PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH VỚI VIỆC PHÁT HIỆN CÁC DẤU HIỆU KHỦNG HOẢNG VÀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP Thạc sỹ Phạm Thị Thuỷ Khoa Kế toán - Đại học Kinh tế Quốc dân Nền kinh tế Việt Nam đang phát triển nhanh với sự ra đời của hàng loạt các doanh nghiệp kinh doanh trong nhiều lĩnh vực. Hơn ba năm gần đây thực hiện Luật Doanh nghiệp đã có gần 50 nghìn doanh nghiệp được thành lập trong đó có rất nhiều gồm công ty cổ phần (18/11/2003- vninvest.com). Bên cạnh đó sự ra đời và lớn mạnh của thị trường chứng khoán cũng thể hiện một bước phát triển vượt bậc của nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên sự phát triển này cũng đồng nghĩa với việc cạnh tranh khốc liệt và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp đang gặp nhiều rủi ro và mạo hiểm hơn bao giờ hết. Một vấn đề nghiêm trọng mà các doanh nghiệp có thể phải đối mặt đó là sự khủng hoảng tài chính mà hậu quả của nó là dẫn đến sự phá sản doanh nghiệp. Rất khó có thể định nghĩa một cách chính xác về tình trạng khủng hoảng tài chính, tuy nhiên có thể khẳng định rằng nguyên nhân chủ yếu của khủng hoảng tài chính là do sự suy yếu về khả năng thanh toán, doanh nghiệp không có đủ tiền để thanh toán cho các khoản nợ phải trả nhà cung cấp hay lãi tiền vay ngân hàng và phải vi phạm các hợp đồng. Khủng hoảng tài chính sẽ dẫn đến hàng loạt các sự kiện xấu xảy ra như cổ tức giảm sút, đóng cửa các nhà máy, thua lỗ, sa thải công nhân viên, giá cổ phiếu sụt giảm khi đó doanh nghiệp sẽ phải thực hiện nhiều công việc không mong muốn, thậm chí phải tuyên bố phá sản. Trong bối cảnh như vậy, việc phân tích phát hiện các dấu hiệu khủng hoảng và phá sản doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng.
Thứ nhất, phân tích phát hiện các dấu hiệu khủng hoảng và phá sản sẽ giúp các nhà quản lý ngăn chặn, hạn chế, phòng tránh trước những khả năng xấu có thể xảy ra đối với doanh nghiệp của mình. Thứ hai, phân tích phát hiện các dấu hiệu khủng hoảng và phá sản giúp cho các nhà đầu tư trong việc quyết định mua, bán chứng khoán. Thứ ba, phân tích phát hiện các dấu hiệu khủng hoảng và phá sản giúp các ngân hàng trong các quyết định cho vay và quản lý các khoản vay. Thứ tư, phân tích phát hiện các dấu hiệu khủng hoảng và phá sản giúp các đối tác trong các quyết định các điều khoản trả chậm và quản lý nợ phải thu. Ngoài ra, phân tích phát hiện các dấu hiệu khủng hoảng và phá sản còn giúp các kiểm toán viên trong việc quyết định các thủ tục kiểm toán và quyết định xem các doanh nghiệp có tồn tại trên cơ sở giả định hoạt động liên tục nữa hay không. Bài viết này giới thiệu các phương pháp phân tích phát hiện dấu hiệu khủng hoảng và phá sản doanh nghiệp dựa trên cơ sở số liệu là các báo cáo tài chính nhằm giúp cho các đối tượng sử dụng thông tin trên báo cáo tài chính có thể tự đánh giá được triển vọng của doanh nghiệp mà mình quan tâm. Có hai phương pháp phân tích phát hiện các dấu hiệu khủng hoảng và phá sản doanh nghiệp, đó là phương pháp đánh giá từng chỉ số tài chính và phương pháp kết hợp các chỉ số. Phương pháp đánh giá từng chỉ số tài chính: Phương pháp đánh giá từng chỉ số tài chính do William Beaver nghiên cứu và đưa vào ứng dụng từ năm 1968. Beaver phát hiện ra rằng các doanh nghiệp lâm vào tình trạng khủng hoảng tài chính là các doanh nghiệp có ít tiền mặt, ít hàng tồn kho nhưng có nhiều nợ phải thu. Nghiên cứu của Beaver chỉ ra rằng tỷ lệ lưu chuyển tiền thuần/tổng nợ phải trả là chỉ tiêu quan trọng nhất trong việc dự đoán dấu hiệu khủng hoảng và phá sản doanh nghiệp. Chỉ tiêu này phản ánh tính cân đối giữa khả năng tạo ra tiền của doanh nghiệp với số nợ mà doanh
