ĐẠI HỌC HUẾ TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC LÊ THỊ THANH XUÂN TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH VĂN HỌC NỮ QUYỀN LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

Tài liệu tương tự
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG NGUYỄN THỊ ĐÔ YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM VÀ THANH TỊNH Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số:

ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG NGUYỄN THỊ MINH HƯỜNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ BẰNG VIỆT Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: TÓ

Truyện ngắn Bảo Ninh

1

MỞ ĐẦU

Microsoft Word - PhuongThuy-Mang_van_hoc_tren_bao_Song.doc

Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du

Microsoft Word - giao an van 12 nam 2014.docx

MỞ ĐẦU

ĐẠI HỌC HUẾ TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN VĂN TỔNG ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT CÓ TÍNH CHẤT TỰ TRUYỆN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XX TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN

(Microsoft Word - Ph? k\375 t?c \320?A TH? PHONG2)

Binh pháp Tôn Tử và hơn 200 trận đánh nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc Chia sẽ ebook : Tham gia cộng đồng chia sẽ sá

73 năm trôi qua, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã cho thấy bài học đoàn kết, lấy dân làm gốc có ý nghĩa sâu sắc. Những ngày mùa Thu tháng Tám của

19/12/2014 Do Georges Nguyễn Cao Đức JJR 65 chuyễn lại GIÁO DỤC MIỀN NAM

Tiểu thuyết lịch sử của Tân Dân Tử và Phạm Minh Kiên - từ góc nhìn lý thuyết tự sự

ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN Giảng giải: Đại Sư Ấn Quang Việt dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa PHẦN MƯỜI TÁM 17

ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN Giảng giải: Đại Sư Ấn Quang Việt dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa PHẦN MƯỜI HAI 19

Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du

Cúc cu

Bạn Tý của Tôi

Nghệ thuật châm biếm và đả kích trong vè người Việt : Luận văn ThS. Văn học: Phạm Thị Thanh Thủy ; Nghd. : GS.TS. Nguyễn Xuân Kính 1. Lý do c

Phần mở đầu

Phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn – Văn mẫu lớp 9

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ THANH HƢƠNG VAI TRÒ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI

Microsoft Word - T? Thu Ngu Kinh v?i v?n d? giáo d?c gia dình.doc

12/22/2015 nhantu.net/tongiao/4thu5kinh.htm Tứ Thư Ngũ Kinh với vấn đề giáo dục gia đình Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ I. KINH DỊCH VỚI GIA ĐÌNH II. KINH THƯ

MỘT CÁCH NHÌN VỀ MƯỜI BA NĂM VĂN CHƯƠNG VIỆT NGOÀI NƯỚC ( ) (*) Bùi Vĩnh Phúc Có hay không một dòng văn học Việt ngoài nước? Bài nhận định dướ

Microsoft Word - TT_ doc

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG NINH VIỆT TRIỀU QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BIỂU DIỄN NGHỆ THUẬT TẠI NHÀ HÁT CHÈO NINH BÌNH

Microsoft Word - hong vu cam thu.doc

Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông - Hoàng Phủ Ngọc Tường

VanHocVaDaoDuc_LNT

TUYÊ N TÂ P LY ĐÔNG A MỞ QUYÊ N Học Hội Thắng Nghĩa 2016

Sach

Chương 16 Kẻ thù Đường Duyệt càng hoài nghi, không rõ họ đang giấu bí mật gì. Tại sao Khuynh Thành không ở bên cạnh nàng, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì

năm TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LONG TRƯỜNG

Bình giảng tác phẩm truyện Kiều của Nguyễn Du

VỊ TRÍ CỦA VIỆT NAM TRONG THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI HOÀN CẢNH LỊCH SỬ CỦA CỘNG ĐỒNG QUỐC GIA CỘNG SẢN VÀ SỰ PHÂN CHIA LÃNH THỔ ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN CỦA DÂN TỘ

Tình Thương Nhân Loại 1 Điển Mẹ Diêu Trì Rằm tháng sáu Nhâm Thìn, 2012 Nước Việt Nam một miền linh địa Có rồng vàng thánh địa mai sau Nước Nam hơn cả

Liên Trì Ðại Sư - Liên Tông Bát Tổ

Thuyết minh về Nguyễn Du

Phân tích bài thơ Xuất Dương lưu biệt của Phan Bội Châu

LỜI GIỚI THIỆU Chia sẽ ebook : Tham gia cộng đồng chia sẽ sách : Fanpage : C

Đôi mắt tình xanh biếc 1 THÍCH THÁI HÒA ĐÔI MẮT TÌNH XANH BIẾC NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA VĂN NGHỆ

Luan an ghi dia.doc

HÀNH TRÌNH THIỆN NGUYỆN CÔNG TY CỔ PHẦN DỊCH VỤ THƯƠNG MẠI & XÂY DỰNG ĐỊA ỐC KIM OANH 1

Microsoft Word - Ban tom tat.doc

Microsoft Word TÀI LI?U GIÁO D?C CHÍNH TR? TU TU?NG P2.doc

1 华语影视作品片名越译略谈 LÍ HẠ HÀ: TỪ ĐỊA DANH TỚI DÒNG VĂN HỌC MANG ĐẶC TRƯNG KHU VỰC ThS- NCS. Phạm Văn Minh Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Trung Quốc Trường Đại họ

