình Định ( ), Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Định xuất bản. 24. Báo cáo bổ sung về tình hình miền núi Liên khu V, Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng, kí hiệu K5/ Báo cáo tình hình địch ta ở Khu 5 từ năm 1961 đến tháng , tài liệu Viện Lịch sử Đảng, kí hiệu II3/6/ Bộ Bưu chính Viễn thông Tổng Công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam (2005), Lịch sử Giao bưu Thông tin các tỉnh từ Quảng Trị đến Ninh Thuận và Tây Nguyên thời kỳ kháng chiến chống Mỹ ( ), Nxb Bưu Điện. 27. Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Nam (2003), Lịch sử LLVT nhân dân tỉnh Quảng Nam, Tập II ( ), Nxb Quân đội nhân dân. 28. Bộ Công an Tổng cục Xây dựng lực lượng Công an nhân dân Viện Lịch sử Công an (2008), Lịch sử An ninh Khu V thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ( ), Nxb Công an nhân dân, HN. 29. Bộ Công an Công An tỉnh Quảng Nam (2000), Công an nhân dân tỉnh Quảng Nam Biên niên sự kiện ( ), Bộ Công an Công An tỉnh Quảng Nam xuất bản. 30. Bộ Giao thông Vận tải (1999), Lịch sử giao thông vận tải Việt Nam, Nxb Giao thông Vận tải, Hà Nội. 31. Bộ Quốc phòng Trung tâm Từ điển Bách khoa Quân sự (2007), Từ điển thuật ngữ Quân sự, Nxb Quân đội nhân dân, HN. 32. Bộ Quốc phòng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1988), Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ( ) Những sự kiện quân sự, Bộ Quốc phòng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam xuất bản. 33. Bộ Quốc phòng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1997), Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam ( ), Nxb Quân đội nhân dân, HN. 165

167 34. Bộ Quốc Phòng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2003), Hệ thống tổ chức quân sự của Mỹ và VNCH trong chiến tranh Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, HN. 35. Bộ Quốc Phòng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1994), Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ( ), Tập II, Nxb Quân đội nhân dân, HN. 36. Bộ Quốc phòng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước ( ), Tập I: Nguyên nhân chiến tranh, Nxb Chính trị Quốc gia Sự Thật, HN. 37. Bộ Quốc phòng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước ( ), Tập II: Chuyển chiến lược, Nxb Chính trị Quốc gia Sự Thật, HN. 38. Bộ Quốc phòng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước ( ), Tập III: Đánh thắng chiến tranh đặc biệt, Nxb Chính trị Quốc gia Sự Thật, HN. 39. Bộ Quốc phòng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước ( ), Tập IV: Cuộc đụng đầu lịch sử, Nxb Chính trị Quốc gia Sự Thật, HN. 40. Bộ Quốc phòng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước ( ), Tập V: Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, Nxb Chính trị Quốc gia Sự Thật, HN. 41. Bộ Quốc phòng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước ( ), Tập VI: Thắng Mỹ trên chiến trường ba nước Đông Dương, Nxb Chính trị Quốc gia Sự Thật, HN. 42. Bộ Quốc phòng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước ( ), Tập VII: Thắng lợi quyết định năm 1972, Nxb Chính trị Quốc gia Sự Thật, HN. 43. Bộ Quốc phòng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước ( ), Tập VIII: Toàn thắng, Nxb Chính trị Quốc gia Sự Thật, HN. 166

168 44. Bộ Quốc phòng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ( ), Tập IX: Tính chất, đặc điểm, tầm vóc và bài học lịch sử, Nxb Chính trị Quốc gia Sự Thật, HN. 45. Bộ Quốc phòng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2005), Lịch sử Quân sự Việt Nam, Tập 11:Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ( ), Nxb Chính trị Quốc gia, HN. 46. Bộ Quốc Phòng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2002), Sự nghiệp tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, Nxb Quân đội nhân dân, HN. 47. Bộ Quốc phòng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2002), Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, Nxb Quân đội nhân dân. 48. Bộ Tổng tham mưu Cục dân quân tự vệ (2011), Bản đồ phục vụ công tác quốc phòng, quân sự địa phương Quân khu 5, Nxb Quân đội nhân dân, HN. 49. Bộ Tổng tham mưu (2001), Tổng kết chiến tranh nhân dân tại địa phương Chuyên đề: Xây dựng và bảo vệ hệ thống căn cứ địa phương trên chiến trường Khu 5 trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ ( ), Nxb Quân đội nhân dân, HN. 50. BTL Quân khu V (1964), Dàn bài báo cáo cho Đoàn X (Đoàn kiểm tra TW ), Hồ sơ 26, kí hiệu K1 T1 B N2 H1 QKU26 4/77, Tài liệu kho lưu trữ BTL Quân khu V. 51. BTL Quân khu 5 Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1999), Một số kinh nghiệm chỉ đạo chiến tranh nhân dân địa phương ở Khu 5 trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ( ), Nxb Quân đội nhân dân, HN. 52. BTL Quân khu V (1966), Phong trào chiến tranh du kích ở miền núi Khu V từ 1965 đến tháng 9 năm 1966, Hồ sơ 47, Kí hiệu K1 T1 B N2 H1 QKU47 4/16, Tài liệu kho lưu trữ BTL Quân khu V. 53. BTL Quân khu V (1968), Thống Kê lực lượng địch ở các tỉnh (Tính đến ), Hồ sơ 62, kí hiệu K1 T1 B N2 H1 QKU62 2/4, Tài liệu kho lưu trữ BTL Quân khu V. 167

169 54. BTL Quân khu 7 Tỉnh ủy Tây Ninh (2002), Căn cứ địa cách mạng ở Tây Ninh trong chiến tranh giải phóng ( ), Nxb Quân đội nhân dân. 55. BTL Quân khu 5 Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2002), Vành đai diệt Mỹ trên chiến trường Khu 5. Một sáng tạo của chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, HN. 56. Trần Quý Cát (1986), Khu 5 30 năm chiến tranh giải phóng, Tập I, BTL Quân khu 5 xuất bản. 57. Trần Quý Cát (1989), Khu 5 30 năm chiến tranh giải phóng, Tập II, BTL Quân khu 5 xuất bản. 58. Trần Quý Cát (1989), Khu 5 30 năm chiến tranh giải phóng, Tập III, BTL Quân khu 5 xuất bản. 59. Trần Quý Cát Nguyễn Như Cảnh Trần Như Tiếp (1994), Hậu cần Quân khu 5 30 năm chiến tranh giải phóng ( ), Cục Hậu cần Quân khu 5 xuất bản. 60. Trường Chinh (1976), Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, Tập I, Nxb Sự Thật, HN. 61. Vũ Hoài Chương (1982), Quân khu 5. Thắng lợi và những bài học trong kháng chiến chống Mỹ, Tập Hai, Nxb Quân đội nhân dân, HN. 62. Cục Hậu cần Quân khu 5 (1989), Những sự kiện lịch sử hậu cần chiến trường Khu V ( ), Nxb Đà Nẵng. 63. Cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi (1975), Nxb Quân đội nhân dân. 64. Lê Duẩn (1985), Thư vào Nam, Nxb Sự thật, HN. 65. Hồ Sơn Đài (1996), Chiến khu ở miền Đông Nam Bộ ( ), Nxb Tp. Hồ Chí Minh. 66. Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam huyện Trà My (1988), Những sự kiện lịch sử huyện Trà My ( ), Nxb Đà Nẵng. 67. Đảng bộ huyện Hiệp Đức (1999), Lịch sử đấu tranh cách mạng huyện Hiệp Đức ( ), Đảng bộ huyện Hiệp Đức ấn hành. 168

170 68. Đảng bộ huyện Tiên Phước (1993), Lịch sử đấu tranh cách mạng huyện Tiên Phước ( ), Đảng bộ huyện Tiên Phước xuất bản. 69. Đảng bộ Quân đội nhân dân Việt Nam Đảng bộ Quân Khu 5 (2010), Lịch sử Đảng bộ Quân Khu 5 ( ), Tập 2, Nxb Quân đội Nhân dân. 70. Đảng bộ quận Ngũ Hành Sơn (2005), Lịch sử Đảng bộ quận Ngũ Hành Sơn ( ), Đảng bộ quận Ngũ Hành Sơn xuất bản. 71. Đảng bộ quận Sơn Trà (2000), Lịch sử Đảng bộ Quận Sơn Trà ( ), Nxb Đà Nẵng. 72. Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1999), Truyền thống yêu nước của nhân dân và lịch sử Đảng bộ huyện Sơn Tây ( ), Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Sơn Tây xuất bản. 73. Đảng bộ tỉnh Phú Yên (1998), Lịch sử Đảng bộ huyện Sơn Hòa ( ), Huyện ủy Sơn Hòa xuất bản. 74. Đảng Cộng sản Việt Nam (1990), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Định ( ), Tập I, Nxb Tổng Hợp Bình Định. 75. Đảng Cộng sản Việt Nam huyện Giằng (1989), Những sự kiện lịch sử huyện Giằng ( ), Nxb Đà Nẵng. 76. Đảng Cộng sản Việt Nam huyện Hiên (1986), Những sự kiện lịch sử Đảng bộ huyện Hiên ( ), Nxb Đà Nẵng. 77. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 2 (1930), Nxb Chính trị Quốc gia, HN. 78. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 7 ( ), Nxb Chính trị Quốc gia, HN. 79. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 8 ( ), Nxb Chính trị Quốc gia, HN. 80. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 15 (1954), Nxb Chính trị Quốc gia, HN. 81. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 17 (1956), Nxb Chính trị Quốc gia, HN. 169

171 82. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 20 (1959), Nxb Chính trị Quốc gia, HN. 83. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 21 (1960), Nxb Chính trị Quốc gia, HN. 84. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 22 (1961), Nxb Chính trị Quốc gia, HN. 85. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 23 (1962), Nxb Chính trị Quốc gia, HN. 86. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 26 (1965), Nxb Chính trị Quốc gia, HN. 87. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 31 (1970), Nxb Chính trị Quốc gia, HN. 88. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 34 (1973), Nxb Chính trị Quốc gia, HN. 89. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 35 (1974), Nxb Chính trị Quốc gia, HN. 90. Đảng ủy Ban Chỉ huy quân sự huyện Sơn Hòa (2005), Lịch sử LLVT nhân dân huyện Sơn Hòa ( ), Đảng ủy Ban Chỉ huy quân sự huyện Sơn Hòa xuất bản. 91. Đảng ủy Ban Chỉ huy quân sự huyện Trà Bồng (2010), Lịch sử LLVT nhân dân huyện Trà Bồng ( ), Nxb Quân đội nhân dân. 92. Đảng ủy Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Phú Yên (2009), Lịch sử LLVT Tỉnh Phú Yên ( ), Nxb Quân đội nhân dân, HN. 93. Đảng ủy Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Phú Yên (2005), Lịch sử ngành hậu cần LLVT tỉnh Phú Yên ( ), Đảng ủy Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Phú Yên xuất bản. 94. Đảng ủy BTL Quân khu V (2002), Công tác Đảng, công tác chính trị LLVT Quân khu V ( )(Biên niên), Tập 2, Quyển 1, Nxb Quân đội nhân dân, HN. 170

172 95. Đảng ủy Quân khu V (1970), Nghị quyết Hội nghị Khu ủy lần thứ X tháng , Hồ sơ số 82, kí hiệu: K1 T1 B N2 H1 QKU82 1/31, Tài liệu lưu tại Kho lưu trữ BTL Quân khu V. 96. Đảng ủy Quân khu V (1974), Nghị quyết Hội nghị Quân Khu ủy V tháng 10 năm 1974, Hồ sơ 24, kí hiệu K1 T1 B N2 H1- QKU 2/24, Tài liệu lưu trữ BTL Quân khu V. 97. Đặc khu ủy Quảng Đà (1965), Báo cáo tình hình địch và hoạt động của ta trong năm 1965, Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng, kí hiệu hồ sơ 39 III. 98. Đặc khu ủy Quảng Đà (1966), Báo cáo tổng kết tình hình năm 1966, Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng, kí hiệu I 38 III. 99. Trần Hữu Đính (1986), Tìm hiểu quá trình hình thành căn cứ địa miền núi Khu V trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số , tr Trần Văn Đôn Tư lệnh Quân đoàn I, Kiêm Tư lệnh Vùng I Chiến thuật (1962), Trích yếu: Đề nghị không quân oanh kích các mục tiêu thuộc VICT, TTLT Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, kí hiệu Đệ nhất Cộng hòa Trần Văn Đôn Tư lệnh Quân đoàn I, Kiêm Tư lệnh Vùng I Chiến thuật (1962), Phụ bản Kết quả xạ kích các cơ sở Việt Cộng trên dãy Trường Sơn (Phía Tây và Tây Nam Quảng Ngãi), TTLT Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, kí hiệu Đệ nhất Cộng hòa Trần Đơn (2012), Căn cứ địa, một biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong 30 năm chiến tranh giải phóng, Tạp chí Phát triển Nhân lực, số , tr Võ Nguyên Giáp (1974), Bài giảng về đường lối quân sự của Đảng, Viện khoa học Quân sự, HN Trần Văn Giáp (2011), Căn cứ Nước là Mật khu Đỗ Xá, Tạp chí Lịch sử quân sự, tháng , tr Nhiều tác giả (2001), Phú Yên một thời để nhớ, Tập I, Thư viện Phú Yên xuất bản. 171