nghiệp phải thanh toán, và do đó nó thể hiện rõ ràng nhất khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Bên cạnh đó tỷ suất sinh lời của tài sản (thu nhập thuần / tổng tài sản) và hệ số nợ (tổng nợ phải trả/ tổng tài sản) cũng là các chỉ tiêu quan trọng trong việc phát hiện dấu hiệu khủng hoảng và phá sản doanh nghiệp bởi vì các chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và mức độ rủi ro tài chính mà doanh nghiệp đang gặp phải. Các kết luận của Beaver được rút ra bằng việc nghiên cứu thực nghiệm 79 doanh nghiệp kinh doanh thất bại và một số lượng tương ứng các doanh nghiệp kinh doanh thành công trong thời gian 10 năm (1954-1964). Mức trung bình các chỉ số tài chính của các doanh nghiệp trong mẫu nghiên cứu của Beaver được tổng kết ở bảng dưới đây: Chỉ số tài chính Doanh nghiệp Năm trước khủng hoảng 1 năm 2 năm 3 năm 4 năm 5 năm Lưu chuyển tiền thuần/nợ phải trả Phá sản -0,20-0,05 0,05 0,15 0,20 0,45 0,47 0,5 0,47 0,52 Thu nhập thuần/tổng tài sản Phá sản -0,23-0,08-0,04 0,01 0,02 0,08 0,08 0,09 0,08 0,07 Nợ phải trả/tổng tài sản Phá sản 0,76 0,62 0,52 0,54 0,51 0,36 0,34 0,35 0,37 0,34 Vốn lưu động thuần/tổng tài sản Phá sản 0,04 0,04 0,27 0,29 0,27 0.40 0,39 0,40 0,39 0,43 Tỷ suất thanh toán hiện hành Phá sản 2,00 2,30 2,35 2,40 2,50
3,20 3,27 3,20 3,40 3,35 (Nguồn: Atrill (2000), Financial Management for Non-specialist, trang 80 85). Kết quả nghiên cứu của Beaver cho thấy tất cả các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp lâm vào tình trạng khủng hoảng tồi tệ hơn rất nhiều so với một doanh nghiệp hoạt động bình. Dựa trên kết quả nghiên cứu thực nghiệm của Beaver, khi muốn phát hiện dấu hiệu khủng hoảng và phá sản của một doanh nghiệp, chúng ta sẽ so sánh các chỉ số tài chính của doanh nghiệp đó với mức trung bình mà Beaver đưa ra để kết luận. Phương pháp này khá đơn giản và hữu ích, với độ tin cậy tương đối cao. Tuy nhiên phương pháp này có nhược điểm là khi áp dụng cho một doanh nghiệp cụ thể, có thể xảy ra trường hợp các chỉ số mâu thuẫn với nhau (chỉ số này bộc lộ nguy cơ khủng hoảng, chỉ số khác lại thể hiện sự phát triển ổn định của doanh nghiệp), khi đó khó có thể kết luận được. Trong trường hợp này phương pháp kết hợp các chỉ số tài chính tỏ ra ưu việt hơn. Phương pháp kết hợp các chỉ số tài chính: Phương pháp kết hợp các chỉ số tài chính được Edward Altman bắt đầu đưa ra từ năm 1968, dựa trên kết quả nghiên cứu thực nghiệm 66 doanh nghiệp sản xuất có bán cổ phần rộng rãi trên thị trường chứng khoán trong thời gian từ năm 1946-1965. Sau đó được ông kiểm tra lại với 25 doanh nghiệp khác với xác suất đúng 96% ( thực tế có 24 doanh nghiệp phá sản và 1 doanh nghiệp không phá sản). Mô hình chính thức được Altman đưa ra năm 1974. Mô hình của ông sử dụng 5 chỉ số tài chính: X 1 = Lợi nhuận trước thuế và lãi tiền vay X 2 = Lãi lưu giữ luỹ kế