Phân tích đoạn trích “Trao duyên” trong Truyện Kiều của Nguyễn Du

Quản Lý Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy, anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

1 Những con số 3 lịch sử Trong năm 2018 có hai sự kiện quan trọng liên quan đến con số 3 lịch sử: Đó là 3 nhân 10 tức kỳ thứ 30 Khóa Tu học Phật Pháp

Phần 1

TRUNG TÂM QLBT DI SẢN VĂN HÓA PHÒNG QUẢN LÝ DI TÍCH CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc 1. Tên gọi 2. Loại hình Phiếu kiểm

Thứ Tư Số 363 (6.615) ra ngày 28/12/ CHỦ TỊCH NƯỚC TRẦN ĐẠI QUANG: XUẤT BẢN TỪ NĂM 1985 BỘ TRƯỞNG LÊ

GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG CƠN BÃO CỦA THỜI ĐẠI NGUYỄN HỒNG MAI Gia đình là một thể chế xã hội có tính chất toàn cầu, dù rằng ở quốc gia này, lãnh thổ ki

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG ĐẶNG THỊ THU TRANG RÈN LUYỆN KỸ NĂNG HÁT CHO SINH VIÊN NGÀNH GIÁO DỤC TIỂU HỌC TRƯ

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG NGUYỄN DOÃN ĐÀI QUẢN LÝ DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA ĐÌNH HUỀ TRÌ, XÃ AN PHỤ, HUYỆN KIN

Tình Yêu của Cô Láng Giềng Đoàn Dự Cách đây khoảng năm, khi nhạc sĩ Tô Vũ còn sống, bà Q.Việt Nữ công gia chánh ở bên Úc, hình như sang chơi bên

Hội thảo khoa học sinh viên lần IX năm 2016 DIỄN NGÔN NHÂN VẬT TRONG NHÓM TRUYỆN NGẮN THẾ SỰ CỦA NGUYỄN HUY THIỆP SV: Phan Thị Điệp Khoa Khoa học xã h

Phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh

Đôi điều về thiên tình sử Võ Đông Sơ - Bạch Thu Hà Chủ nhật, 13/09/2015 Dân mê cải lương, hẳn ai cũng thuộc nằm lòng vài câu hát trong bài vọng cổ "Võ

Công chúa Đông Đô, Hoàng hậu Phú Xuân Nàng là ai? Minh Vũ Hồ Văn Châm LGT: Bác sĩ Hồ Văn Châm là Cựu Tổng Trưởng Bộ Cựu Chiến Binh, Cựu Tổng Trưởng Bộ

An Giang University Journal of Science 2017, Vol. 13 (1), NHỮNG YẾU TỐ CÁCH TÂN TRONG VĂN HỌC QUỐC NGỮ NAM BỘ CUỐI THẾ KỈ XIX ĐẦU THẾ KỈ XX Nguy

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NGỮ VĂN 7 - HỌC KỲ II

NGHỆ THUẬT DIONYSOS NHƯ MỘT DIỄN NGÔN TRONG THƠ THANH TÂM TUYỀN Trần Thị Tươi 1 Tóm tắt Là một trong những thành viên trụ cột của nhóm Sáng Tạo những

Phân tích hình tượng nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân

193 MINH TRIẾT KHUYẾN THIỆN - TRỪNG ÁC VÌ HÒA BÌNH CỦA PHẬT GIÁO HIỂN LỘ QUA VIỆC THỜ HAI VỊ HỘ PHÁP TRONG NGÔI CHÙA NGƯỜI VIỆT Vũ Minh Tuyên * Vũ Thú

(Microsoft Word - 4_Vuong NC-T\ doc)

ẨN TU NGẨU VỊNH Tác giả: HT. THÍCH THIỀN TÂM ---o0o--- Nguồn Chuyển sang ebook Người thực hiện : Nam Thiên

Nghị luận xã hội về tình yêu quê hương đất nước – Văn mẫu lớp 12

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ VIỆT HOA GIẢNG DẠY TRUYỆN HIỆN ĐẠI VIỆT NAM Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHO THÔNG LUẬN

Khóa NGỮ VĂN 10 GV: Vũ Thị Dung Facebook: DungVuThi.HY BÀI 26 Chuyên đề: VĂN HỌC TRUNG ĐẠI A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT 1. Kiến thức BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO (Nguyễn T

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG LÊ THỊ PHƢƠNG THANH THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ TRONG TRUYỆN NGẮN MA VĂN KHÁNG Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số:

Mấy Điệu Sen Thanh - Phần 4

Phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh

KHUYÊN NGƯỜI NIỆM PHẬT

Nhà thơ Tô Kiều Ngân - từ đời lính đến Tao Đàn Thi sĩ Tô Kiều Ngân Văn Quang Viết từ Sài Gòn Lâu lắm rồi, tôi không gặp anh Tô Kiều Ngân, mặc dù chúng