173 106. Nhiều tác giả (2003), Phú Yên một thời để nhớ, Tập II, Thư viện Phú Yên xuất bản Bùi Minh Hải Vũ Văn Sum (1988), Quảng Ngãi Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm ( ), Nxb Tổng hợp Nghĩa Bình Bộ chỉ huy quân sự Nghĩa Bình xuất bản Hòn Tàu đi cùng năm tháng (2013), Huyện ủy Quế Sơn xuất bản Hội đồng biên soạn lịch sử Nam Trung Bộ kháng chiến (1995), Nam Trung Bộ kháng chiến ( ), Nxb Chính trị Quốc gia, HN Cao Hùng Nguyễn Hoài An (1992), Bình Định Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm ( ), Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định xuất bản Huyện ủy Nam Giang (2004), Lịch sử Đảng bộ huyện Nam Giang ( ), Huyện ủy Nam Giang xuất bản Nguyễn Tiến Hỷ (1987), Vai trò của các dân tộc ít người ở miền núi tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước ( ), Tạp chí Lịch sử Đảng số , tr Kế hoạch bình định tỉnh Quảng Ngãi tháng , TTLT Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, kí hiệu PTT Kế hoạch hoạt động miền rừng núi trong mùa mưa, TTLT Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, kí hiệu Đệ nhất Cộng hòa Kỷ yếu Hội thảo (7-2012), Căn cứ Liên khu ủy 5 tại các huyện Bến Hiên, Bến Giằng, tỉnh Quảng Nam ( ), Tỉnh ủy Quảng Nam Ban Tuyên giáo xuất bản Kỷ yếu Hội thảo (8-2012), 50 năm Chiến dịch vượt sông Tiên, giải phóng Sơn Cẩm Hà (25/9/ /9/2012), Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Nam Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Nam Huyện ủy Tiên Phước xuất bản Kỷ yếu Hội thảo khoa học Căn cứ địa cách mạng tỉnh Bình Thuận trong 30 năm chiến tranh giải phóng ( ), Quân khu VII Tỉnh ủy Bình Thuận ấn hành tháng

174 118. Vũ Tự Lập Christian Taillard (1994), Atlas du Viêt Nam Atlat Việt Nam An Atlas of VietNam, Reclus La Documentation Francaise Trần Ngọc Long (2006), Căn cứ địa U Minh trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược ( ), Luận án Tiến sĩ Sử học Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam Chu Đình Lộc (2011), Căn cứ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở cực Nam Trung Bộ ( ), Luận án Tiến sĩ Sử học Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam Nguyễn Duy Luân (chủ biên) Nguyễn Văn Thưởng, Lê Xuân Đồng, Nguyễn Văn Viễn (2013), Lịch sử căn cứ địa cách mạng tỉnh Phú Yên trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược ( ), Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, HN Nguyễn Lưu (1993), Phú Yên 30 năm chiến tranh giải phóng ( ), Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Phú Yên xuất bản Mật khu Đỗ Xá, căn cứ Nước Là Khí phách của một thời và mãi mãi (2010), Huyện ủy Ủy ban nhân dân huyện Nam Trà My xuất bản Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, HN Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, HN Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, HN Nguyễn Văn Minh (1988), Về khởi nghĩa từng phần ở miền núi Khu V năm 1959, Tạp chí Lịch sử Đảng tháng , tr Trần Thị Nhung (2001), Căn cứ địa kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Đông Nam Bộ ( ), Luận án Tiến sĩ Sử học Viện Khoa học Xã hội Tp. Hồ Chí Minh Đặng Phong (2008), 5 đường mòn Hồ Chí Minh, Nxb Tri Thức Phụ bản IV Tình báo, TTLT Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, kí hiệu Đệ nhất Cộng hòa

175 131. Phụ bản tin tức về các xã Thượng dân lưng chừng và xấu tại các tỉnh Trung nguyên Trung phần tính đến ngày , TTLT Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, kí hiệu Đệ nhất Cộng hòa Dương Trung Quốc, Trần Hữu Đính, Nguyễn Văn Nhật, Nguyễn Tố Uyên (1996), Lịch sử thành phố Đà Nẵng, Nxb Đà Nẵng Sơ lược đặc điểm và tính chất vùng dân tộc thiểu số Liên khu 5 và miền Đông Nam bộ (1962), Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng, kí hiệu K5/ Tài liệu Hội thảo khoa học Di tích căn cứ kháng chiến tỉnh Phú Yên (2003 ), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Yên phối hợp với Sở văn hóa Thông tin và Ủy ban nhân dân huyện Sơn Hòa ấn hành Tài liệu tọa đàm về bảo tồn, phát huy giá trị căn cứ Đặc Khu ủy Quảng Đà, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam ấn hành năm Tài liệu về Mật khu Thồ Lồ, TTLT Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, kí hiệu PTT Tài liệu về vấn đề đối phó với mật khu VC ở Trung cao nguyên Trung phần, TTLT Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, kí hiệu PTT Tài liệu phục vụ Hội thảo khoa học Căn cứ lõm Bầu Bính Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm (4-2013), Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Nam và Huyện ủy Thăng Bình ấn hành Văn Tạo (1995), Căn cứ địa cách mạng: Truyền thống và hiện tại, Tạp chí Lịch sử Quân sự tháng 4/ Lê Bá Thảo (1998), Việt Nam lãnh thổ và các vùng địa lý, Nxb Thế giới Cao Xuân Thiêm Nguyễn Niên Nguyễn Kiều Hưng (2010), Các dân tộc thiểu số miền Tây Phú Yên trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ ( ), Sở khoa học và công nghệ Phú Yên xuất bản Lê Quang Thông (chủ biên) (2007), Địa lý kinh tế xã hội Việt Nam, Nxb Đại học Sư phạm. 174

176 143. Thường vụ Đảng ủy và BTL Quân khu V Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ngãi (2000), Lịch sử đội du kích Ba Tơ ( ), Nxb Quân đội nhân dân, HN Thường vụ Đặc Khu ủy Quảng Đà (1974), Báo cáo tổng kết tình hình xây dựng căn cứ miền núi năm 1974, Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng, kí hiệu L 38 III Thường vụ Tỉnh ủy Bình Định (1974), Tổng kết năm 1974, Tài liệu lưu trữ Tỉnh ủy Bình Định Tình hình chung Liên khu V ( ), Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng, kí hiệu K5/ Tỉnh đội Quảng Nam (1966), Dự thảo báo cáo phong trào du kích chiến tranh của tỉnh Quảng Nam từ 1961 đến 1966, Tài liệu lưu tại Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Nam Tỉnh ủy Bình Định (1972), Báo cáo 11 tháng trong năm 1972 theo chỉ thị của A.15, Tài liệu lưu trữ Tỉnh ủy Bình Định Tỉnh ủy Bình Định (1974), Báo cáo tình hình địch ta (Từ ), Tài liệu lưu trữ Tỉnh ủy Bình Định Tỉnh ủy Quảng Nam Thành ủy Đà Nẵng (1997), Những ngày giữ lửa. Khởi đầu cuộc đụng đầu lịch sử giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ trên địa bàn Quảng Nam Đà Nẵng ( ), Nxb Đà Nẵng Tỉnh ủy Quảng Nam Thành ủy Đà Nẵng (2006), Lịch sử Đảng bộ Quảng Nam Đà Nẵng ( ), Nxb Chính trị Quốc gia, HN Tỉnh ủy Quảng Ngãi (1960), Công văn về tình hình một số mặt hoạt động của tỉnh, tài liệu lưu trữ của Phòng lưu trữ Tỉnh ủy Quảng Ngãi, cặp hồ sơ số Tỉnh ủy Quảng Ngãi (1968), Báo cáo tổng kết phong trào thi đua của tỉnh năm 1968, Tài liệu lưu trữ của Phòng lưu trữ tỉnh ủy Quảng Ngãi, cặp hồ sơ số

177 154. Tỉnh ủy Quảng Ngãi (1968), Tạp chí Cờ Hồng (số đặc biệt kỉ niệm Đại hội đại biểu Tỉnh Đảng bộ lần thứ III trong kháng chiến chống Mỹ ( ), Tài liệu lưu trữ tại Phòng lưu trữ Tỉnh ủy Quảng Ngãi, cặp hồ sơ số Trung Nguyên Trung Phần tỉnh Phú Yên (1962), Trích yếu: V/v Hải Đăng Mũi Nậy bị Việt cộng tấn công, TTLT Quốc gia II Tp. Hồ Chí Minh, kí hiệu: Đệ nhất Cộng hòa Trung Trung Bộ đánh giỏi toàn diện (1972), Nxb Quân đội nhân dân, HN Phan Thị Ánh Tuyết (2011), Khu căn cứ Nước Oa, Tạp chí Lịch sử Quân sự tháng , tr Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định (2006), Địa chí Bình Định, Tập Lịch sử, Nxb Đà Nẵng Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định và Sở Khoa học Công Nghệ (2007), Địa chí Bình Định, Tập Kinh tế, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định và Sở Khoa học Công Nghệ xuất bản Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2008), Địa chí Quảng Ngãi, Nxb Từ Điển Bách Khoa, HN Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên Sở Khoa học công nghệ (2007) Vũng Rô Những chuyến tàu lịch sử, Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên Sở Khoa học công nghệ xuất bản Vấn đề xây dựng thực lực chính trị ở miền núi, Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng, kí hiệu K5/ Viện Mác Lênin và Viện Lịch sử Quân sự Bộ Quốc phòng (1986), Nghiên cứu văn kiện của Đảng về chống Mỹ, cứu nước, Nxb Sự Thật, HN Trung Tá Cao Văn Viên Biệt Bộ Tham mưu Trưởng Tổng Thống Phủ (5-1958), Trích yếu: Xin tặng phẩm cho chiến dịch dân vận miền Thượng, TTLT Quốc gia II Tp. Hồ Chí Minh, kí hiệu PTT Đậu Văn Việt (2008), Khu Đông trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở Bình Định ( ), Luận văn Thạc sĩ Đại học Quy Nhơn năm

178 166. VNCH Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu Phòng nhì (1961), Bản nghiên cứu tình hình tỉnh Phú Yên, TTLT Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, kí hiệu Đệ nhất Cộng hòa VNCH Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu Phòng nhì (1961), Kế hoạch bình định tỉnh Phú Yên, TTLT Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, kí hiệu Đệ nhất Cộng hòa VNCH Tòa Hành Chánh Quảng Nam (1959), Phiếu trình Tổng thống VNCH, TTLT Quốc gia II, kí hiệu Đệ nhất Cộng hòa VNCH Quân đội VNCH Vùng I, Khu 12 chiến thuật, Bộ tham mưu Phòng 2, Bản đề nghị mục tiêu oanh kích tại khu 12 chiến thuật, TTLT Quốc Gia II, kí hiệu Đệ nhất Cộng hòa VNCH Quân lực VNCH Vùng II chiến thuật, Khu chiến thuật 22, Tiểu khu Bình Định (1965), Kế hoạch lũng đoạn mật Khu và đường giao liên VC, TTLT Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, kí hiệu hồ sơ: PTT

179 NHÂN CHỨNG LỊCH SỬ 1. Ông Phan Đấu, nguyên cán bộ Văn phòng Liên Khu ủy V, trợ lý Bí thư Khu ủy V Võ Chí Công. Địa chỉ: Số 44, đường Tống Phước Phổ, phường Hòa Cường Bắc, quận Cẩm Lệ, Tp. Đà Nẵng. 2. Bà Vũ Thị Xuân Hồng, nguyên cán bộ Ban Tuyên huấn Quảng Đà. Địa chỉ: Số 02, đường Bình Hòa 3, phường Khuê Trung, quận Cẩm Lệ, Tp. Đà Nẵng. 3. Ông Lê Hữu Lộc, nguyên cán bộ Trung đoàn 2, Sư đoàn 3 Sao Vàng, Trưởng Ban biên tập Báo Quân giải phóng miền Trung Trung Bộ. Địa chỉ: Số 102, đường Nguyễn Văn Thoại, phường Bắc Mỹ An, quận Ngũ Hành Sơn, Tp. Đà Nẵng 4. Ông Mai Văn Mạnh, nguyên cán bộ kho Hậu cần Tỉnh đội Quảng Ngãi ( ). Địa chỉ: Thôn Tân Thạnh, xã Nghĩa An, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. 5. Ông Nguyễn Viết Nghiệm, nguyên cán bộ Ban Tuyên huấn Quân Khu V. Địa chỉ: Số 14, đường 8, phường Bình An, quận 2, Tp. Hồ Chí Minh. 6. Ông Cao Xuân Thiêm, nguyên Phó Chủ Tịch tỉnh Khánh Hòa, cán bộ bám trụ Căn cứ Thồ Lồ và miền Tây Phú Yên ( ). Địa chỉ: Số 303, đường Trường Chinh, phường 2, Tp. Tuy Hòa. 1

180 PHỤ LỤC PHỤ LỤC 1: Bản đồ các tỉnh thuộc địa bàn Quân khu 5... P.1 PHỤ LỤC 2: Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ( )... P.2 PHỤ LỤC 3: Căn cứ địa cách mạng ở Tp. Đà Nẵng trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ( )... P.3 PHỤ LỤC 4: Căn cứ địa cách mạng ở tỉnh Quảng Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ( )... P.4 PHỤ LỤC 5: Căn cứ địa cách mạng ở tỉnh Quảng Ngãi trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ( )... P.5 PHỤ LỤC 6: Căn cứ địa cách mạng ở tỉnh Bình Định trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ( )... P.6 PHỤ LỤC 7: Căn cứ địa cách mạng ở tỉnh Phú Yên trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ( )... P.7 PHỤ LỤC 8: Một số căn cứ địa cách mạng tiêu biểu ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ( )... P.8 PHỤ LỤC 9: Một số căn cứ địa cách mạng tiêu biểu ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ( )... P.11 PHỤ LỤC 10: Một số cuộc nổi dậy ở căn cứ địa miền núi Trung Trung Bộ... P.14 PHỤ LỤC 11: Một số căn cứ địa miền núi Trung Trung Bộ ( )... P.16 PHỤ LỤC 12: Địa điểm đứng chân của cơ quan Liên khu, Khu ủy V trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ... P.17 PHỤ LỤC 13: Một số hình ảnh hoạt động ở căn cứ địa cách mạng... P.18 PHỤ LỤC 14: Các quận (huyện), xã (phường) thuộc địa bàn các căn cứ địa cách mạng được Nhà nước phong tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân... P.24 PHỤ LỤC 15: Mật khu Đỗ Xá... P.27 PHỤ LỤC 16: Bản đề nghị mục tiêu các Khu vực oanh kích... P.28 PHỤ LỤC 17: Kết quả xạ kích các cơ sở Việt cộng trên dải Trường Sơn (phía Tây và Tây Nam Quảng Ngãi)... P.29 PHỤ LỤC 18: Trích yếu v/v Hải Đăng Mũi Nậy bị Việt cộng tấn công... P.32 2