X 3 = X 4 = Vốn lưu động thuần Doanh thu X 5 = Vốn chủ sở hữu (giá thị trường) Nợ phải trả (giá ghi sổ) Mô hình của Altman kết hợp giữa các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh (X 1, X 2 và X 4 ) với các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán (X 3 ) và chỉ tiêu phản ánh sự độc lập về tài chính (X 5 ). Dựa vào các mức độ quan trọng khác nhau của từng chỉ tiêu, Altman đã kết hợp chúng trong hàm số chấm điểm Z. Z= 0,033X 1 + 0,014 X 2 + 0,012 X 3 + 0,010 X 4 + 0,006X 5 Nếu Z < 2,675 thì doanh nghiệp sẽ có khả năng bị phá sản trong vòng 1 năm tới (với xác suất 95%). Trong thực tế, nếu Z 1,81 thì doanh nghiệp được dự đoán là sẽ phá sản, và nếu Z 2,99 thì kết luận doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt, sẽ không bị phá sản, còn nếu 1,81<Z<2,99 thì khó kết luận. (Nguồn: Gibson, C. (2001). Financial Reporting Analysis. Ohio. Trang: 474-476) Đối với các doanh nghiệp tư nhân và không thuộc lĩnh vực sản xuất, năm 1993 Altman đưa ra hàm số chấm điểm Z để phát hiện dấu hiệu khủng hoảng và phá sản như sau: Z= 0,0105X 1 + 0,0326X 2 + 0,0656 X 3 + 0,0672 X 5 Lưu ý là: X 5 = Vốn chủ sở hữu (giá ghi sổ) Nợ phải trả (giá ghi sổ) Khi đó, nếu Z<1,23 thì doanh nghiệp được dự đoán là sẽ phá sản Z>2,9 thì doanh nghiệp sẽ không bị phá sản 1,23 Z 2,9 khó kết luận
(Nguồn: Ross, Westerfield & Jaffe,(1996), Corporate Finance, page 822-823) Phương pháp của Altman có ưu điểm hơn phương pháp của Beaver là đã kết hợp các chỉ số tài chính trong một hàm số chấm điểm Z. Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp này là nó được áp dụng chung cho tất cả các ngành kinh doanh, trong khi mỗi ngành khác nhau sẽ có đặc điểm về chỉ số tài chính khác nhau. Thí dụ, một công ty sản xuất ô tô sẽ có điểm Z thấp hơn một công ty sản xuất hàng may mặc, tức là nó có khả năng phá sản cao hơn do nó có tỷ lệ doanh thu trên tổng giá trị tài sản cao hơn. Dẫu vậy, phương pháp hàm chấm điểm Z của Altman ngày càng được sử dụng rộng rãi trên thế giới. Các phương pháp phân tích phát hiện các dấu hiệu khủng hoảng và phá sản doanh nghiệp của Beaver và Altman hoàn toàn có thể áp dụng tại Việt Nam hiện nay. Các chỉ số tài chính mà hai phương pháp này sử dụng đều có thể xác định được một cách dễ dàng dựa trên cơ sở số liệu của các báo cáo tài chính. Phương pháp của Altman cần các điều kiện khó khăn hơn một chút: để có thể tính được điểm Z cho một công ty cổ phần thuộc lĩnh vực sản xuất thì cần có thông tin về giá thị trường của các cổ phiếu và trái phiếu của nó. Đòi hỏi này hiện nay lầ hơi khó vì không phải tất cả các công ty cổ phần đều niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán và cũng không thể khẳng định rằng giá các cổ phiếu trên thị trường khứng khoán Việt Nam thể hiện đúng giá trị thị trường của nó. Tuy nhiên, trong khi việc phân tích phát hiện các dấu hiệu khủng hoảng và phá sản doanh nghiệp là một vấn đề không đơn giản nhất là đối với những người không phải là chuyên gia tài chính với tài liệu phân tích hạn chế thì ý nghĩa quan trọng nhất của các phương pháp này là đã cung cấp cho các nhà phân tích một phương pháp lượng hoá khả năng lâm vào tình trạng khủng hoảng và nguy cơ phá sản của một doanh nghiệp.