Đọc truyện cổ tích Tấm Cám, anh chị có suy nghĩ gì về cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giữa người tốt và kẻ xấu trong xã hội xưa và nay? – Văn m

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG NGUYỄN NGỌC QUANG HẦU ĐỒNG TẠI PHỦ THƯỢNG ĐOẠN, PHƯỜNG ĐÔNG HẢI 1, QUẬN HẢI AN, TH

Microsoft Word - LTCC_86BPT_F2_2.doc

Phần 1

Con Đường Khoan Dung

Số 172 (7.520) Thứ Sáu ngày 21/6/2019 XUẤT BẢN TỪ NĂM http:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN HOÀNG THỊ QUỲNH THẾ GIỚI NGHỆ

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ TÒA THÁNH TÂY NINH 孔 ĐỨC KHỔNG TỬ GIÁO CHỦ NHO GIÁO Tùng Thiên TỪ BẠCH HẠC 子 tài li ệ u sư u tầ m 2015 hai không một năm

ÔNG PGS/TS BÙI HIỀN VÀ ĐỨA CON QUÁI THAI TỪ BÊN TÀU GỞI QUA Nguyên Khai BỘ CHỮ TIẾNG VIỆT theo mẫu tự La -Tinh do các Giáo Sĩ Tây phương sáng chế ra g

Thuyết minh về truyện Kiều

Làm thế nào để chinh phục đối phương Tako Kagayaki Ebook miễn phí tại :

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG VŨ VĂN HƯNG QUẢN LÝ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA Ở HUYỆN NINH GIANG, TỈNH HẢI DƯƠNG L

Nghị luận về sách

Document

STT Họ và tên L.cũ L.mới Ghi chú 1 Nguyễn Khoa Bằng Bùi Thị Ngọc Bích Trương Khánh Chi Nguyễn Đức Duy Bùi Thị Mỹ Duyên Đ

Cảm nhận của em về tùy bút “Mùa xuân của tôi” của Vũ Bằng

Mở đầu

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM

Đời Lưu Tống, ngài Cầu Na Bạt Ma dịch Phạn Hán Đời Minh, ngài Trí Húc chú thích Thích Pháp Chánh dịch Hán Việt Kinh Năm Giới Tướng của Ưu Bà Tắc Chú t

Bản ghi:

ĐẠI HỌC HUẾ TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC LÊ THỊ THANH XUÂN TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM 2000-2015 TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH VĂN HỌC NỮ QUYỀN LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM Huế, 2020

ĐẠI HỌC HUẾ TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC LÊ THỊ THANH XUÂN TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM 2000-2015 TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH VĂN HỌC NỮ QUYỀN Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 9.22.01.21 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM Ngƣời hƣớng dẫn khoa học PGS.TS Hồ Thế Hà Huế, 2020

LỜI CAM ĐOAN Luận án được thực hiện tại Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Hồ Thế Hà. Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Tư liệu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào. Tác giả luận án Lê Thị Thanh Xuân

L?i C?m? n Để hoàn thành luận án này, tôi xin gửi lời câm ơn chân thành và såu sắc đến: - PGS.TS Hồ Thế Hà, người thæy đã tận tình hướng dẫn cho tôi trong quá trình viết và hoàn thiện luận án. - Khoa Ngữ văn, Tổ bộ môn Văn học Việt Nam; Phòng Đào täo Sau Đäi học Trường Đäi học Khoa học Huế và các thæy cô đã trực tiếp giâng däy, giúp đỡ và täo mọi điều kiện tốt nhçt để tôi hoàn thành luận án. - Gia đình, bän bè, đồng nghiệp vì đã täo mọi điều về vật chçt và tinh thæn, giúp tôi hoàn thành khóa học và luận án đúng thời gian. Huế, tháng 03 năm 2020 Nghiên c?u sinh Lê Th? Thanh Xuân

MỤC LỤC Trang LỜI CAM ĐOAN LỜI CẢM ƠN MỤC LỤC MỞ ĐẦU... 1 1. Lý do chọn đề tài... 1 2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu... 2 3. Hƣớng tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu... 3 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu... 4 5. Đóng góp của luận án... 5 6. Bố cục luận án... 5 NỘI DUNG... 7 Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU... 7 1.1. Tình hình nghiên cứu lý thuyết nữ quyền... 7 1.1.1. Tình hình nghiên cứu lý thuyết nữ quyền trên thế giới... 7 1.1.2. Tình hình nghiên cứu lý thuyết nữ quyền ở Việt Nam... 13 1.2. Tình hình nghiên cứu truyện ngắn nữ Việt Nam từ góc nhìn phê bình văn học nữ quyền... 19 1.2.1. Giai đoạn từ trước năm 2000... 20 1.2.2. Giai đoạn từ sau năm 2000... 23 1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu và hƣớng triển khai đề tài... 28 1.3.1. Đánh giá tình hình nghiên cứu... 28 1.3.2. Hướng triển khai của đề tài... 30 Tiểu kết... 32 Chƣơng 2. LÝ THUYẾT NỮ QUYỀN, PHÊ BÌNH VĂN HỌC NỮ QUYỀN VÀ Ý THỨC NỮ QUYỀN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM... 33 2.1. Vấn đề nữ quyền và sự xuất hiện chủ nghĩa nữ quyền... 33 2.1.1. Vấn đề nữ quyền - nguồn gốc và khái niệm... 33 2.1.2. Sự xuất hiện chủ nghĩa nữ quyền và sự phát triển của quyền phụ nữ.. 36