181 PHỤ LỤC 19: Bản nghiên cứu tình hình tỉnh Phú Yên... P.32 3

182 PHỤ LỤC 1 Bản đồ các tỉnh thuộc địa bàn Quân khu 5 Nguồn: Bản đồ phục vụ công tác quốc phòng, địa phương Quân khu 5 Nxb Quân đội nhân dân, HN, 2011 P.1

183 PHỤ LỤC 2 Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ( ) Nguồn: Tác giả tự lập dựa trên Bản đồ phục vụ công tác quốc phòng, địa phương Quân khu 5, Nxb Quân đội nhân dân, HN, 2011 P.2

184 PHỤ LỤC 3 Căn cứ địa cách mạng ở Tp. Đà Nẵng trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ( ) Nguồn: Tác giả tự lập dựa trên Bản đồ phục vụ công tác quốc phòng, địa phương Quân khu 5, Nxb Quân đội nhân dân, HN, 2011 P.3

185 PHỤ LỤC 4 Căn cứ địa cách mạng ở tỉnh Quảng Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ( ) Nguồn: Tác giả tự lập dựa trên Bản đồ phục vụ công tác quốc phòng, địa phương Quân khu 5 Nxb Quân đội nhân dân, HN, 2011 P.4

186 PHỤ LỤC 5 Căn cứ địa cách mạng ở tỉnh Quảng Ngãi trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ( ) Nguồn: Tác giả tự lập dựa trên Bản đồ phục vụ công tác quốc phòng, địa phương Quân khu 5, Nxb Quân đội nhân dân, HN,

187 PHỤ LỤC 6 Căn cứ địa cách mạng ở tỉnh Bình Định trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ( ) Nguồn: Tác giả tự lập dựa trên Bản đồ phục vụ công tác quốc phòng, địa phương Quân khu 5, Nxb Quân đội nhân dân, HN,

188 PHỤ LỤC 7 Căn cứ địa cách mạng ở tỉnh Phú Yên trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ( ) Nguồn: Tác giả tự lập dựa trên Bản đồ phục vụ công tác quốc phòng, địa phương Quân khu 5, Nxb Quân đội Nhân dân, HN,

189 PHỤ LỤC 8 Một số căn cứ địa cách mạng tiêu biểu ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ( ) T T Tên gọi và thời gian thành lập Địa điểm, quy mô và địa hình Dân số và lực lượng kháng chiến Tổ chức căn cứ địa cách mạng - Căn cứ nổi bao gồm dân - Có bến đưa cán bộ tất cả ngư dân và - Nơi đứng chân của ra Bắc vào Nam - Sông Đà những người sống cán bộ cấp Khu, 1 (B36) bằng nghề sông biển Tỉnh, Thành ủy Đà từ Cẩm Lệ xuống dọc Nẵng sông Hàn, vòng quanh qua Vũng Thùng - Vùng núi phía Tây - Nơi đứng chân của - Có các trại sản 2 - Trung Man huyện Hòa Vang huyện ủy Hòa Vang, bộ đội chủ lực Khu V, tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng xuất - Có xưởng cơ khí chế lựu đạn và sửa chữa súng của Tỉnh đội - Huyện Tiên Phước - Nơi đứng chân của - Có Trường Thiếu Tỉnh ủy Quảng Nam sinh quân, các trại - Nơi đứng chân của sản xuất, xưởng 3 - Tiên Phước một số đơn vị bộ đội Lào, Campuchia - Nơi đóng cơ quan phòng Biên chính Hạ quân giới của Tỉnh đội, xưởng sản xuất giấy của Ban Trợ cấp tự túc tỉnh, Lào bệnh viện quân y, kho thóc nông nghiệp của Tỉnh - Khu kháng - Bao gồm các xã Tam - Nơi tập luyện chiến - Khu trưởng : Ông 4 chiến Hạ Dân, Tam Thái, Tam đấu, học tập chính trị, Xi Thôn Com Lào Đại, Tam An, Tam quân sự; nơi cung cấp Ma Đăm 8

190 Phước (Phú Ninh) và vũ khí lương thực, - Phó Trưởng khu: xã Tam Ngọc (thành quân trang quân dụng Ông Xổm Man phố Tam Kỳ) ngày cho chiến trường Lào Nô Viêng và Ông nay Đoàn Huyên - Mỗi đợt huấn luyện có trên 600 chiến sĩ của Lào - Vùng núi Cao Muôn - Nơi đứng chân của Ban chỉ huy Đội: 5 - Cao Muôn thuộc phía Tây nam xã Ba Chùa (huyện Ba đội Du kích Ba Tơ - Quân số 17 người Phạm Kiệt, Nguyễn Đôn, Nguyễn Tơ) Khoách - Phía Tây huyện Mộ - Nơi đứng chân của - Có kho lương Đức đội Du kích Ba Tơ thực, lò rèn sản - Đại đội Phan Đình xuất vũ khí vũ trang 6 - Núi Lớn Phùng với 5 trung đội cho du kích và tự vệ, - Có nơi ở và làm việc của cơ quan ấn loát, tạp chí Xung Phong - Thuộc thôn Vĩnh - Nơi đứng chân của - Xưởng công binh Tuy, xã Tịnh Hiệp, đội Du kích Ba Tơ Từ Nhại 7 - Vĩnh Sơn (hay Vĩnh Tuy) huyện Sơn Tịnh (Quảng Ngãi) - Là nơi có địa thế núi non hiểm trở và có đầu mối giao thông - Đại đội Hoàng Hoa Thám với 5 trung đội với các huyện Sơn Hà, Trà Bồng, Minh Long, Tư Nghĩa, Bình Sơn 8 - Khu ủy Khu V Ở thôn Thế Thạnh, xã Ân Thạnh, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định. - Nơi đóng và làm việc của cơ quan Khu ủy Khu V. - Cơ quan Liên Khu ủy Liên khu V, Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam 9

191 Trung bộ, cơ quan Thông tin tuyên truyền, Tòa án, Tư pháp, Mặt trận Liên Việt, Nhà xuất bản Sự Thật, Nhà in Sao Vàng, Cơ quan in bạc Tín phiếu - Địa hình của căn cứ - Dân số khoảng Có chính quyền, này rất hiểm trở với người các tổ chức đoàn núi cao, rừng rậm, - Là nơi đứng chân của thể 9 - Thồ Lồ sông suối bao bọc xung quanh, giáp ranh các cơ quan Tỉnh Phú Yên - Đội vũ trang công tác 250 hai tỉnh Bình Định và Gia Lai - Diện tích 400 km². - Địa hình hiểm trở và - Là nơi đứng chân - Có xưởng quân có tầm quan sát địch của Tỉnh ủy Phú Yên giới Triêm Đức, 10 - Xuân Quang (Đồng Xuân) rất rộng. - Vùng đất này giáp ranh nhiều tỉnh: Bình Định, Gia Lai, Đắc Lắc, tiện liên lạc với Khu ủy V. - Đại đội du kích tập trung và trung đội dân quân tự vệ Vực Ông; xưởng sản xuất giấy Phước Lộc - Diện tích: 352, 5 km². Nguồn: Nghiên cứu sinh lập trên cơ sở số liệu từ tài liệu tham khảo 10

192 PHỤ LỤC 9 Một số căn cứ địa cách mạng tiêu biểu ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ( ) TT Tên Căn cứ địa Địa hình 1 Nước Là Rừng núi hiểm trở 2 Nước Oa Rừng núi hiểm trở 3 Phước Trà Rừng núi hiểm trở 4 Sông Đà (B36) 5 K20 Cửa sông, ven biển Đồng ruộng, sông lạch 6 B1 Rừng núi hiểm trở 7 8 Rừng dừa Bảy Mẫu Sơn Cẩm Hà Sông nước, nhiều cây cối chủ yếu là dừa nước Núi giáp đồng bằng 9 Tiên Sơn Núi giáp đồng bằng 10 Quế Tiên Núi giáp đồng bằng Tổ chức căn cứ địa Nơi đứng chân của Khu ủy và BTL Quân khu V Nơi đứng chân của Liên Khu ủy Ban Quân sự Khu V Nơi đứng chân của Khu ủy Quân Khu V; Có chính quyền, LLVT cấp huyện Nơi đứng chân của Thành ủy Đà Nẵng, Đảng bộ Khu Sông Đà Nơi đứng chân của Thành ủy Đà Nẵng, Quận ủy Quận Ba, Đặc Khu ủy Quảng Đà và các LLVT Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Nơi đứng chân của Tỉnh ủy Quảng Nam Đà Nẵng Nơi đứng chân của Thị ủy và LLVT thị xã Hội An Nơi đứng chân của Tỉnh ủy Quảng Nam Nơi đứng chân của Tỉnh ủy Quảng Nam Tương đương với huyện, có 10 xã: Sơn Hòa, Sơn An, Sơn Bình, Sơn Hiệp, Sơn Tân, Bình Lâm, Thăng Phước, Phước Sơn, Phước Cẩm, Phước Hà 11

193 11 Nam Trà Rừng núi 12 Lam Sơn Rừng núi 13 Bầu Bính Nổng cát, ruộng lúa 14 Hòn Tàu Rừng núi hiểm trở 15 Trà Bồng Rừng núi hiểm trở 16 Sơn Trà Rừng núi hiểm trở 17 Sơn Tây Rừng núi hiểm trở 18 Vĩnh Tuy Núi giáp đồng bằng 19 Ba Làng An Đồng bằng ven biển Rừng núi hiểm trở 20 Núi Bà giáp với biển và đồng bằng 21 Hòn Chè Rừng núi hiểm trở Tương đương cấp Đặc Khu gồm các huyện: Phước Sơn, Nam Trà My, Bắc Trà My Tương đương cấp Đặc Khu các huyện: Nam Giang, Đông Giang, Tây Giang Nơi đứng chân của huyện ủy và LLVT Thăng Bình Nơi đứng chân của Đặc khu ủy Quảng Đà, Bộ Tư lệnh Mặt trận 4 và LLVT Quân khu V và nhiều cơ quan thuộc Thành ủy Đà Nẵng Tương đương cấp huyện, trong căn cứ có Huyện ủy, Huyện đội Trà Bồng Tương đương cấp Đặc Khu gồm các huyện Sơn Tây và Trà Bồng Tương đương cấp huyện, trong căn cứ có Huyện ủy, Huyện đội Sơn Tây Nơi đứng chân của cơ quan lãnh đạo Khu V, Tỉnh Quảng Ngãi và Huyện ủy Sơn Tịnh Gồm các xã Bình Phú, Bình Châu, Bình Tân (Bình Sơn), Tịnh Kì, Tịnh Hòa, Tịnh Khê (Sơn Tịnh): nơi đứng chân của sở chỉ huy tiền phương tỉnh Quảng Ngãi Nơi đứng chân của Khu Đông Bình Định và Ban chỉ đạo tiền phương của tỉnh, các cơ quan của tỉnh Nơi đứng chân của Tỉnh ủy Bình Định 12

194 22 Hầm Hô Nơi đứng chân của cán bộ Khu, Rừng núi hiểm trở tỉnh Bình Định, huyện Tây Sơn 23 Thồ Lồ - Ma Nơi đứng chân của Tỉnh ủy Phú Rừng núi hiểm trở Dú Yên 24 Vân Hòa Nơi đứng chân của Tỉnh ủy Phú Rừng núi hiểm trở Yên 25 Miền Đông Đồng bằng ven biển Nơi đứng chân của lực lượng cách mạng huyện Tuy Hòa 1 Nơi đứng chân của các lực lượng 26 Miền Tây Rừng núi hiểm trở Liên khu V, tỉnh Phú Yên và huyện Tuy Hòa 1 27 Đá Bàn Núi giáp đồng bằng Nơi đứng chân của Thị ủy Tuy Hòa 28 Tây Nam Rừng núi hiểm trở Tương đương cấp huyện, trong căn cứ có Huyện ủy, Huyện đội Nguồn: Nghiên cứu sinh lập trên cơ sở số liệu từ tài liệu tham khảo 13

195 TT PHỤ LỤC 10 Một số cuộc nổi dậy ở căn cứ địa miền núi Trung Trung Bộ ( ) Thời gian đến cuối Địa phương Vĩnh Thạnh Huyện Trà Bồng và miền Tây Lực lượng tham gia - Đảng bộ huyện Vĩnh Thạnh - Nhân dân 11 làng thuộc 2 xã Vĩnh Hiệp, Vĩnh Hảo - Tỉnh ủy Quảng Ngãi, Ban cán sự miền Tây lãnh đạo - Đồng bào Cor, Hrê, Cadong, Kinh - Có sự hỗ trợ của đơn 339, 299, 89 Kết quả - Phá kế hoạch dồn dân của địch, xây dựng làng chiến đấu. - Vùng giải phóng Vĩnh Hiệp và toàn huyện vẫn được giữ vững - Đốt cháy đồn địch, phá vỡ cuộc bầu cử quốc hội bù nhìn của chế độ Mỹ - Diệm xã các huyện miền Tây được hoàn toàn giải phóng Đầu năm Làng Ông Tía, xã Phước Nham, huyện Phước Sơn (Quảng Nam An Lão (Bình Định) Miền Tây (Phú Yên) - Huyện ủy Phước Sơn lãnh đạo - 30 gia đình nhân dân làng Ông Tía - Có sự hỗ trợ của lực lượng tự vệ - Huyện ủy An Lão - Nhân dân các làng ở An Lão - Tỉnh ủy Phú Yên lãnh đạo Đội vũ trang công tác, 20 dân quân du kích của 2 xã Thồ Lồ và Phú Mỡ - Tiêu diệt toàn bộ tiểu đội ngụy quân đóng tại đây, thu 6 khẩu súng và toàn bộ đạn dược.. - Xây dựng làng Ông Tía thành làng chiến đấu - Giành quyền làm chủ ở các xã An Đồng, An Tân, An Ninh, An Cư, An Dân, An Mỹ - Giải phóng ấp Phú Giang với khoảng dân 14

