Việt Nam Dân số: 86,9 triệu Tỷ lệ tăng trưởng dân số: 1,0% GDP (PPP, tỷ USD): 278,6 GDP bình quân đầu người (PPP, USD): 3.009 Diện tích: 329.310 km2 Thủ đô: Hà Nội Nguồn: Chỉ số Phát triển Thế giới Sau một thời gian dài bất ổn, nền kinh tế Việt Nam đang dần bước vào môi trường kinh tế vĩ mô ổn định hơn. Từ năm 2007 đến năm 2010, một số điều chỉnh được tiến hành sau một loạt cú sốc bao gồm cả tăng đột biến trong các dòng vốn vào, dẫn đến rủi ro kinh tế vĩ mô cao hơn thể hiện qua tỷ lệ lạm phát cao, dự trữ giảm, gia tăng thâm hụt ngân sách trong và ngoài nước, và các điểm yếu về mặt cơ cấu trong lĩnh vực ngân hàng và doanh nghiệp. Những vấn đề này cộng với sự vắng mặt của một chiến lược mang tính thuyết phục đã dẫn đến sự suy giảm niềm tin đối với kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, tình hình bắt đầu đảo ngược sau khi Chính phủ Việt Nam giới thiệu các biện pháp tháo gỡ vấn đề trong tháng 2 năm 2011 nhằm ổn định nền kinh tế và đảm bảo ổn định xã hội (Nghị quyết 11). Trong khi nền kinh tế Việt Nam bắt đầu đi vào ổn định, việc thắt chặt đáng kể các chính sách kinh tế vĩ mô, cộng với thực trạng môi trường kinh tế toàn cầu không chắc chắn đã gây ra những ảnh hưởng nhất định trong tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Thực tế tăng trưởng GDP giảm từ 6,8% trong năm 2010 xuống còn 5,9% trong năm 2011 và tiếp tục xuống đến 4,0% trong Quý I năm 2012. Nhu cầu trong nước chững lại, ảnh hưởng đến ngành xây dựng, dịch vụ và các ngành tiện ích khác. Việc thắt chặt các chính sách trong nước trong năm 2011 đã làm nản lòng giới đầu tư (đặc biệt trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng và bất động sản) và tiêu dùng tư nhân. Từ tác động của các biện pháp này, cộng với hiện tượng giá lương thực giảm, lạm phát giảm xuống còn 10,5% trong tháng 4 năm 2012 từ mức đỉnh điểm 23% trong tháng 8 năm 2011. Thâm hụt tài khoản hiện tại được ước tính đã giảm 0,5% GDP trong năm 2011 từ mức 4,1% trong năm 2010 chủ yếu là do sự hồi phục của xuất khẩu trên diện rộng. Kim ngạch xuất khẩu tăng vọt lên 34,2% trong năm 2011 và tiếp tục tăng. Xuất khẩu trong Quý I của năm 2012 là 23,6% cao hơn so với cùng kỳ năm ngoái. Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng thâm dụng lao động chính như may mặc, giày dép, và đồ nội thất tiếp tục tăng trưởng ở mức 14-18% trong ba tháng đầu năm nay. Áp lực lên tỷ giá hối đoái tiếp tục giảm trong Quý I năm 2012 khi niềm tin vào tiền đồng đã dần được cải thiện. Tỷ giá hối đoái không chính thức vẫn ở tiệm cận dưới của chênh lệch +/- 1% xung quanh tỷ giá chính thức kể từ khi có sự mất giá 8,5% đồng Việt Nam so với đồng đô-la Mỹ (USD) trong tháng Hai năm 2011. Nguồn cung tăng của đồng đô-la Mỹ trên thị trường đã cho phép Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Ngân hàng Nhà nước) bổ sung dự trữ ngoại hối trong những tháng đầu năm 2012 (được báo cáo lên đến gần 7,5 tuần nhập khẩu). Các biện pháp của Chính phủ đã dẫn đến sự suy giảm mạnh trong tăng trưởng tín dụng, từ 32,4% vào cuối năm 2010 xuống đến 14,3% vào cuối năm ngoái. Tuy nhiên, chất lượng tài sản đã xuống cấp một phần do tăng trưởng tín dụng nhanh chóng vào thời điểm trước năm 2011 và suy
giảm trong khu vực kinh doanh bất động sản. Các khoản vay chính thức không hoạt động hiệu quả đã tăng từ 2,2% trên tổng giá trị tài sản vào cuối năm 2010 lên 3,6% trong tháng Ba năm 2012, nhưng có khả năng còn cao hơn nếu được đo bằng hệ thống các tiêu chuẩn quốc tế. Chính sách thắt chặt tiền tệ cũng đã góp thêm căng thẳng vào vấn đề thanh khoản tại một số ngân hàng nhỏ. Trước tình hình này, các cơ quan chức năng đã cung cấp các giải pháp thanh khoản và các hỗ trợ khác nhằm giúp đỡ các ngân hàng yếu kém. Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô vẫn là ưu tiên của Chính phủ. Tăng trưởng kinh tế dự kiến sẽ vào khoảng 5,7%, và lạm phát cuối năm được dự báo giảm xuống còn dưới 10% trong năm 2012. Như một động thái để vực dậy nền kinh tế, Ngân hàng Nhà nước đã giảm 200 điểm của các tỷ lệ lãi suất chính sách trong tháng Ba và tháng Tư (từ 15% xuống 13%) và công bố tiếp tục giảm ít nhất 100 điểm sàn trong mỗi Quý của năm 2012. Nhu cầu giảm nhiệt và tăng trưởng tín dụng chậm sẽ kiềm chế tác động của các đợt cắt giảm lãi suất, đồng thời sẽ giúp giảm bớt chi phí tài chính của khu vực tư nhân. Chính phủ đang nỗ lực củng cố tài chính, tiếp tục các chính sách mở rộng trong năm 2009 và 2010 để ứng phó với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Thâm hụt tài chính ước tính đã giảm xuống 2,7% GDP trong năm 2011 so với mức thâm hụt ngân sách 6,5%, và trái ngược với gần 6,0% trong năm 2010. Đối với năm 2012, thâm hụt ngân sách được dự kiến sẽ mở rộng lên 6,0% GDP, nhưng Chính phủ có thể kiềm chế tỷ lệ này do con số về doanh thu ngân sách vẫn không được công bố. Duy trì kỷ luật tài chính là một ưu tiên để giúp giảm gánh nặng lên chính sách tiền tệ khi nền kinh tế bắt đầu ổn định, và giúp duy trì tính bền vững của các khoản nợ trong trung hạn. Nợ công của Việt Nam có khả năng duy trì tính bền vững nếu đà phục hồi kinh tế vẫn tiếp tục và các cơ quan chức năng vẫn theo đuổi con đường củng cố tài chính như hiện tại. Phân tích bền vững nợ tại các quốc gia thu nhập thấp của Ngân hàng Thế giới cho thấy Việt Nam vẫn thuộc nhóm nguy cơ thấp trước tình hình nợ nước ngoài. Sự không chắc chắn lớn nhất đối với bền vững nợ xuất phát từ các doanh nghiệp nhà nước - những khoản nợ của các doanh nghiệp này không được liệt kê trong các con số thống kê của nợ Chính phủ hay nợ được Chính phủ bảo lãnh. Không có một ước tính đáng tin cậy nào về những khoản nợ này. Chính điều đó làm hạn chế khả năng của Chính phủ trong quản lý các rủi ro liên quan. Các cơ quan chức năng đang đẩy mạnh nỗ lực thu thập các thông tin cập nhật đáng tin cậy về các khoản nợ dự phòng (chủ yếu là ở các doanh nghiệp nhà nước hoặc khu vực doanh nghiệp nhà nước) và theo dõi, quản lý các rủi ro tài chính tiềm ẩn. Tính minh bạch và trách nhiệm công bố thông tin là rất quan trọng để xây dựng lòng tin giữa các thành viên tham gia thị trường. Những vấn đề chưa được giải quyết trong lĩnh vực ngân hàng có khả năng vẫn là mối quan tâm cho Việt Nam trong những năm tới. Ngân hàng Nhà nước đã tăng cường nỗ lực giám sát và tăng yêu cầu vốn tối thiểu để đáp ứng những mối quan tâm về năng lực của ngành ngân hàng. Vào cuối năm 2011, ba ngân hàng yếu kém gặp vấn đề về thanh khoản và có các khoản vay có hiệu suất không cao đã được sáp nhập thành một ngân hàng mới và ngân hàng này hiện đang được giám sát chặt chẽ bởi Ngân hàng Nhà nước. Vào ngày 1/3, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 254 về "Tái cơ cấu hệ thống tổ chức tín dụng trong giai đoạn 2011-2015". Quyết định này đã cung cấp một khuôn khổ nhằm đương đầu với các vấn đề của các ngân hàng yếu kém và đặt ra một số mục tiêu cần đạt được đến năm 2015. Đồng thời Quyết định này đặt ra một số lựa chọn trong chuyển dịch cơ cấu bao gồm cả việc cho phép Ngân hàng Nhà nước trực tiếp mua cổ phần của các ngân hàng yếu kém, tăng giới hạn quyền sở hữu đối với các ngân hàng nước ngoài trong các tổ chức tín dụng trong nước, khuyến khích các ngân hàng mạnh mua lại tài
sản có chất lượng tốt và mua lại các khoản vay từ các ngân hàng yếu kém, và cho phép các ngân hàng bán các khoản nợ khó đòi cho Công ty Kinh doanh Nợ và Tài sản. Tuy nhiên, việc thực hiện kế hoạch, các lựa chọn tái cơ cấu và những tác động có liên quan vẫn còn đang được thảo luận. Công tác chuẩn bị cho một Chương trình Đánh giá Khu vực Tài chính vẫn đang được tiến hành. Thách thức ngắn hạn về mặt chính sách của Việt Nam là duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô và khôi phục lại niềm tin cho các nhà đầu tư, đồng thời phải giải quyết các vấn đề về cải cách cơ cấu dài hạn. Chính phủ đang đẩy mạnh nỗ lực để tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước, quản lý đầu tư công, và lĩnh vực tài chính. Một số quy định quan trọng, bao gồm những quy định liên quan đến quy hoạch đầu tư trung hạn, quản lý và giám sát đầu tư vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước, và theo dõi hiệu suất của các doanh nghiệp nhà nước có thể sẽ được ban hành trong năm 2012. Ngay cả khi chỉ thực hiện một phần của các cải cách về cơ cấu, Việt Nam cũng cần phải trở lại với một môi trường kinh tế vĩ mô bền vững hơn, đồng thời đặt nền móng cho hiệu quả và năng suất cao hơn để thúc đẩy tăng trưởng trong trung và dài hạn.