2.2. Lý thuyết nữ quyền và phê bình văn học nữ quyền... 39 2.2.1. Lý thuyết nữ quyền... 39 2.2.2. Phê bình văn học nữ quyền... 43 2.3. Ý thức nữ quyền trong văn học Việt Nam... 48 2.3.1. Ý thức nữ quyền trong văn học truyền thống... 48 2.3.2. Ý thức nữ quyền trong văn học hiện đại... 55 Tiểu kết... 62 Chƣơng 3. CÁC KIỂU NHÂN VẬT NỮ MANG ĐẶC TRƢNG GIỚI TRONG TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM 2000-2015 TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH VĂN HỌC NỮ QUYỀN... 63 3.1. Nhân vật nữ với sự tranh đấu cho quyền sống và quyền tự do... 63 3.1.1. Nhân vật nữ với sự tranh đấu cho quyền sống... 64 3.1.2. Nhân vật nữ với sự tranh đấu cho quyền tự do... 67 3.2. Nhân vật nữ với thiên tính làm mẹ và khát vọng tình yêu... 71 3.2.1. Nhân vật nữ với thiên tính làm mẹ... 71 3.2.2. Nhân vật nữ với khát vọng tình yêu... 74 3.3. Nhân vật nữ với bản năng tính dục và nhu cầu giải phóng tính dục. 79 3.3.1. Nhân vật nữ với bản năng tính dục... 79 3.3.2. Nhân vật nữ với nhu cầu giải phóng tính dục... 84 3.4. Nhân vật nữ với cảm quan sinh thái và ý thức giải phóng bản thân... 90 3.4.1. Nhân vật nữ với cảm quan sinh thái... 90 3.4.2. Nhân vật nữ với ý thức giải phóng bản thân... 94 Tiểu kết... 103 Chƣơng 4. PHƢƠNG THỨC NGHỆ THUẬT CỦA TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM 2000-2015 TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH VĂN HỌC NỮ QUYỀN.. 104 4.1. Điểm nhìn trần thuật... 104 4.1.1. Điểm nhìn bên trong... 104 4.1.2. Điểm nhìn bên ngoài... 109

4.2. Giọng điệu nghệ thuật... 113 4.2.1. Giọng xót xa, thương cảm... 113 4.2.2. Giọng triết luận, chiêm nghiệm... 117 4.2.3. Giọng hài hước, châm biếm... 122 4.3. Diễn ngôn mang ý thức giới... 126 4.3.1. Diễn ngôn tự thuật... 126 4.3.2. Diễn ngôn thân phận... 129 4.3.3. Diễn ngôn thân thể... 133 Tiểu kết... 135 KẾT LUẬN... 137 DANH MỤC CÁC BÀI BÁO KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ... 141 TÀI LIỆU THAM KHẢO... 142 PHỤ LỤC

MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Phong trào đấu tranh nữ quyền đã xuất hiện từ lâu trong đời sống xã hội và trong văn học. Cuộc đấu tranh giành lại vị thế đã mất để tạo dựng lại sự bình đẳng và vị thế mới của nữ giới, dần về sau được các nhà nữ quyền luận đúc kết lại thành lý thuyết nữ quyền và cuối cùng người ta gọi là nữ quyền luận hay chủ nghĩa nữ quyền (feminism). Phong trào này xuất phát từ ý thức về bản thân của giới nữ, được manh nha vào thời kỳ Khai sáng và bắt đầu phát triển mạnh mẽ từ thế kỷ XIX đến nay. Gắn liền với những đổi thay to lớn ấy, âm hưởng nữ quyền đã ngấm sâu vào văn học, tạo thành thế giới hình tượng và diễn ngôn giới mới mẻ trong văn chương hiện đại và hậu hiện đại. Về sau, để đi sâu nghiên cứu văn học, các nhà lý luận hình thành phương pháp riêng, gọi là phê bình văn học nữ quyền với hệ thống lý thuyết cụ thể riêng. Sự thay đổi liên tục của truyện ngắn nói riêng và trong văn học nói chung góp phần dẫn đến tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam diễn ra một cách mạnh mẽ, nhất là giai đoạn từ sau đổi mới 1986 đến nay. Đây là thời điểm quan trọng, có tính chất tiền đề để các thể loại văn học phát triển vững chắc. Cùng với tiểu thuyết, truyện ngắn cũng bắt đầu được ươm mầm để tạo thành những mảnh đất màu mỡ cho mùa vụ bội thu về sau, trong đó, có thành tựu của các nhà văn nữ với những phong cách, cá tính sáng tạo riêng như: Lê Minh Khuê, Đoàn Lê, Dạ Ngân, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Đỗ Hoàng Diệu, Phạm Thị Hoài, Võ Thị Xuân Hà, Nguyễn Ngọc Tư, Bùi Như Lan, Trần Thùy Mai, Thùy Dương Họ đã đem đến cho văn đàn sự cách tân mới mẻ, được độc giả ái mộ. Nhiều nhà văn nam giới cũng lên tiếng ủng hộ và thừa nhận nhà văn nữ là chủ thể tư duy, chủ thể trải nghiệm và chủ thể thẩm mỹ có địa vị quan trọng thông qua những tác phẩm xuất sắc của họ. Như vậy, văn học Việt Nam hiện đại ngày càng phát triển và đạt thành quả mạnh mẽ một phần nhờ vào vai trò của các nhà văn nữ với tiếng nói dân chủ, đấu tranh cho quyền bình đẳng giới một cách hiệu quả. Có thể nói rằng, truyện ngắn nữ đã có bước tiến chậm mà chắc trong quá trình cùng phát triển của nhiều thể loại văn học đương đại hiện nay ở nước ta. 1