196 - Tỉnh ủy Quảng Ngãi, Ban - Phá hàng loạt các cán sự miền Tây lãnh đạo đồn địch Đồng bào Kinh Thượng - Hình thành vùng - Có sự hỗ trợ của LLVT căn cứ địa và vùng Huyện Trà Bồng và miền Tây giải phóng gồm 54 xã hoàn toàn giải phóng (thuộc huyện Trà Bồng, Sơn Tây, Sơn Hà, Ba Tơ Minh Long) - Thành lập chính quyền tự quản ở các thôn, xã) - Tỉnh ủy Phú Yên lãnh đạo - Giành quyền làm Ban cán sự miền Tây, nhân chủ ở các xã Quang dân địa phương và sự hỗ trợ Hiển, Tân Vinh, Miền Tây (Phú Yên) của các đơn vị vũ trang Phước Tân, Phước Thuận, Đá Mài, Phú Mỡ - Thành lập chính quyền tự quản của nhân dân An Lão (Bình Định) - Huyện ủy An Lão - Đồng bào trong khu tập Gò Nĩ Đất Dài - Có sự hỗ trợ của đơn vị 2/9 - Phá khu tập trung, bung về làng cũ Nguồn: Nghiên cứu sinh lập trên cơ sở số liệu từ tài liệu tham khảo 15

197 PHỤ LỤC 11 Một số căn cứ địa miền núi Trung Trung Bộ ( ) Năm Địa phương Số dân Số dân Số dân Số dân Vùng mở Vùng Vùng Vùng địch ra trong căn cứ tranh chấp kiểm soát năm 1961 (Người) (Người) (Người) (Người) Miền Tây Quảng Nam Miền Tây Quảng Ngãi Miền Tây Bình Định Miền Tây Phú Yên Miền Tây Quảng Đà Miền Tây Quảng Nam Miền Tây Quảng Ngãi Miền Tây Bình Định Miền Tây Phú Yên Nguồn: Nghiên cứu sinh lập dựa trên cơ sở Báo cáo số liệu , tài liệu lưu tại Kho lưu trữ BTL Quân khu V 16

198 PHỤ LỤC 12 Địa điểm đứng chân của cơ quan Liên khu, Khu ủy V trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ STT Thời gian Biệt Những tên làng, nóc, nước, xã, huyện danh nơi đóng cơ quan Chân núi Bạch Mã Thừa Thiên Huế Trung Mang, huyện Hiên, phía Tây Đà Nẵng Nam huyện Hiên, Quảng Nam Đà Nẵng A1 Nước Là xã Can, huyện Trà My A2 Xã Ngheo Nóc Ông Một dốc Voi huyện Trà My A3 Xã Kỳ Sơn, Kỳ Quế, huyện Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng A4 Nóc ông Đồi, xã Trà Giác, huyện Trà My, tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng A6 Nước Leng xã Trà Leng, huyện Trà My A6 Nước Ta thôn Xuân Rỉa, xã Íp, huyện Trà My A7 Tây Quế Sơn trên cây gỗ vuông A7 Tây Duy Xuyên, Quảng Nam A81/2 Xã Phước Thành, Phước Sơn tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng A9 Sông Thanh, huyện Giằng A10 Làng A Rỏ huyện Giằng A11 Nước Leng xã Trà Leng, huyện Trà My A12 Xuân Rỉa, xã Íp, huyện Trà My A13 Nước I, Trà My A13 Nước Oa thôn 3, Trà My A14 Xã Phước Gia, Phước Trà huyện Hiệp Đức, Quảng Nam Nguồn: Quá trình xây dựng và truyền thống của Ban Tổ chức Liên Khu ủy V ( ), Ban Liên lạc Ban Tổ chức Liên Khu ủy V xuất bản năm

199 PHỤ LỤC 13 Một số hình ảnh hoạt động ở căn cứ địa cách mạng Đội vũ trang công tác Căn cứ Thồ Lồ Gặp mặt Đội diệt ác ở Căn cứ Thồ Lồ năm 1957 Nguồn: Các dân tộc thiểu số miền Tây Phú Yên trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Sở Khoa học và Công nghệ Phú Yên xuất bản năm 2010 Học tập Nghị quyết 15 của BCHTƯ Đảng khóa II tại căn cứ địa miền núi Quảng Nam (đầu tháng ) Nhân dân vận chuyển vũ khí, lương thực về căn cứ địa cách mạng tỉnh Quảng Nam (1962) N NhàNguồn: Quảng Nam 45 năm vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, Nxb Thông tấn, HN, 18

200 Một buổi sinh hoạt chính trị ở căn cứ địa (1964) Chông treo, một loại chông được sử dụng phổ biến để bảo vệ căn cứ địa ở Quảng Nam N NhàNguồn: Quảng Nam 45 năm vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, Nxb Thông tấn, HN, 2010 Ban chấp hành Khu ủy V cùng các Đại biểu Chiến sĩ thi đua diệt Mỹ tại Căn cứ Trà My (1966) Hội nghị Khu ủy tại Căn cứ Sông Thanh (Nam Giang) 1968 Nguồn: Nhà truyền thống Khu di tích Phước Trà 19

201 Thường vụ Khu ủy V họp bàn triển khai công tác tại Căn cứ Trà My năm 1969 Toàn cảnh Đại hội Đảng bộ Khu V lần thứ III năm 1970 tại Căn cứ Nam Giang Nguồn: Nhà truyền thống Khu di tích Phước Trà Di tích Căn cứ Rừng Nà (xã Đức Thạnh, huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi) Khu ruộng sản xuất của Tỉnh ủy ở Căn cứ địa Bàu Sơn (Quảng Ngãi) Nguồn: Ban Tuyên giáo Tỉnh Quảng Ngãi 20

202 Thanh niên xung phong Căn cứ địa Vĩnh Thạnh tải đạn ra chiến trường phục vụ chiến dịch mùa Xuân năm 1972 Tăng gia sản xuất ở căn cứ địa Trung chuyển hàng từ căn cứ địa ra Một cửa hàng mậu dịch chiến trường trong Căn cứ địa Vĩnh Thạnh Nguồn: Bảo tàng Bình Định 21

203 Các dân tộc tham gia mở đường lên Xây dựng lán trại cho cơ quan Tỉnh ủy Căn cứ Bàu Nung ở căn cứ địa miền núi tỉnh Quảng Ngãi Nguồn: Ban Tuyên giáo Tỉnh Quảng Ngãi Vũng Rô nơi tiếp nhận vũ khí từ những chuyến tàu Không số, năm1964 Nguồn: Lịch sử căn cứ địa cách mạng tỉnh Phú Yên trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược , Nxb Chính trị Quốc gia, HN,

204 Hầm trú ẩn của Bí thư Khu ủy V Võ Chí Công tại Căn cứ Phước Trà Ao cá tại Căn cứ Phước Trà Nhà làm việc của Bí thư Khu ủy V Võ Chí Công tại Căn cứ Phước Trà Một số đồ dùng cá nhân của Bí thư Khu ủy V Võ Chí Công tại Căn cứ Phước Trà Nguồn: Nhà truyền thống Khu di tích Phước Trà 23

205 PHỤ LỤC 14 Các quận (huyện), xã (phường) thuộc địa bàn căn cứ địa cách mạng được Nhà nước phong tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân TT Đơn vị Vùng căn cứ 1 Cán bộ, nhân dân và LLVT và nhân dân Quận Sơn Trà Sông Đà 2 Cán bộ, nhân dân và LLVT và nhân dân phường An Hải Tây Sông Đà 3 Cán bộ, nhân dân và LLVT và nhân dân phường Phước Mỹ Sông Đà 4 Cán bộ, nhân dân và LLVT và nhân dân phường Thọ Quang Sông Đà 5 Cán bộ, nhân dân và LLVT Quận Ngũ Hành Sơn K20 6 Cán bộ, nhân dân và LLVT phường Bắc Mỹ An K20 7 Cán bộ, nhân dân và LLVT huyện Hòa Vang Huyện ủy Hòa Vang 8 Cán bộ, nhân dân và LLVT xã Hòa Thượng (nay là xã Hòa Phú) Huyện ủy Hòa Vang 9 LLVT và nhân dân xã Cẩm Thanh Rừng Dừa Bẩy Mẫu 10 LLVT và nhân dân huyện Tiên Phước Sơn Cẩm Hà 11 LLVT và nhân dân xã Tiên Cẩm Sơn Cẩm Hà 12 LLVT và nhân dân xã Tiên Hà Sơn Cẩm Hà 13 LLVT và nhân dân xã Tiên Sơn Sơn Cẩm Hà 14 LLVT và nhân dân xã Tiên Sơn Tiên Sơn 15 LLVT nhân dân huyện Hiên Hiên 16 LLVT và nhân dân xã Atiêng Hiên 17 LLVT và nhân dân xã Ba Hiên 18 LLVT và nhân dân xã Avương Hiên 19 LLVT và nhân dân huyện Nam Giang Nam Giang 20 LLVT và nhân dân thị trấn Thành Mỹ Nam Giang 21 LLVT và nhân dân xã Chà Val Nam Giang 22 LLVT và nhân dân xã La Dêê Nam Giang 24

206 23 LLVT và nhân dân xã Zuôih Nam Giang 24 LLVT và nhân dân huyện Hiệp Đức Phước Trà 25 LLVT và nhân dân xã Phước Trà Phước Trà 26 LLVT và nhân dân xã Hòa Hiệp Quế Tiên 27 LLVT và nhân dân xã Quế Bình Quế Tiên 28 LLVT và nhân dân xã Bình Lâm Quế Tiên 29 LLVT và nhân dân xã Quế Thọ Quế Tiên 30 LLVT và nhân dân xã Thăng Phước Quế Tiên 31 LLVT và nhân dân huyện Trà My Nước Oa, Nước Là 32 LLVT và nhân dân xã Trà Mai Nước Là 33 LLVT và nhân dân xã Trà Giác Nước Là 34 LLVT nhân dân xã Bình Dương Bầu Bính 35 LLVT và nhân dân xã Tịnh Hiệp Vĩnh Sơn 36 LLVT và nhân dân xã Sơn Kỳ Bàu Nung 37 LLVT và nhân dân xã Long Môn Long Môn 38 LLVT và nhân dân xã Nghĩa Sơn Đá Sơn 39 LLVT và nhân dân xã Đức Thạnh Rừng Nà 40 LLVT và nhân dân huyện Sơn Tây Sơn Tây 41 LLVT nhân dân huyện Trà Bồng Trà Bồng 42 LLVT và nhân dân xã Trà Sơn Trà Bồng 43 LLVT và nhân dân xã Trà Tân Trà Bồng 44 LLVT và nhân dân xã Trà Hiệp Trà Bồng 45 LLVT và nhân dân xã Trà Bùi Trà Bồng 46 LLVT và nhân dân xã Trà Lâm Trà Bồng 47 LLVT và nhân dân xã Trà Phong (nay thuộc Tây Trà) Trà Bồng 48 LLVT và nhân dân xã Trà Lãnh (nay thuộc Tây Trà) Trà Bồng 49 LLVT và nhân dân xã Trà Trung (nay thuộc Tây Trà) Trà Bồng 50 LLVT và nhân dân xã Trà Giang Trà Bồng 51 LLVT và nhân dân huyện Vĩnh Thạnh Vĩnh Thạnh 52 LLVT và nhân dân xã Vĩnh Hiệp Vĩnh Thạnh 25

207 53 LLVT và nhân dân xã Bình Quang Vĩnh Thạnh 54 LLVT và nhân dân xã Cát Hanh Khu Đông Bình Định 55 LLVT và nhân dân xã Cát Hiệp Khu Đông Bình Định 56 LLVT và nhân dân xã Bình Phú Hầm Hô 57 LLVT và nhân dân xã Phú Mỡ Thồ Lồ -Ma Dú 58 LLVT và nhân dân xã Phước Tân Thồ Lồ - Ma Dú 59 LLVT và nhân dân xã Xuân Phước Thồ Lồ - Ma Dú 60 LLVT và nhân dân xã Cà Lúi Thồ Lồ - Ma Dú 61 LLVT và nhân dân huyện Sơn Hòa Vân Hòa 62 LLVT và nhân dân xã Sơn Định Vân Hòa 63 LLVT và nhân dân xã Sơn Long Vân Hòa 64 LLVT và nhân dân xã Sơn Xuân Vân Hòa 65 LLVT và nhân dân xã Xuân Quang Xuân Quang 66 LLVT và nhân dân xã Hòa Kiến Đá Bàn 67 LLVT và nhân dân xã Hòa Hiệp Miền Đông Tuy Hòa 68 LLVT và nhân dân xã Sông Hinh Tây Nam 69 LLVT và nhân dân xã Hòa Thịnh Miền Tây Tuy Hòa 70 LLVT và nhân dân xã Hòa Mỹ Miền Tây Tuy Hòa 71 LLVT và nhân dân xã Hòa Quang Tuy Hòa 2 72 LLVT và nhân dân xã Hòa Định Tuy Hòa 2 73 LLVT và nhân dân xã An Lĩnh An Lĩnh Tuy An 74 LLVT và nhân dân xã An Xuân Địa đạo Gò Thì Thùng 75 LLVT và nhân dân xã An Dân Gò Chay Mỹ Long Nguồn: Nghiên cứu sinh lập trên cơ sở số liệu từ tài liệu tham khảo 26

208 PHỤ LỤC 15 Mật khu Đỗ Xá Nguồn: TTLT Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, Kí hiệu hồ sơ: PTT

209 PHỤ LỤC 16 Bản đề nghị mục tiêu các Khu vực oanh kích thuộc Vùng I chiến thuật Nguồn: TTLT Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, kí hiệu hồ sơ: Đệ nhất Cộng hòa

210 PHỤ LỤC 17 Kết quả xạ kích các cơ sở Việt cộng trên dải Trường Sơn (phía Tây và Tây Nam Quảng Ngãi) Nguồn: TTLT Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, kí hiệu hồ sơ: Đệ nhất Cộng hòa 7500) 29