Việt Nam - Các chỉ số chính 2008 2009 2010 2011e 2012f 2013f Sản lượng, Việc làm và Giá cả GDP thực tế (% thay đổi y-y) 6.2 5.3 6.8 5.9 5.7 6.3 Chỉ số sản xuất công nghiệp 1/ (% thay đổi y-y) 7.4 7.1 9.3 6.8 7.0 7.5 Tỷ lệ thất nghiệp (%) 2/ 4.7 4.6 4.4 4.0 4.0 4.0 Chỉ số giá tiêu dùng (% thay đổi y-y) 19.9 6.5 11.8 18.1 9.5 6.0 Khu vực công Nguồn thu Chính phủ (% GDP) 28.9 27.3 27.8 27.6 27.8 27.6 Chi tiêu Chính phủ (% GDP) 29.4 34.5 33.1 30.3 31.4 30.4 Ngân sách cân bằng Chính phủ, chính thức (% GDP) 3/ Ngân sách cân bằng Chính phủ, chung (% GDP) 4/ 1.2-3.9-2.0-0.6-1.6-1.0-0.5-7.2-5.2-2.7-3.6-2.8 Nợ Khu vực công (% GDP) 5/ 42.9 51.2 54.2 48.8 49.0 47.7 Thương mại nước ngoài, Cán cân thanh toán và Nợ nước ngoài Cân bằng thương mại (tỷ USD) -12.8-8.3-5.1-0.5-2.2-2.5 Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa (tỷ USD) 62.7 57.1 72.2 96.9 110.5 126.0 (% thay đổi y-y) 29.1-8.9 26.4 34.2 14.0 14.0 Kim ngạch xuất khẩu chính (% thay đổi y-y) 6/ 23.1-40.2-23.0 45.9 5.0 5.0 Kim ngạch nhập khẩu (tỷ USD) 80.7 69.9 84.8 106.7 123.9 141.3 (% thay đổi y-y) 28.6-13.3 21.2 25.9 16.0 14.1 Cán cân thanh toán hiện tại (tỷ USD) -10.8-6.1-4.3-0.6-2.1-2.0
(% GDP) -11.9-6.6-4.1-0.5-1.6-1.4 Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (tỷ USD) 9.3 6.9 7.1 7.3 7.3 7.3 Nợ nước ngoài (tỷ USD) 29.2 38.7 45.4 50.3 55.6 59.8 (% GDP) 32.4 41.6 43.8 41.0 41.1 40.5 Tỷ lệ dịch vụ nợ (% xuất khẩu của hh&dv) 2.9 4.9 3.3 3.4 3.8 3.9 Dự trữ ngoại hối (tổng) (tỷ USD) 23.0 14.1 12.4...... (số tháng kim ngạch nhập khẩu hh&dv) 3.4 2.4 1.8...... Thị trường tài chính Tín dụng trong nước (% thay đổi y-y) 25.4 39.6 32.4 14.3 16.0 16.0 Tỷ lệ lãi suất ngắn hạn (% hàng năm) 7/ 8.1 10.7 14.0 14.0 13.0.. Tỷ giá hối đoái (đồng/usd, cuối kì) 8/ 17,483 18,479 19,498 20,828 20,828.. Tỷ giá hối đoái thực tế (2000=100) 125.7 115.7 116.9 121.9.... (% thay đổi y-y) 18.7-8.0 1.0 4.3.... Chỉ số thị trường chứng khoán (tháng 7/2000=100) 9/ 316 495 485 352.... Ghi nhớ: GDP danh nghĩa (tỷ USD) 90 93 104 123 135 148 Nguồn: Tổng cục Thống kê thuộc Chính phủ Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới e = ước tính f = dự báo 1 / Chỉ số sản xuất công nghiệp (IPI) là một se-ri mới thay thế "giá trị sản xuất công nghiệp trong giá cố định 1994" trước đây 2 / Khu vực đô thị 3 / Không bao gồm các hạng mục ngoài ngân sách 4 / Bao gồm các hạng mục ngoài ngân sách 5 / Nợ công và nợ được bảo lãnh công 6 / Dầu thô 7 / Ba tháng tiền gửi, kết thúc thời hạn. Dữ liệu cho năm 2012 được tính đến ngày 30 tháng 3 8 / Tỷ giá hối đoái liên ngân hàng. Dữ liệu cho năm 2012 được tính đến ngày 30 tháng 3 9 / Chỉ số Cổ phiếu Hồ Chí Minh