Nếu như giai đoạn 1986 trở về trước, các nhà văn nam đóng vai trò chủ yếu về thể loại truyện ngắn thì sau đổi mới, truyện ngắn nữ đã dần chiếm địa vị đáng kể trên văn đàn, tạo nên tiếng vang với những tác phẩm giàu thiên tính nữ, xuất phát từ bản thân nữ giới, đặc biệt là có sự cộng hưởng thành tựu từ phê bình văn học nữ quyền. Phê bình văn học nữ quyền có xuất phát điểm từ phương Tây. Các nhà văn Việt Nam, ít nhiều đều có chịu ảnh hưởng từ lý thuyết nữ quyền và phê bình văn học nữ quyền nên đã để lại dấu ấn quyền lực giới trong những tác phẩm của mình ngày càng sâu sắc. Nghiên cứu về lý thuyết nữ quyền và phê bình văn học nữ quyền đã được nhiều người chọn làm đề tài nghiên cứu của mình ở từng tác giả, tác phẩm, nhưng để vận dụng phê bình văn học nữ quyền trong truyện ngắn nữ hiện đại Việt Nam thì vẫn còn ít và chưa có những đề tài tính chuyên sâu. Để hoàn thành luận án, chúng tôi chú trọng phân tích các tác phẩm về nữ quyền dựa trên nền tảng lý thuyết phê bình văn học nữ quyền của phương Tây khi áp dụng vào truyện ngắn nữ Việt Nam để tìm hiểu những đặc thù riêng về tâm lý, văn hóa dân tộc thông qua hình tượng và diễn ngôn tác phẩm. Đặc biệt, chúng tôi nhấn mạnh mốc thời gian 2000 2015 như là một điểm nhấn trong luận án, bởi mốc 15 năm đầu thế kỷ, truyện ngắn có nhiều thành tựu nổi bật. Truyện ngắn nữ góp phần thúc đẩy nền văn học Việt Nam trong quá trình đổi mới, trong đó, có sự đổi mới về hình tượng nhân vật nữ từ góc nhìn hiện đại, đương đại và từ góc nhìn phê bình văn học nữ quyền. Chính vì vậy, chúng tôi chọn Truyện ngắn nữ Việt Nam 2000-2015 từ góc nhìn phê bình văn học nữ quyền làm đề tài nghiên cứu cho luận án của mình. 2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là những tác phẩm truyện ngắn nữ giai đoạn 2000-2015 thể hiện nhu cầu và sự tự nhận thức về giới và nữ quyền sâu sắc, đa dạng với vẻ đẹp và lối viết nữ mang bản sắc riêng. Cụ thể là những tác phẩm tiêu biểu của các tác giả như: Lê Minh Khuê, Nguyễn Ngọc Tư, Y Ban, Võ Thị 2