211 PHỤ LỤC 18 Trích yếu v/v Hải Đăng Mũi Nậy bị Việt cộng tấn công 30

212 Nguồn: TTLT Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, kí hiệu hồ sơ: Đệ nhất Cộng hòa

213 PHỤ LỤC 19 Bản nghiên cứu tình hình tỉnh Phú Yên 32

19/12/2014 Do Georges Nguyễn Cao Đức JJR 65 chuyễn lại GIÁO DỤC MIỀN NAM

19/12/2014 Do Georges Nguyễn Cao Đức JJR 65 chuyễn lại GIÁO DỤC MIỀN NAM http://boxitvn.blogspot.fr/2014/12/giao-duc-mien-nam-viet-nam-1954-1975.html 19/12/2014 Do Georges Nguyễn Cao Đức JJR 65 chuyễn lại GIÁO DỤC MIỀN NAM VIỆT NAM (1954-1975) TRÊN CON ĐƯỜNG XÂY DỰNG VÀ PHÁT

Chi tiết hơn

73 năm trôi qua, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã cho thấy bài học đoàn kết, lấy dân làm gốc có ý nghĩa sâu sắc. Những ngày mùa Thu tháng Tám của

73 năm trôi qua, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã cho thấy bài học đoàn kết, lấy dân làm gốc có ý nghĩa sâu sắc. Những ngày mùa Thu tháng Tám của 73 năm trôi qua, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã cho thấy bài học đoàn kết, lấy dân làm gốc có ý nghĩa sâu sắc. Những ngày mùa Thu tháng Tám của 73 năm về trước, từ Khu Giải phóng Tân Trào, lệnh Tổng

Chi tiết hơn

1

1 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ THANH TRÚC TƯ TƯỞNG NHÂN SINH CỦA MINH MẠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN

Chi tiết hơn

Thứ Tư Số 363 (6.615) ra ngày 28/12/ CHỦ TỊCH NƯỚC TRẦN ĐẠI QUANG: XUẤT BẢN TỪ NĂM 1985 BỘ TRƯỞNG LÊ

Thứ Tư Số 363 (6.615) ra ngày 28/12/ CHỦ TỊCH NƯỚC TRẦN ĐẠI QUANG: XUẤT BẢN TỪ NĂM 1985 BỘ TRƯỞNG LÊ Thứ Tư Số 363 (6.615) ra ngày 28/12/2016 http://phapluatplus.vn CHỦ TỊCH NƯỚC TRẦN ĐẠI QUANG: BỘ TRƯỞNG LÊ THÀNH LONG: Lực lượng Công an phải tin và dựa vào nhân dân S áng 27/12, tại Hà Nội, Chủ tịch nước

Chi tiết hơn

"NHÂN-QUẢ" & ĐẠO ĐỨC

NHÂN-QUẢ & ĐẠO ĐỨC 76 CHUYÊN MỤC SỬ HỌC - NHÂN HỌC - NGHIÊN CỨU TÔN GIÁO TIẾN TRÌNH THỐNG NHẤT HAI MIỀN NAM - BẮC TRÊN CÁC LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ, KINH TẾ, VĂN HÓA, XÃ HỘI TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ (1954-1975) TRẦN THỊ

Chi tiết hơn

NguyenThiThao3B

NguyenThiThao3B BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ LAO ĐỘNG - THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG XÃ HỘI NGUYỄN THỊ THẢO NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC CẤP XÃ, HUYỆN YÊN ĐỊNH, TỈNH THANH HÓA LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN

Chi tiết hơn

ĐỀ CƯƠNG BÁO CÁO CHÍNH TRỊ TRÌNH ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ XV

ĐỀ CƯƠNG BÁO CÁO CHÍNH TRỊ TRÌNH ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ  TỈNH LẦN THỨ XV TỈNH ỦY THỪA THIÊN HUẾ * Số 391-BC/TU ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Thành phố Huế, ngày 15 tháng 10 năm 2015 XÂY DỰNG ĐẢNG BỘ VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH; PHÁT HUY SỨC MẠNH TOÀN DÂN; PHÁT TRIỂN

Chi tiết hơn

TRIỆU LUẬN LƯỢC GIẢI

TRIỆU LUẬN LƯỢC GIẢI TRIỆU LUẬN LƯỢC GIẢI Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực --o0o-- LỜI DỊCH GIẢ Triệu Luận là một tuyệt tác của ngài Tăng Triệu, từ xưa rất nổi tiếng tại

Chi tiết hơn

(Microsoft Word - Ph? k\375 t?c \320?A TH? PHONG2)

(Microsoft Word - Ph? k\375 t?c \320?A TH? PHONG2) Phả ký tộc ÐỊA THẾ PHONG-THỦY CỦA HÀ-NỘI, HUẾ, SÀI-GÒN VÀ VẬN MỆNH CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM. Source: http://www.vietnamgiapha.com Từ xưa đến nay, việc lựa chọn một khu vực thích hợp và thuận tiện làm thủ đô

Chi tiết hơn

ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN Giảng giải: Đại Sư Ấn Quang Việt dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa PHẦN MƯỜI TÁM 17

ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN Giảng giải: Đại Sư Ấn Quang Việt dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa PHẦN MƯỜI TÁM 17 ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN Giảng giải: Đại Sư Ấn Quang Việt dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa PHẦN MƯỜI TÁM 17. KHUYÊN KHẮP MỌI NGƯỜI KÍNH TIẾC GIẤY CÓ CHỮ VÀ TÔN KÍNH KINH SÁCH (Năm Dân Quốc 24-1935).

Chi tiết hơn

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ QUỐC PHÒNG AN NINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Lê Văn Tú * Nguyễn Hoàng Ân * Nguyên Tuấn Vũ * Tóm tắt nội dung: N

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ QUỐC PHÒNG AN NINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Lê Văn Tú * Nguyễn Hoàng Ân * Nguyên Tuấn Vũ * Tóm tắt nội dung: N QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ QUỐC PHÒNG AN NINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Lê Văn Tú * Nguyễn Hoàng Ân * Nguyên Tuấn Vũ * Tóm tắt nội dung: Nền quốc phòng an ninh của nước ta dưới lá cờ vinh quang

Chi tiết hơn

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG NGUYỄN THỊ THU HIỀN XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CƠ SỞ Ở PHƯỜNG NINH PHONG, THÀNH PHỐ

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG NGUYỄN THỊ THU HIỀN XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CƠ SỞ Ở PHƯỜNG NINH PHONG, THÀNH PHỐ BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG NGUYỄN THỊ THU HIỀN XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CƠ SỞ Ở PHƯỜNG NINH PHONG, THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ

Chi tiết hơn

Bài thu hoạch chính trị hè Download.com.vn

Bài thu hoạch chính trị hè Download.com.vn BÀI THU HOẠCH CHÍNH TRỊ HÈ 2018 - Mẫu số 1 Câu 1. Hãy trình bày những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của Nghị quyết 26- NQ/TW ngày 19/5/2018 của Ban chấp hành trung ương khóa XII về tập trung xây dựng đội

Chi tiết hơn

Luận văn tốt nghiệp

Luận văn tốt nghiệp ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ĐẬU THỊ TRÀ GIANG GIẢI PHÁP GIẢM NGHÈO TẠI HUYỆN ĐỨC CƠ, TỈNH GIA LAI TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ PHÁT TRIỂN Mã số: 60.31.01.05 Đà Nẵng Năm 2017 Công trình được

Chi tiết hơn

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG NGUYỄN THỊ MINH HƯỜNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ BẰNG VIỆT Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: TÓ

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG NGUYỄN THỊ MINH HƯỜNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ BẰNG VIỆT Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: TÓ BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG NGUYỄN THỊ MINH HƯỜNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ BẰNG VIỆT Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Chi tiết hơn

năm TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LONG TRƯỜNG

năm TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LONG TRƯỜNG năm TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LONG TRƯỜNG M Lời mở đầu ột thập kỉ đi qua chưa thể coi là một hành trình dài trong sự nghiệp trăm năm trồng người. Nhưng với trường THPT Long Trường, 10 năm đầu tiên trong

Chi tiết hơn

193 MINH TRIẾT KHUYẾN THIỆN - TRỪNG ÁC VÌ HÒA BÌNH CỦA PHẬT GIÁO HIỂN LỘ QUA VIỆC THỜ HAI VỊ HỘ PHÁP TRONG NGÔI CHÙA NGƯỜI VIỆT Vũ Minh Tuyên * Vũ Thú

193 MINH TRIẾT KHUYẾN THIỆN - TRỪNG ÁC VÌ HÒA BÌNH CỦA PHẬT GIÁO HIỂN LỘ QUA VIỆC THỜ HAI VỊ HỘ PHÁP TRONG NGÔI CHÙA NGƯỜI VIỆT Vũ Minh Tuyên * Vũ Thú 193 MINH TRIẾT KHUYẾN THIỆN - TRỪNG ÁC VÌ HÒA BÌNH CỦA PHẬT GIÁO HIỂN LỘ QUA VIỆC THỜ HAI VỊ HỘ PHÁP TRONG NGÔI CHÙA NGƯỜI VIỆT Vũ Minh Tuyên * Vũ Thúy Hằng ** Như thách thức cùng năm tháng, như nằm ngoài

Chi tiết hơn

Luan an dong quyen.doc

Luan an dong quyen.doc HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN MINH LUÂN N NG NGHIÖP TØNH Cµ MAU PH T TRIÓN THEO H íng BÒN V NG LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ Mã số: 62 31 01 02 Người hướng dẫn khoa học:

Chi tiết hơn

ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN Giảng giải: Đại Sư Ấn Quang Việt dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa PHẦN MƯỜI HAI 19

ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN Giảng giải: Đại Sư Ấn Quang Việt dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa PHẦN MƯỜI HAI 19 ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN Giảng giải: Đại Sư Ấn Quang Việt dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa PHẦN MƯỜI HAI 19. LỜI TỰA CHO BỘ TỊNH ĐỘ THÁNH HIỀN LỤC (Năm Dân Quốc 22 1933). Pháp Môn Tịnh Độ rộng

Chi tiết hơn

MỞ ĐẦU

MỞ ĐẦU HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH ****************** NGUYỄN KIM TÔN NÔNG DÂN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Chi tiết hơn

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG NGUYỄN VĂN HIẾU QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BIỂU DIỄN NGHỆ THUẬT CỦA ĐOÀN VĂN CÔNG QUÂN KHU

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG NGUYỄN VĂN HIẾU QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BIỂU DIỄN NGHỆ THUẬT CỦA ĐOÀN VĂN CÔNG QUÂN KHU BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG NGUYỄN VĂN HIẾU QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BIỂU DIỄN NGHỆ THUẬT CỦA ĐOÀN VĂN CÔNG QUÂN KHU 3 LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA Khóa 6 (2016-2018)

Chi tiết hơn

50 n¨m h¶i qu©n nh©n d©n viÖt nam anh hïng

50 n¨m h¶i qu©n nh©n d©n viÖt nam anh hïng BỘ TƯ LỆNH HẢI QUÂN CỤC CHÍNH TRỊ 60 NĂM HẢI QUÂN NHÂN DÂN VIỆT NAM ANH HÙNG (7/5/1955-7/5/2015) (Đề cương tuyên truyền) Tháng 3 năm 2015 Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời,

Chi tiết hơn

Thư Ngỏ Gửi Đồng Bào Hải Ngoại Của Nhà Báo Nguyễn Vũ Bình

Thư Ngỏ Gửi Đồng Bào Hải Ngoại Của Nhà Báo Nguyễn Vũ Bình NGUYỄN VŨ BÌNH Việt Nam và con đường phục hưng đất nước làng văn 2012 1 VIỆT NAM VÀ CON ĐƯỜNG PHỤC HƯNG ĐẤT NƯỚC Tác giả giữ bản quyền cuốn sách Địa chỉ liên lạc: Nguyễn Vũ Bình Phòng 406, số nhà 1C ngách

Chi tiết hơn

ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO: RA SỨC PHẤN ĐẤU THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI NĂM NĂM BẢN LỀ CỦA KẾ HOẠCH 5 NĂM Ngô

ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO: RA SỨC PHẤN ĐẤU THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI NĂM NĂM BẢN LỀ CỦA KẾ HOẠCH 5 NĂM Ngô ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO: RA SỨC PHẤN ĐẤU THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI NĂM 2013. NĂM BẢN LỀ CỦA KẾ HOẠCH 5 NĂM 2011-2015 Ngô Văn Hùng UVTV, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Năm 2012,

Chi tiết hơn

CUỘC ĐẤU TRANH XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN DÂN CHỦ NHÂN DÂN BÀI 1 Lãnh đạo xây dựng và bảo vệ chính quyền, chuẩn bị kháng chiến trong cả

CUỘC ĐẤU TRANH XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN DÂN CHỦ NHÂN DÂN BÀI 1 Lãnh đạo xây dựng và bảo vệ chính quyền, chuẩn bị kháng chiến trong cả CUỘC ĐẤU TRANH XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN DÂN CHỦ NHÂN DÂN 1945-1946 BÀI 1 Lãnh đạo xây dựng và bảo vệ chính quyền, chuẩn bị kháng chiến trong cả nước (1945-1946) 1. Hoàn cảnh lịch sử nước ta sau Cách

Chi tiết hơn

HƯỚNG ĐẠO QUÂN ĐỘI VIỆT NAM CỘNG HOÀ

HƯỚNG ĐẠO QUÂN ĐỘI VIỆT NAM CỘNG HOÀ HƯỚNG ĐẠO QUÂN ĐỘI VIỆT NAM CỘNG HOÀ. Nguyễn-Huy Hùng, Trang 1-10 HƯỚNG ĐẠO QUÂN ĐỘI VIỆT NAM CỘNG HOÀ. (Đôi lời phi lộ : Bài này được viết thể theo lời yêu cầu của nhiều chiến hữu cựu Huynh trưởng Hướng

Chi tiết hơn

Microsoft Word - NOI DUNG BAO CAO CHINH TRI.doc

Microsoft Word - NOI DUNG BAO CAO CHINH TRI.doc NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TỔ CHỨC ĐOÀN, TĂNG CƯỜNG BỒI DƯỠNG LÝ TƯỞNG CÁCH MẠNG, CỔ VŨ THANH NIÊN SÁNG TẠO, XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN XÂY DỰNG QUÊ HƯƠNG BÌNH THUẬN GIÀU ĐẸP, VĂN MINH (Báo cáo của Ban Chấp hành