Xuân Hà, Trần Thùy Mai, Nguyễn Thị Thu Huệ, Đỗ Hoàng Diệu, Mai Thy, Lê Thị Hoài Nam, Ngân Hoa, Quế Hương, Đỗ Bích Thúy, Hà Thị Cẩm Anh, Bùi Như Lan, Nguyễn Thị Anh Thư... 2.2. Phạm vi nghiên cứu Để thực hiện Luận án, chúng tôi tập trung nghiên cứu, phân tích những bình diện nổi bật thuộc nội dung và hình thức truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt Nam tiêu biểu giai đoạn 2000-2015 để chỉ ra những đặc điểm nổi bật mang yếu tố phái tính và âm hưởng nữ quyền ở từng tác phẩm. Để có cái nhìn liền mạch và tiếp nối, chúng tôi có mở rộng so sánh trong chừng mực với các truyện ngắn nữ Việt Nam trước năm 2000 và sau năm 2015 để thấy sự cách tân và vị thế của truyện ngắn nữ trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Vì điều kiện giới hạn về tư liệu, nên những truyện ngắn nữ Việt Nam hải ngoại giai đoạn này không được chúng tôi chọn để nghiên cứu trong luận án. 3. Hƣớng tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu 3.1. Hướng tiếp cận Hướng tiếp cận của luận án là vận dụng lý thuyết phê bình văn học nữ quyền, soi rọi vào truyện ngắn nữ Việt Nam tiêu biểu giai đoạn 2000-2015 để tìm ra giá trị nhân văn và giá trị thẩm mỹ ẩn chứa bên trong ngôn từ, hình tượng tạo thành tư tưởng nhân văn sâu sắc của tác phẩm. Từ đó, luận án hướng tới giải quyết các vấn đề sau: Thứ nhất: Từ việc nắm vững lý thuyết cơ bản của phê bình văn học nữ quyền, luận án chỉ ra được những hiệu quả về mặt nội dung và nghệ thuật biểu hiện của truyện ngắn nữ hiện đại Việt Nam 2000-2015. Thứ hai: Luận án đi sâu nghiên cứu đề tài trong sự liên hệ đa dạng với các hình thái ý thức xã hội, đặc biệt là chính trị, lịch sử, xã hội học, mỹ học... để làm rõ đặc trưng và bản chất của chủ nghĩa nữ quyền được thể hiện trong văn học. Từ đó, có thể thấy được nét đẹp thẩm mỹ và nhân văn trong đời sống thông qua hình tượng nhân vật nữ trong tác phẩm với những đặc điểm giới tính đa dạng: dịu dàng, 3

lãng mạn nhưng cũng đầy cá tính, phóng khoáng. Đó là nét đẹp hồn hậu của người phụ nữ Việt Nam: chân thành, sâu sắc, thủy chung với thiên chức làm vợ, làm mẹ; và thể hiện quyền được sống, quyền được yêu và được hạnh phúc. 3.2 Phương pháp nghiên cứu Từ hướng tiếp cận Phê bình văn học nữ quyền, để triển khai đề tài, chúng tôi vận dụng các lý thuyết nghiên cứu hỗ trợ như phân tâm học, tự sự học, phê bình nữ quyền sinh thái để cộng hưởng giải mã truyện ngắn nữ Việt Nam giai đoạn 2000-2015. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp chuyên ngành sau: - Phương pháp so sánh, đối chiếu: đây là phương pháp có tính xuyên suốt trong toàn bộ luận án để phân tích và so sánh, chỉ ra tinh thần và âm hưởng nữ quyền trong ý thức nghệ thuật của từng tác giả và tác phẩm tiêu biểu. - Phương pháp cấu trúc, hệ thống: đây là phương pháp đặc biệt có ý nghĩa trong việc mô hình hóa và hệ thống hóa các quan điểm về nữ quyền trong truyện ngắn nữ Việt Nam từ trung đại cho đến hiện đại. - Phương pháp loại hình: đây là phương pháp cơ bản để xác định được đặc trưng của lối viết nữ, cá tính sáng tạo của một số cây bút nữ tiêu biểu thông qua đặc trưng truyện ngắn - thể loại có nhiều yếu tố tích hợp nghệ thuật mới mẻ của thời hiện đại. - Ngoài ra, chúng tôi còn vận dụng lý thuyết Thi pháp học làm phương pháp hỗ trợ để nghiên cứu các yếu tố nổi trội của nội dung và hình thức, hai bình diện tạo nên chỉnh thể tự trị của truyện ngắn nữ Việt Nam giai đoạn này. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu - Nghiên cứu đặc điểm bản chất về nội dung và hình thức tác phẩm phản ánh ý thức phái tính và âm hưởng nữ quyền mạnh mẽ nhất mà các nhà văn nữ đã ý thức thể hiện qua từng quan hệ và bước ngoặt chuyển mình của đời sống xã hội. - Nghiên cứu đặc điểm của lối viết nữ khi thể hiện các chủ đề giới và nội dung giới trong nhiều mối quan hệ bản chất và tương tác để làm thành đặc sắc và thi pháp riêng của truyện ngắn nữ Việt Nam 2000-2015. 4

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Kế thừa nền tảng lý thuyết nữ quyền/ phê bình văn học nữ quyền, luận án đi sâu nghiên cứu về lối viết nữ thông qua đặc trưng thể loại. Từ đó, xác lập vị thế, đóng góp nổi bật của từng nhà văn nữ trong việc thể hiện ý thức phái tính và âm hưởng nữ quyền hiện đại của truyện ngắn nữ giai đoạn 2000 2015. - Bên cạnh đó, luận án còn so sánh, đối chiếu, phân tích âm hưởng nữ quyền, làm rõ sự khác biệt cũng như những đóng góp của truyện ngắn nữ đương đại 2000 2015 so với truyện ngắn nữ giai đoạn trước năm 2000 và sau năm 2015. 5. Đóng góp của luận án Luận án có những đóng góp mới sau đây: - Hệ thống và lý giải một cách có cơ sở những vấn đề về nữ quyền trong văn hóa và văn học, đặc biệt là trong truyện ngắn nữ Việt Nam giai đoạn 2000 2015. Từ đó, luận án khẳng định ý thức phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học đương đại là một bước tiến/ hệ quả tất yếu của xu hướng bình đẳng hóa, dân chủ hóa trong xã hội và trong văn học mà các nhà văn nữ đã ý thức sâu sắc và thể hiện rất có hiệu quả trong sáng tạo. - Đề tài nghiên cứu thực tiễn sáng tác truyện ngắn của các nhà văn nữ, đặc biệt là trong giai đoạn từ 2000-2015 để thấy được sự cách tân trong việc thể hiện nội dung và hình thức tác phẩm. Qua đó, chỉ ra những đóng góp nổi bật của các nhà văn nữ Việt Nam trong việc phát huy và phát triển dòng văn học nữ quyền đã hiện diện từ trước đến nay. 6. Bố cục luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận án được chia thành 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu Ở chương này, chúng tôi sẽ đi sâu vào tình hình nghiên cứ lý thuyết nữ quyền ở thế giới và ở Việt Nam. Ngoài ra, chúng tôi còn tổng thuật, làm sáng rõ về tình hình nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam từ góc nhìn phê bình văn học nữ quyền từ trước đến nay qua các giai đoạn, qua đó, khẳng định những thành tựu 5

và hạn chế của các công trình đi trước. Từ đó, đề xuất những hướng nghiên cứu mới và hướng nghiên cứu bổ sung cho luận án của chúng tôi, chủ yếu ở hướng tiếp cận phê bình văn học nữ quyền và phê bình văn học nữ quyền sinh thái. Chương 2: Lý thuyết nữ quyền, Phê bình văn học nữ quyền và ý thức nữ quyền trong văn học Việt Nam Ở chương này, chúng tôi quan tâm và đi sâu tìm hiểu lý thuyết nữ quyền và phê bình văn học nữ quyền, đặc biệt là sự gắn bó mật thiết của phê bình văn học nữ quyền với truyện ngắn hiện đại Việt Nam. Trong đó, cần làm rõ vấn đề nữ quyền, nguồn gốc và khái niệm; sự xuất hiện của chủ nghĩa nữ quyền và sự phát triển của quyền lực nữ quyền; lịch sử phát triển của chủ nghĩa nữ quyền đồng thời, làm rõ bản chất của lý thuyết giới, lý thuyết nữ quyền và phê bình văn học nữ quyền. Sau cùng là tìm hiểu khái quát sự thể hiện ý thức nữ quyền trong văn học Việt Nam từ truyền thống cho đến hiện đại. Chương 3: Các kiểu nhân vật nữ mang đặc trưng giới trong truyện ngắn nữ Việt Nam 2000-2015 từ góc nhìn phê bình văn học nữ quyền Trong chương này, chúng tôi trình bày hệ thống thế giới nhân vật đa dạng, phong phú đầy thiên tính nữ đóng vai trò quan trọng trong việc làm rõ ý thức phái tính trong văn học hiện đại Việt Nam từ góc nhìn phê bình văn học nữ quyền. Đó là nhân vật nữ với sự tranh đấu cho quyền sống và quyền tự do; thiên tính làm mẹ và khát vọng tình yêu; bản năng tính dục và nhu cầu giải phóng tính dục; khát vọng giải phóng bản thân cùng mối liên hệ với môi trường sinh thái. Chương 4: Phương thức nghệ thuật của truyện ngắn nữ Việt Nam 2000-2015 từ góc nhìn phê bình văn học nữ quyền Ở chương này, chúng tôi đi sâu phân tích về giọng điệu nghệ thuật; điểm nhìn trần thuật; diễn ngôn nghệ thuật có liên quan đến nữ quyền trong các truyện ngắn tiêu biểu của các tác giả nữ Việt Nam 2000-2015. Từ đó, khẳng định lối viết nữ cùng phương thức nghệ thuật trần thuật đã và đang chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong việc cách tân thể loại truyện ngắn Việt Nam hiện đại và đương đại. 6