Chi tiết hơn

Phân tích bài Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn

Phân tích bài Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn Phân tích bài Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn Author : vanmau Phân tích bài Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn Bài làm 1 Trong những áng văn nghị luận trung đại, Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn có một vị trí quan

Chi tiết hơn

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG NGUYỄN DOÃN ĐÀI QUẢN LÝ DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA ĐÌNH HUỀ TRÌ, XÃ AN PHỤ, HUYỆN KIN

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG NGUYỄN DOÃN ĐÀI QUẢN LÝ DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA ĐÌNH HUỀ TRÌ, XÃ AN PHỤ, HUYỆN KIN BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG NGUYỄN DOÃN ĐÀI QUẢN LÝ DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA ĐÌNH HUỀ TRÌ, XÃ AN PHỤ, HUYỆN KINH MÔN, TỈNH HẢI DƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ VĂN

Chi tiết hơn

ĐÈ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 1050 NĂM NHÀ NƯỚC ĐẠI CỒ VIỆT ( ) I. BỐI CẢNH RA ĐỜI NHÀ NƯỚC ĐẠI CỒ VIỆT - Sau chiến thắng đánh tan quân Nam Hán

ĐÈ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 1050 NĂM NHÀ NƯỚC ĐẠI CỒ VIỆT ( ) I. BỐI CẢNH RA ĐỜI NHÀ NƯỚC ĐẠI CỒ VIỆT - Sau chiến thắng đánh tan quân Nam Hán ĐÈ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 1050 NĂM NHÀ NƯỚC ĐẠI CỒ VIỆT (968-2018) I. BỐI CẢNH RA ĐỜI NHÀ NƯỚC ĐẠI CỒ VIỆT - Sau chiến thắng đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng vào cuối năm 938, Ngô Quyền xưng

Chi tiết hơn

C«ng an tØnh B×nh Ph­íc céng hoµ x· héi chñ nghi· viÖt nam

C«ng an tØnh B×nh Ph­íc céng hoµ x· héi chñ nghi· viÖt nam LỊCH SỬ 85 NĂM TRƯỞNG THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Lê Hữu Lưu * Tóm tắt nội dung: Được soi sáng bởi Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, 85 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam,

Chi tiết hơn

C ách đây 43 năm cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã giành thắng lợi hoàn toàn. Ngày 30

C ách đây 43 năm cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã giành thắng lợi hoàn toàn. Ngày 30 C ách đây 43 năm cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã giành thắng lợi hoàn toàn. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã đi vào lịch sử dân tộc như một

Chi tiết hơn

tomtatluanvan.doc

tomtatluanvan.doc BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG HOÀNG THỊ THANH HUYỀN GIẢI PHÁP GIẢM NGHÈO Ở HUYỆN MINH HÓA, TỈNH QUẢNG BÌNH Chuyên ngành: Kinh tế phát triển Mã số: 60.31.05 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Đà

Chi tiết hơn

Số 172 (7.520) Thứ Sáu ngày 21/6/2019 XUẤT BẢN TỪ NĂM http:

Số 172 (7.520) Thứ Sáu ngày 21/6/2019 XUẤT BẢN TỪ NĂM http: Số 172 (7.520) Thứ Sáu ngày 21/6/2019 http://phapluatplus.vn http://tvphapluat.vn http://doanhnhan.vn http://sao.baophapluat.vn Kỷ NIệM 94 NăM NGÀY BÁO CHÍ CÁCH MạNG VIệT NAM (21/6/1925-21/6/2019) Bác

Chi tiết hơn

A

A VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG THỊ HẢI CHUYỂN BIẾN KINH TẾ, XÃ HỘI HUYỆN DUY TIÊN TỈNH HÀ NAM TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2015 Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số : 60.22.03.13.

Chi tiết hơn

nhungvuVCthamsatdanlanhvotoi_2018APR18_wed

nhungvuVCthamsatdanlanhvotoi_2018APR18_wed Tội ác của CSVN Chủ đề: 30-T4-Đ Tác giả: Lê Duy San Những vụ Việt cộng Thảm sát tập thể dân lành vô tội! SỐNG, HỌC TẬP, LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC hcm! LS Lê Duy San - Kể từ khi Việt Minh (tức Việt Cộng)

Chi tiết hơn

A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA Liên Trì Đại Sư Chùa Vân Thê soạn Sớ Sao Pháp Sư Cổ Đức Diễn Nghĩa Giảng giải: Pháp Sư T

A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA Liên Trì Đại Sư Chùa Vân Thê soạn Sớ Sao Pháp Sư Cổ Đức Diễn Nghĩa Giảng giải: Pháp Sư T A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA Liên Trì Đại Sư Chùa Vân Thê soạn Sớ Sao Pháp Sư Cổ Đức Diễn Nghĩa Giảng giải: Pháp Sư Tịnh Không Việt dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hoà TẬP BA Xin mở cuốn Hạ của bộ Kinh,

Chi tiết hơn

Mấy Điệu Sen Thanh - Phần 4

Mấy Điệu Sen Thanh - Phần 4 Mấy Ðiệu Sen Thanh: Phần 4 PHƯƠNG HẢI SANH Đồng tử Phương Hải Sanh là con của cư sĩ Phương Dưỡng Thu ở Hương Cảng. Dưỡng Thu ưa làm việc phước thiện, sau tuổi trung niên lại chuyên tâm hướng về Tịnh độ.

Chi tiết hơn

TRƯỜNG THPT XUÂN ĐỈNH ĐỀ CƯƠNG HỌC KÌ II NĂM HỌC MÔN: LỊCH SỬ KHỐI: 12 Giáo viên : Lê Thùy Dương *** BÀI 21 Câu 1. Nhiệm vụ nào sau đây khôn

TRƯỜNG THPT XUÂN ĐỈNH ĐỀ CƯƠNG HỌC KÌ II NĂM HỌC MÔN: LỊCH SỬ KHỐI: 12 Giáo viên : Lê Thùy Dương *** BÀI 21 Câu 1. Nhiệm vụ nào sau đây khôn TRƯỜNG THPT XUÂN ĐỈNH ĐỀ CƯƠNG HỌC KÌ II NĂM HỌC 2018-2019 MÔN: LỊCH SỬ KHỐI: 12 Giáo viên : Lê Thùy Dương *** BÀI 21 Câu 1. Nhiệm vụ nào sau đây không phải là nhiệm vụ của cách mạng miền Bắc sau 1954?

Chi tiết hơn

CHÍNH THỐNG HAY NGỤY QUYỀN (Trình bày tại Montreal ngày ) Trần Gia Phụng Từ năm 1945 cho đến nay, cộng sản (CS) luôn luôn giành chính nghĩa v

CHÍNH THỐNG HAY NGỤY QUYỀN (Trình bày tại Montreal ngày ) Trần Gia Phụng Từ năm 1945 cho đến nay, cộng sản (CS) luôn luôn giành chính nghĩa v CHÍNH THỐNG HAY NGỤY QUYỀN (Trình bày tại Montreal ngày 30-4-2017) Trần Gia Phụng Từ năm 1945 cho đến nay, cộng sản (CS) luôn luôn giành chính nghĩa về phần mình, gọi Quốc Gia Việt Nam (QGVN) rồi Việt

Chi tiết hơn

Layout 1

Layout 1 MỤC LỤC Mục lục SỰ KIỆN 3 NGUYỄN XUÂN THẮNG: Chủ nghĩa Mác trong thế kỷ XXI và giá trị lý luận đối với con đường phát triển của Việt Nam 13 TẠ NGỌC TẤN: Tổ chức bộ máy hệ thống chính trị - Vấn đề trung

Chi tiết hơn

MỞ ĐẦU

MỞ ĐẦU ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC HỒ HỮU NHẬT ẢNH HƯỞNG VĂN HỌC DÂN GIAN TRONG TRUYỆN THIẾU NHI VIỆT NAM 1975-2010 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM HUẾ - NĂM 2018 ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

Chi tiết hơn

Layout 1

Layout 1 MỤC LỤC Mục lục 3 Thiếp chúc mừng năm mới của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng SỰ KIỆN 4 Kỳ diệu thay Đảng của chúng ta 7 Thông báo Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII

Chi tiết hơn

Đôi điều về thiên tình sử Võ Đông Sơ - Bạch Thu Hà Chủ nhật, 13/09/2015 Dân mê cải lương, hẳn ai cũng thuộc nằm lòng vài câu hát trong bài vọng cổ "Võ

Đôi điều về thiên tình sử Võ Đông Sơ - Bạch Thu Hà Chủ nhật, 13/09/2015 Dân mê cải lương, hẳn ai cũng thuộc nằm lòng vài câu hát trong bài vọng cổ Võ Đôi điều về thiên tình sử Võ Đông Sơ - Bạch Thu Hà Chủ nhật, 13/09/2015 Dân mê cải lương, hẳn ai cũng thuộc nằm lòng vài câu hát trong bài vọng cổ "Võ Đông Sơ" của soạn giả Viễn Châu: "Trời ơi bởi sa cơ

Chi tiết hơn

BỘ 23 ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI MÔN ĐỊA LÝ LỚP 9

BỘ 23 ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI MÔN ĐỊA LÝ LỚP 9 BỘ 23 ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI MÔN ĐỊA LÝ LỚP 9 ĐỀ SỐ 1 Câu 1 (4 điểm) Dựa vào Át lát địa lí Việt Nam và kiến thức đã học em hãy cho biết: Phần đất liền nước ta tiếp giáp với các quốc gia và các cửa khẩu nào?

Chi tiết hơn

MUÏC LUÏC

MUÏC LUÏC Thông tin tư liệu Bình Thuận Tháng 09 năm 2018-1 - MỤC LỤC I. CHÍNH TRỊ - KINH TẾ... 3 BÍ THƯ TỈNH ỦY TỈNH BÌNH THUẬN KIỂM TRA KHO H60... 3 BÌNH THUẬN CHỈ ĐỊNH THẦU DỰ ÁN HƠN 222 TỶ ĐỒNG CHO NHÀ ĐẦU TƯ

Chi tiết hơn

Binh pháp Tôn Tử và hơn 200 trận đánh nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc Chia sẽ ebook : Tham gia cộng đồng chia sẽ sá

Binh pháp Tôn Tử và hơn 200 trận đánh nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc Chia sẽ ebook :   Tham gia cộng đồng chia sẽ sá Binh pháp Tôn Tử và hơn 200 trận đánh nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc Chia sẽ ebook : http://downloadsachmienphi.com/ Tham gia cộng đồng chia sẽ sách : Fanpage : https://www.facebook.com/downloadsachfree

Chi tiết hơn

SỞ GDĐT BẮC NINH PHÒNG QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG ĐỀ TẬP HUẤN THI THPT QUỐC GIA NĂM 2019 Bài thi: KHXH - Môn: Lịch sử Thời gian làm bài: 50 phút (không kể thờ

SỞ GDĐT BẮC NINH PHÒNG QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG ĐỀ TẬP HUẤN THI THPT QUỐC GIA NĂM 2019 Bài thi: KHXH - Môn: Lịch sử Thời gian làm bài: 50 phút (không kể thờ SỞ GDĐT BẮC NINH PHÒNG QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG ĐỀ TẬP HUẤN THI THPT QUỐC GIA NĂM 2019 Bài thi: KHXH - Môn: Lịch sử Thời gian làm bài: 50 phút (không kể thời gian giao đề) (Đề có 40 câu trắc nghiệm) Họ và tên

Chi tiết hơn

Microsoft Word - Tu vi THUC HANH _ edited.doc

Microsoft Word - Tu vi THUC HANH _ edited.doc TỦ SÁCH TỬ VI LÝ SỐ DỊCH LÝ HUYỀN CƠ TỬ VI Nhắn gởi, M ục đích tôi khi viết ra quyển Tử Vi Chính Biện này, sau khi đã tham khảo và học hỏi các sách chính truyền của nhiều bậc danh tiếng tại Trung Hoa,

Chi tiết hơn

Mặt Trận Quốc Dân Đảng Mặt Trận Quốc Dân Đảng hay Quốc Dân Đảng Việt Nam Là một kết hợp chính trị giữa ba chính đảng quốc gia năm 1945 là Đại Việt Quố

Mặt Trận Quốc Dân Đảng Mặt Trận Quốc Dân Đảng hay Quốc Dân Đảng Việt Nam Là một kết hợp chính trị giữa ba chính đảng quốc gia năm 1945 là Đại Việt Quố Mặt Trận Quốc Dân Đảng Mặt Trận Quốc Dân Đảng hay Quốc Dân Đảng Việt Nam Là một kết hợp chính trị giữa ba chính đảng quốc gia năm 1945 là Đại Việt Quốc Dân Đảng của Trương Tử Anh, Đại Việt Dân Chính Đảng

Chi tiết hơn

MỤC LỤC

MỤC LỤC ¹i häc quèc gia hµ néi khoa luët bïi thþ h êng ph p luët vò thùc hiön d n chñ c së ë viöt nam hiön nay - thùc tr¹ng vµ nh ng vên Ò cçn hoµn thiön Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật

Chi tiết hơn

Số 186 (7.169) Thứ Năm, ngày 5/7/ XUẤT BẢN TỪ NĂM 1985 Chính

Số 186 (7.169) Thứ Năm, ngày 5/7/ XUẤT BẢN TỪ NĂM 1985 Chính Số 186 (7.169) Thứ Năm, ngày 5/7/2018 http://phapluatplus.vn http://tvphapluat.vn http://doanhnhan.vn Chính quyền phải lắng nghe nhiều hơn P hát biểu tại cuộc họp của Ban Chỉ đạo Trung ương thực hiện quy

Chi tiết hơn

ÔNG PGS/TS BÙI HIỀN VÀ ĐỨA CON QUÁI THAI TỪ BÊN TÀU GỞI QUA Nguyên Khai BỘ CHỮ TIẾNG VIỆT theo mẫu tự La -Tinh do các Giáo Sĩ Tây phương sáng chế ra g

ÔNG PGS/TS BÙI HIỀN VÀ ĐỨA CON QUÁI THAI TỪ BÊN TÀU GỞI QUA Nguyên Khai BỘ CHỮ TIẾNG VIỆT theo mẫu tự La -Tinh do các Giáo Sĩ Tây phương sáng chế ra g ÔNG PGS/TS BÙI HIỀN VÀ ĐỨA CON QUÁI THAI TỪ BÊN TÀU GỞI QUA Nguyên Khai BỘ CHỮ TIẾNG VIỆT theo mẫu tự La -Tinh do các Giáo Sĩ Tây phương sáng chế ra giữa thế kỷ 16 để dùng vào việc giảng đạo Công Giáo

Chi tiết hơn

ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH

ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TỈNH TIỀN GIANG TÀI LIỆU SINH HOẠT CHI ĐOÀN Tháng 7/2017 Lƣu hành nội bộ HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƢ TƢỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH Học tập gƣơng làm việc suốt đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh 1. Làm việc

Chi tiết hơn

CƠ QUAN CỦA ĐẢNG BỘ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TỈNH LÂM ĐỒNG - TIẾNG NÓI CỦA ĐẢNG BỘ, CHÍNH QUYỀN, NHÂN DÂN LÂM ĐỒNG Tòa soạn: 38 QUANG TRUNG - ĐÀ LẠT Điệ

CƠ QUAN CỦA ĐẢNG BỘ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TỈNH LÂM ĐỒNG - TIẾNG NÓI CỦA ĐẢNG BỘ, CHÍNH QUYỀN, NHÂN DÂN LÂM ĐỒNG Tòa soạn: 38 QUANG TRUNG - ĐÀ LẠT Điệ CƠ QUAN CỦA ĐẢNG BỘ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TỈNH LÂM ĐỒNG - TIẾNG NÓI CỦA ĐẢNG BỘ, CHÍNH QUYỀN, NHÂN DÂN LÂM ĐỒNG Tòa soạn: 38 QUANG TRUNG - ĐÀ LẠT Điện thoại: 3822472-3822473 Fax: 3827608 E-mail: tsbaolamdong@gmail.com

Chi tiết hơn

10 Vạn Câu Hỏi Vì Sao - Tin Học

10 Vạn Câu Hỏi Vì Sao - Tin Học Mười vạn câu hỏi vì sao là bộ sách phổ cập khoa học dành cho lứa tuổi thanh, thiếu niên. Bộ sách này dùng hình thức trả lời hàng loạt câu hỏi "Thế nào?", "Tại sao?" để trình bày một cách đơn giản, dễ hiểu

Chi tiết hơn

NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA Nguyễn Tốt * Tóm tắt nội dung: Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và co

NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA Nguyễn Tốt * Tóm tắt nội dung: Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và co NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA Nguyễn Tốt * Tóm tắt nội dung: Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã trải qua

Chi tiết hơn

SỞ GDĐT BẮC NINH PHÒNG QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG ĐỀ THI THỬ THPT QUỐC GIA NĂM 2019 Bài thi: KHXH - Môn: Lịch sử Thời gian làm bài: 50 phút (không kể thời gia

SỞ GDĐT BẮC NINH PHÒNG QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG ĐỀ THI THỬ THPT QUỐC GIA NĂM 2019 Bài thi: KHXH - Môn: Lịch sử Thời gian làm bài: 50 phút (không kể thời gia SỞ GDĐT BẮC NINH PHÒNG QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG ĐỀ THI THỬ THPT QUỐC GIA NĂM 2019 Bài thi: KHXH - Môn: Lịch sử Thời gian làm bài: 50 phút (không kể thời gian giao đề) (Đề có 40 câu trắc nghiệm) Họ và tên thí

Chi tiết hơn

ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH ĐỊNH

ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH ĐỊNH ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH ĐỊNH HUYỆN ỦY TUY PHƢỚC * Số 185- BC/HU ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Tuy Phước, ngày 03 tháng 8 năm 2018 BÁO CÁO sơ kết giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Tuy Phƣớc lần

Chi tiết hơn

A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA Liên Trì Đại Sư Chùa Vân Thê soạn Sớ Sao Pháp Sư Cổ Đức Diễn Nghĩa Giảng giải: Pháp Sư T

A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA Liên Trì Đại Sư Chùa Vân Thê soạn Sớ Sao Pháp Sư Cổ Đức Diễn Nghĩa Giảng giải: Pháp Sư T A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA Liên Trì Đại Sư Chùa Vân Thê soạn Sớ Sao Pháp Sư Cổ Đức Diễn Nghĩa Giảng giải: Pháp Sư Tịnh Không Việt dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hoà TẬP MỘT Chư vị đồng tu. Hôm nay chúng

Chi tiết hơn

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết dân tộc

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết dân tộc Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết dân tộc Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa kiệt xuất của dân tộc ta và của nhân loại, đã để lại cho chúng ta một di sản tinh thần

Chi tiết hơn

Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du

Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du Author : Kẹo ngọt Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du - Bài làm 1 Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu, tức ngày 3/1/1766 ở kinh thành Thăng Long trong một gia đình

Chi tiết hơn

VỊ TRÍ CỦA VIỆT NAM TRONG THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI HOÀN CẢNH LỊCH SỬ CỦA CỘNG ĐỒNG QUỐC GIA CỘNG SẢN VÀ SỰ PHÂN CHIA LÃNH THỔ ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN CỦA DÂN TỘ

VỊ TRÍ CỦA VIỆT NAM TRONG THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI HOÀN CẢNH LỊCH SỬ CỦA CỘNG ĐỒNG QUỐC GIA CỘNG SẢN VÀ SỰ PHÂN CHIA LÃNH THỔ ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN CỦA DÂN TỘ VỊ TRÍ CỦA VIỆT NAM TRONG THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI HOÀN CẢNH LỊCH SỬ CỦA CỘNG ĐỒNG QUỐC GIA CỘNG SẢN VÀ SỰ PHÂN CHIA LÃNH THỔ ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN CỦA DÂN TỘC Tập tài liệu bạn đang có trong tay là kết tụ những

Chi tiết hơn

PHÁP MÔN TỊNH ÐỘ HT. Trí Thủ ---o0o--- Nguồn Chuyển sang ebook Người thực hiện : Nam Thiên Link A

PHÁP MÔN TỊNH ÐỘ HT. Trí Thủ ---o0o--- Nguồn   Chuyển sang ebook Người thực hiện : Nam Thiên Link A PHÁP MÔN TỊNH ÐỘ HT. Trí Thủ ---o0o--- Nguồn http://www.niemphat.net Chuyển sang ebook 19-6-2009 Người thực hiện : Nam Thiên namthien@gmail.com Link Audio Tại Website http://www.phatphaponline.org Mục

Chi tiết hơn

Hòa Thượng Thích Khánh Hòa ( ) TT.Thích Đồng Bổn ---o0o--- Nguồn Chuyển sang ebook Người thực hiện : Nam Thi

Hòa Thượng Thích Khánh Hòa ( ) TT.Thích Đồng Bổn ---o0o--- Nguồn   Chuyển sang ebook Người thực hiện : Nam Thi Hòa Thượng Thích Khánh Hòa (1877-1947) TT.Thích Đồng Bổn ---o0o--- Nguồn http://www.quangduc.com Chuyển sang ebook 31-8-2009 Người thực hiện : Nam Thiên namthien@gmail.com Link Audio Tại Website http://www.phatphaponline.org

Chi tiết hơn

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG PHẠM THỊ THU HƯƠNG DẠY HỌC MỸ THUẬT THEO HƯỚNG TIẾP CẬN PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC Ở TRƯỜ

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG PHẠM THỊ THU HƯƠNG DẠY HỌC MỸ THUẬT THEO HƯỚNG TIẾP CẬN PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC Ở TRƯỜ BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG PHẠM THỊ THU HƯƠNG DẠY HỌC MỸ THUẬT THEO HƯỚNG TIẾP CẬN PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC THỰC NGHIỆM, VIỆN KHOA HỌC GIÁO DỤC VIỆT

Chi tiết hơn

PHÓNG SANH VẤN ĐÁP

PHÓNG SANH VẤN ĐÁP CÔNG ĐỨC PHÓNG SINH Pháp sư Viên Nhân 1 MỤC LỤC MỤC LỤC... 2 LỜI NÓI ĐẦU... 6 PHẦN I. CÔNG ĐỨC PHÓNG SINH... 14 LỜI DẪN... 14 CHUƠNG I: PHÓNG SINH LÀ GÌ?... 20 Phóng sinh có những công đức gì?... 22 CHUƠNG

Chi tiết hơn

(Microsoft Word - 4_Vuong NC-T\ doc)

(Microsoft Word - 4_Vuong NC-T\ doc) Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 29, Số 2 (2013) 34-49 Động thái hướng tới mô hình Trung Hoa trong nỗ lực hoàn thiện thể chế chính trị - xã hội triều Nguyễn giai đoạn nửa đầu thế

Chi tiết hơn

Cúc cu

Cúc cu HỒI XX Oán Thù Tương Báo, Vĩnh Kết Tơ Duyên Vệ Thiên Nguyên đoán chắc là Phi Phụng nên tinh thần vô cùng hưng phấn, chàng liếc mắt nhìn qua thì quả nhiên là nàng, chàng vội kêu lên: - Phi Phụng, nàng đến

Chi tiết hơn

Nhập môn lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam Nhập môn lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam Bởi: unknown Đối tượng nghiên cứu Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Min

Nhập môn lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam Nhập môn lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam Bởi: unknown Đối tượng nghiên cứu Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Min Nhập môn lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam Bởi: unknown Đối tượng nghiên cứu Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, là đội tiên phong cách mạng, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công

Chi tiết hơn

BAÛN tin 285 THOÂNG TIN NOÄI BOÄ ( ) Taøi lieäu phuïc vuï sinh hoaït chi boä haøng thaùng Sinh hoạt chi bộ: NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH Học tập và làm

BAÛN tin 285 THOÂNG TIN NOÄI BOÄ ( ) Taøi lieäu phuïc vuï sinh hoaït chi boä haøng thaùng Sinh hoạt chi bộ: NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH Học tập và làm BAÛN tin 285 THOÂNG TIN NOÄI BOÄ (11-2018) Taøi lieäu phuïc vuï sinh hoaït chi boä haøng thaùng Sinh hoạt chi bộ: NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh Một

Chi tiết hơn

Giới Nguyện Bồ Đề Tâm Giới nguyện Bồ Đề Tâm gồm mười tám giới nguyện chính và bốn mươi sáu giới nguyện phụ. Vi phạm một giới nguyện chính là vi phạm t

Giới Nguyện Bồ Đề Tâm Giới nguyện Bồ Đề Tâm gồm mười tám giới nguyện chính và bốn mươi sáu giới nguyện phụ. Vi phạm một giới nguyện chính là vi phạm t Giới Nguyện Bồ Đề Tâm Giới nguyện Bồ Đề Tâm gồm mười tám giới nguyện chính và bốn mươi sáu giới nguyện phụ. Vi phạm một giới nguyện chính là vi phạm tất cả giới nguyện Bồ Đề Tâm còn vi phạm một giới nguyện

Chi tiết hơn

Thứ Số 330 (7.313) Hai, ngày 26/11/ XUẤT BẢN TỪ NĂM 1985 TỔN

Thứ Số 330 (7.313) Hai, ngày 26/11/ XUẤT BẢN TỪ NĂM 1985 TỔN Thứ Số 330 (7.313) Hai, ngày 26/11/2018 http://phapluatplus.vn http://tvphapluat.vn http://doanhnhan.vn TỔNG BÍ THƯ, CHỦ TỊCH NƯỚC NGUYỄN PHÚ TRỌNG: ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CAO BẰNG: Kỷ luật một vài

Chi tiết hơn

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ VIỆT HOA GIẢNG DẠY TRUYỆN HIỆN ĐẠI VIỆT NAM Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHO THÔNG LUẬN

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ VIỆT HOA GIẢNG DẠY TRUYỆN HIỆN ĐẠI VIỆT NAM Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHO THÔNG LUẬN BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ VIỆT HOA GIẢNG DẠY TRUYỆN HIỆN ĐẠI VIỆT NAM Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHO THÔNG LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN TP. HỒ CHÍ MINH 2003

Chi tiết hơn

BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG LỊCH SỬ 80 NĂM NGÀNH TUYÊN GIÁO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ( ) NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA Hà Nội CHỈ ĐẠO

BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG LỊCH SỬ 80 NĂM NGÀNH TUYÊN GIÁO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ( ) NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA Hà Nội CHỈ ĐẠO BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG LỊCH SỬ 80 NĂM NGÀNH TUYÊN GIÁO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (1930 2010) NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA Hà Nội - 2010 CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN PGS, TS. TÔ HUY RỨA Uỷ viên Bộ Chính trị,

Chi tiết hơn

Nhìn Lại Thời Vàng Son của Giáo Dục VNCH Trước Năm 1975 GS Phạm Cao Dương Lời giới thiệu của Phạm Trần: Tôi xin chân thành cảm ơn Giáo sư, Tiến sỹ Lịc

Nhìn Lại Thời Vàng Son của Giáo Dục VNCH Trước Năm 1975 GS Phạm Cao Dương Lời giới thiệu của Phạm Trần: Tôi xin chân thành cảm ơn Giáo sư, Tiến sỹ Lịc Nhìn Lại Thời Vàng Son của Giáo Dục VNCH Trước Năm 1975 GS Phạm Cao Dương Lời giới thiệu của Phạm Trần: Tôi xin chân thành cảm ơn Giáo sư, Tiến sỹ Lịch sử Phạm Cao Dương đã có nhã ý gửi cho bài nghiên

Chi tiết hơn

TỔNG HỢP, SƯU TẦM VÀ BIÊN SOẠN BỞI NGUYỄN TRƯỜNG THÁI TỔNG HỢP 1090 CÂU TRẮC NGHIỆM ĐỊA LÍ 12 THEO BÀI BÀI 2. VỊ T

TỔNG HỢP, SƯU TẦM VÀ BIÊN SOẠN BỞI NGUYỄN TRƯỜNG THÁI   TỔNG HỢP 1090 CÂU TRẮC NGHIỆM ĐỊA LÍ 12 THEO BÀI BÀI 2. VỊ T TỔNG HỢP 1090 CÂU TRẮC NGHIỆM ĐỊA LÍ 12 THEO BÀI BÀI 2. VỊ TRÍ ĐỊA LÍ VÀ PHẠM VI LÃNH THỔ Câu 1. Khung hệ tọa độ địa lí của nước ta có điểm cực Bắc ở vĩ độ: A. 23 23'B. B. 23 24'B. C. 23 25'B D. 23 26'B

Chi tiết hơn

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG NGUYỄN NGỌC QUANG HẦU ĐỒNG TẠI PHỦ THƯỢNG ĐOẠN, PHƯỜNG ĐÔNG HẢI 1, QUẬN HẢI AN, TH

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG NGUYỄN NGỌC QUANG HẦU ĐỒNG TẠI PHỦ THƯỢNG ĐOẠN, PHƯỜNG ĐÔNG HẢI 1, QUẬN HẢI AN, TH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG NGUYỄN NGỌC QUANG HẦU ĐỒNG TẠI PHỦ THƯỢNG ĐOẠN, PHƯỜNG ĐÔNG HẢI 1, QUẬN HẢI AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA

Chi tiết hơn

Đề thi thử THPTQG năm 2019 môn Địa Lý THPT Ngô Quyền - Hải Phòng - lần 1

Đề thi thử THPTQG năm 2019 môn Địa Lý THPT Ngô Quyền - Hải Phòng - lần 1 SỞ GD & ĐT TỈNH HẢI PHÒNG TRƯỜNG THPT NGÔ QUYỀN (Đề thi có 05 trang) ĐỀ THI THỬ THPT QUỐC GIA NĂM 2019 LẦN1 Bài thi: KHOA HỌC TỰ NHIÊN Môn thi thành phần: ĐỊA LÝ Thời gian làm bài: 50 phút, không kể thời

Chi tiết hơn

Sáng kiến kinh nghiệm: RÈN KĨ NĂNG CẢM THỤ VĂN HỌC TRONG THẾ ĐỐI SÁNH CHO HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN Người viết: Tiết Tuấn Anh GV tổ Văn - trường THPT

Sáng kiến kinh nghiệm: RÈN KĨ NĂNG CẢM THỤ VĂN HỌC TRONG THẾ ĐỐI SÁNH CHO HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN Người viết: Tiết Tuấn Anh GV tổ Văn - trường THPT Sáng kiến kinh nghiệm: RÈN KĨ NĂNG CẢM THỤ VĂN HỌC TRONG THẾ ĐỐI SÁNH CHO HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN Người viết: Tiết Tuấn Anh GV tổ Văn - trường THPT Chuyên Hưng Yên 1 A. PHẦN MỞ ĐẦU I. Lí do chọn đề tài

Chi tiết hơn

Ngô Thì Nhậm, Khuôn Mặt Trí Thức Lớn Thời Tây Sơn Nguyễn Mộng Giác Nói theo ngôn ngữ ngày nay, Ngô Thì Nhậm là một nhân vất lịch sử gây nhiều tranh lu

Ngô Thì Nhậm, Khuôn Mặt Trí Thức Lớn Thời Tây Sơn Nguyễn Mộng Giác Nói theo ngôn ngữ ngày nay, Ngô Thì Nhậm là một nhân vất lịch sử gây nhiều tranh lu Ngô Thì Nhậm, Khuôn Mặt Trí Thức Lớn Thời Tây Sơn Nguyễn Mộng Giác Nói theo ngôn ngữ ngày nay, Ngô Thì Nhậm là một nhân vất lịch sử gây nhiều tranh luận, một người có vấn đề. Gây tranh luận chẳng những

Chi tiết hơn

Số 196 (7.544) Thứ Hai ngày 15/7/2019 XUẤT BẢN TỪ NĂM http:

Số 196 (7.544) Thứ Hai ngày 15/7/2019 XUẤT BẢN TỪ NĂM http: Số 196 (7.544) Thứ Hai ngày 15/7/2019 http://phapluatplus.vn http://tvphapluat.vn http://doanhnhan.vn http://sao.baophapluat.vn Thường trực Chính phủ bàn giải pháp thúc đẩy thương mại với các đối tác lớn

Chi tiết hơn

NỘI DUNG GIỚI THIỆU LUẬT AN TOÀN, VỆ SINH LAO ĐỘNG NĂM 2015 TRONG BUỔI HỌP BÁO CÔNG BỐ LUẬT

NỘI DUNG GIỚI THIỆU LUẬT AN TOÀN, VỆ SINH LAO ĐỘNG NĂM 2015 TRONG BUỔI HỌP BÁO CÔNG BỐ LUẬT BỘ TƯ PHÁP VỤ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT BỘ LAO ĐỘNG THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI CỤC AN TOÀN LAO ĐỘNG GIỚI THIỆU LUẬT AN TOÀN, VỆ SINH LAO ĐỘNG Ngày 25/6/2015, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIII đã thông

Chi tiết hơn

TRUNG TÂM QLBT DI SẢN VĂN HÓA PHÒNG QUẢN LÝ DI TÍCH CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc 1. Tên gọi 2. Loại hình Phiếu kiểm

TRUNG TÂM QLBT DI SẢN VĂN HÓA PHÒNG QUẢN LÝ DI TÍCH CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc 1. Tên gọi 2. Loại hình Phiếu kiểm TRUNG TÂM QLBT DI SẢN VĂN HÓA PHÒNG QUẢN LÝ DI TÍCH CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc 1. Tên gọi 2. Loại hình Phiếu kiểm kê bước đầu về đạo Cao Đài ở Hội An Tên thường gọi:

Chi tiết hơn

TRUNG ÐOÀN 8 BỘ BINH và Trận Chiến AN LỘC (Mùa Hè 1972) Hồi Ký của Chuẩn Tướng MẠCH VĂN TRƯỜNG Nguyên Tư Lệnh Sư Ðoàn 21 Bộ Binh Cựu Trung Ðoàn Trưởng

TRUNG ÐOÀN 8 BỘ BINH và Trận Chiến AN LỘC (Mùa Hè 1972) Hồi Ký của Chuẩn Tướng MẠCH VĂN TRƯỜNG Nguyên Tư Lệnh Sư Ðoàn 21 Bộ Binh Cựu Trung Ðoàn Trưởng TRUNG ÐOÀN 8 BỘ BINH và Trận Chiến AN LỘC (Mùa Hè 1972) Hồi Ký của Chuẩn Tướng MẠCH VĂN TRƯỜNG Nguyên Tư Lệnh Sư Ðoàn 21 Bộ Binh Cựu Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 8 / Sư Ðoàn 5 Bộ Binh Lời Mở Ðầu : Mùa

Chi tiết hơn

Tài chính, tín dụng, ngân hàng và lưu thông tiền tệ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Tài chính, tín dụng, ngân hàng và lưu thông t

Tài chính, tín dụng, ngân hàng và lưu thông tiền tệ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Tài chính, tín dụng, ngân hàng và lưu thông t Tài chính, tín dụng, ngân hàng và lưu thông tiền tệ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Bởi: unknown TÀI CHÍNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM Bản chất, chức năng và vai trò

Chi tiết hơn

Đề tài: Chính sách đào tạo nguồn nhân lực văn hóa ở tỉnh Quảng Ninh

Đề tài: Chính sách đào tạo nguồn nhân lực văn hóa ở tỉnh Quảng Ninh BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯƠ NG ĐA I HO C SƯ PHA M NGHÊ THUÂ T TRUNG ƯƠNG MA C THỊ HẢI HÀ QUẢN LÝ DI TÍCH ĐỀN AN SINH, THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU, TỈNH QUẢNG NINH LUÂ N VĂN THA C SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA Khóa 6 (2016-2018)

Chi tiết hơn

Microsoft Word - TT_ doc

Microsoft Word - TT_ doc Đặc điểm của phóng sự trên báo in hiên nay / Ninh Thị Thu Hằng Luận văn này 115 trang, gồm mở đầu, kết luận và 3 chương nội dung là: Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thể loại phóng sự Chương

Chi tiết hơn

Microsoft Word - viet-bai-lam-van-so-6.docx

Microsoft Word - viet-bai-lam-van-so-6.docx Soạn bài: Viết bài làm văn số 6: Văn thuyết minh văn học Hướng dẫn soạn bài: Viết bài làm văn số 6: Văn thuyết minh văn học Đề bài tham khảo và Gợi ý làm bài Đề 1: Thuyết minh về một tác phẩm văn học.

Chi tiết hơn

Thuyết minh về một thắng cảnh quê em – Văn Thuyết minh 9

Thuyết minh về một thắng cảnh quê em – Văn Thuyết minh 9 Thuyết minh về một thắng cảnh quê em Văn Thuyết minh 9 Author : vanmau Thuyết minh về một thắng cảnh quê em Văn Thuyết minh 9 Hướng dẫn Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh 1. Yêu cầu Viết bài thuyết

Chi tiết hơn

Từ theo cộng đến chống cộng (74): Vì sao tội ác lên ngôi? Suốt mấy tuần qua, báo chí trong nước đăng nhiều bài phân tích nguyên nhân của hai vụ giết n

Từ theo cộng đến chống cộng (74): Vì sao tội ác lên ngôi? Suốt mấy tuần qua, báo chí trong nước đăng nhiều bài phân tích nguyên nhân của hai vụ giết n Từ theo cộng đến chống cộng (74): Vì sao tội ác lên ngôi? Suốt mấy tuần qua, báo chí trong nước đăng nhiều bài phân tích nguyên nhân của hai vụ giết người cướp của ghê rợn xảy ra cùng thời gian ở Bắc Giang

Chi tiết hơn

Bạn Tý của Tôi

Bạn Tý của Tôi Nhớ Sử Xưa Để Trông Về Việt Nam Hôm Nay TRẦN HƯNG Thế Tổ Gia Long sau khi thống nhất sơn hà đã đặt quốc hiệu nước ta là Việt Nam(1802). Nối tiếp ông, các vua như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, lần lượt

Chi tiết hơn

CƠ QUAN CỦA ĐẢNG BỘ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TỈNH LÂM ĐỒNG - TIẾNG NÓI CỦA ĐẢNG BỘ, CHÍNH QUYỀN, NHÂN DÂN LÂM ĐỒNG SỐ THỨ HAI, NGÀY 2

CƠ QUAN CỦA ĐẢNG BỘ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TỈNH LÂM ĐỒNG - TIẾNG NÓI CỦA ĐẢNG BỘ, CHÍNH QUYỀN, NHÂN DÂN LÂM ĐỒNG SỐ THỨ HAI, NGÀY 2 CƠ QUAN CỦA ĐẢNG BỘ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TỈNH LÂM ĐỒNG - TIẾNG NÓI CỦA ĐẢNG BỘ, CHÍNH QUYỀN, NHÂN DÂN LÂM ĐỒNG SỐ 5298 + 5299 + 5300 THỨ HAI, NGÀY 29/4/2019 KỶ NIỆM 44 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN MIỀN

Chi tiết hơn

1. Tình hình thế giới và trong nước sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 Sau Chiến tranh thế giới lần thứ II, chủ nghĩa xã hội trở thành hệ thống trên thế

1. Tình hình thế giới và trong nước sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 Sau Chiến tranh thế giới lần thứ II, chủ nghĩa xã hội trở thành hệ thống trên thế 1. Tình hình thế giới và trong nước sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 Sau Chiến tranh thế giới lần thứ II, chủ nghĩa xã hội trở thành hệ thống trên thế giới. Các nước phát xít Đức, Ý, Nhật bị đánh bại còn

Chi tiết hơn

Số 171 (6.789) Thứ Ba, ngày 20/6/ XUẤT BẢN TỪ NĂM 1985 Báo chí là cầu nối hữu hi

Số 171 (6.789) Thứ Ba, ngày 20/6/ XUẤT BẢN TỪ NĂM 1985 Báo chí là cầu nối hữu hi Số 171 (6.789) Thứ Ba, ngày 20/6/2017 http://phapluatplus.vn http://tvphapluat.vn Báo chí là cầu nối hữu hiệu giữa doanh nghiệp và Chính phủ Chiều 18/6, tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc

Chi tiết hơn

HIỆN TƯỢNG VĂN - SỬ - TRIẾT BẤT PHÂN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI TRUNG ĐẠI Nguyễn Đình Chú Hiện tượng văn - sử bất phân, văn - triết bất phân, văn - s

HIỆN TƯỢNG VĂN - SỬ - TRIẾT BẤT PHÂN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI TRUNG ĐẠI Nguyễn Đình Chú Hiện tượng văn - sử bất phân, văn - triết bất phân, văn - s HIỆN TƯỢNG VĂN - SỬ - TRIẾT BẤT PHÂN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI TRUNG ĐẠI Nguyễn Đình Chú Hiện tượng văn - sử bất phân, văn - triết bất phân, văn - sử - triết bất phân trong văn học trung đại trước hết

Chi tiết hơn

I

I ĐỀ CƢƠNG Tuyên truyền kỷ niệm 85 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930-3/2/2015) I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI NĂM 1930 MỞ RA BƢỚC NGOẶT LỊCH SỬ CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM 1. Bối cảnh ra đời

Chi tiết hơn

Công chúa Đông Đô, Hoàng hậu Phú Xuân Nàng là ai? Minh Vũ Hồ Văn Châm LGT: Bác sĩ Hồ Văn Châm là Cựu Tổng Trưởng Bộ Cựu Chiến Binh, Cựu Tổng Trưởng Bộ

Công chúa Đông Đô, Hoàng hậu Phú Xuân Nàng là ai? Minh Vũ Hồ Văn Châm LGT: Bác sĩ Hồ Văn Châm là Cựu Tổng Trưởng Bộ Cựu Chiến Binh, Cựu Tổng Trưởng Bộ Công chúa Đông Đô, Hoàng hậu Phú Xuân Nàng là ai? Minh Vũ Hồ Văn Châm LGT: Bác sĩ Hồ Văn Châm là Cựu Tổng Trưởng Bộ Cựu Chiến Binh, Cựu Tổng Trưởng Bộ Dân Vận Chiêu Hồi, Việt Nam Cộng Hòa Bác Sĩ sinh ngày

Chi tiết hơn