NỘI DUNG Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu lý thuyết nữ quyền 1.1.1. Tình hình nghiên cứu lý thuyết nữ quyền trên thế giới Nghiên cứu về lý thuyết nữ quyền là nghiên cứu về sự đấu tranh để đạt được quyền bình đẳng giới trên tất cả mọi phương diện của đời sống xã hội và tinh thần. Nói một cách khác: Lý thuyết nữ quyền tập trung phân tích sự bất bình đẳng giới. Chủ đề khám phá trong phong trào nữ quyền bao gồm phân biệt đối xử, áp bức, chế độ phụ hệ, rập khuôn, lịch sử nghệ thuật và nghệ thuật đương đại, và thẩm mỹ [115]. Ở phương Tây, ngoài những tác phẩm viết về nữ quyền nổi tiếng như Giới thứ hai (1949) của Simone de Beauvoir, Một căn phòng riêng của Virginia Woolf (1929), Sự xác minh về các quyền của phụ nữ (A Vindication of the Right of Women, 1792) của Marie Wollstonerast, Cuốn sổ tay vàng (The Golden Notebook, 1979) của Doris Lesing, thì còn phải kể đến học thuyết Phân tâm học của Sigmund Freud và Phân tâm học cấu trúc của Jacques Lacan. Freud với mặc cảm Oedipus đã phân định ra đặc trưng trong tính cách nam và nữ: nam giới chủ động và chiếm hữu còn nữ giới thì bị động, lệ thuộc. Có thể nói, Marie Wollstonerast đã mở ra một chương mới với lý thuyết nữ quyền trong cuốn Sự xác minh về các quyền phụ nữ năm 1972 bao gồm các nghiên cứu sau: Phụ nữ đang thay đổi, Không phải tôi là một phụ nữ, Speech sau khi bắt giữ bất hợp pháp cho quyền biểu quyết. Còn Nancy Cott thì tuyên truyền cho quyền bầu cử của phụ nữ vào năm 1920. Và như vậy, người phụ nữ trong xã hội đã được tôn trọng và đóng vai trò như một thực thể với các quyền lợi về chính trị như nam giới. Tác giả Jean Baker Miller thì nổi tiếng với tâm lý học nữ quyền. Bà xem lý thuyết nữ quyền luôn gắn với tâm lý người phụ nữ, nó quyết định mọi hành động sau này. 7

Ở Mỹ, cuốn A handbook of Critical Approaches to Literature (1979) (Sổ tay về các phương pháp phê bình văn học) của tác giả Wilfried L. Guerin, Earle Larbor, Morgan do nhà xuất bản Oxford ấn hành giúp người đọc hiểu về các khuynh hướng phê bình nữ quyền cụ thể và sâu sắc. Tác phẩm The New Feminist Criticism (1985) (Lý thuyết phê bình nữ quyền mới) của Elaine Showalter với hơn 300 bài tiểu luận và nghiên cứu có giá trị về phê bình nữ quyền ở Mỹ được đánh giá cao. Theo tác giả, nghiên cứu lý thuyết nữ quyền bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau như phê bình nữ quyền, lý thuyết giới... Nhà nghiên cứu Robert Con Davis với Contemporary Literary Criticism (Phê bình văn học đương đại) với phần Biện chứng giới về nữ quyền được phân tích một cách sâu sắc. Cuốn Feminism and Autobiography (Nữ quyền và tự truyện) do Tess Cosslett, Celia Lury và Penny Summerfield biên soạn, được xuất bản năm 2000 tại Anh, Mỹ và Canada là công trình nghiên cứu về nữ quyền sâu sắc, có giá trị. Đối với phê bình nữ quyền thì chủ nghĩa nữ quyền (Feminism) ra đời là hệ quả tất yếu của phong trào cách mạng tư sản cận đại, có bề dày phát triển hơn hai trăm năm. Một số phong trào về nữ quyền có sức ảnh hưởng lan tỏa rộng lớn đến khắp thế giới. Tiêu biểu, khi Đại cách mạng tư sản Pháp bùng nổ, vào tháng 10 năm 1789, một nhóm phụ nữ xông thẳng vào trụ sở Quốc dân đại hội, đòi quyền nam nữ bình đẳng. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, đa số các nước đều xác nhận nam nữ bình quyền trong Hiến pháp. Chủ nghĩa nữ quyền giai đoạn này có ảnh hưởng to lớn đến văn học. Tiêu biểu, năm 1964, nữ tác gia người Anh Mary Astell với tác phẩm Một đề nghị nghiêm túc cho quý bà. Năm 1970, nữ tác gia Pháp Olympe de Gouges đã phát biểu Tuyên ngôn quyền lợi phụ nữ bao gồm 17 điều yêu cầu của giới phụ nữ. Đến năm 1792, nữ kịch tác gia người Anh Mary Wollstonecraft viết công trình Biện hộ cho nữ quyền. Năm 1872, nhà văn Pháp Alexandre Dumas công bố luận văn Bàn về phụ nữ với những nội dung mới mẻ, cập nhật. Bên cạnh đó là những công trình có giá trị khác: Judith Sargent Murray với tiểu luận Bàn về sự bình đẳng giới năm 1790; Virginia Woolf với Căn phòng riêng (1929), Ba đồng ghi nê (1938)... 8

Chủ nghĩa nữ quyền chỉ thực sự trở nên có sức lan tỏa mạnh mẽ thông qua tác phẩm kiệt xuất của nữ văn sĩ người Pháp Simone de Beauvoir: Giới thứ hai (1949). Trong tác phẩm của mình, Beauvoir chỉ trích gay gắt nền văn hóa phụ hệ đã đẩy người phụ nữ ra ngoài lề của xã hội cũng như của văn học nghệ thuật. Và trong tư tưởng của nền văn hóa ấy, nam giới luôn gắn liền với nhân loại, lịch sử, còn phụ nữ thì bị nhìn nhận như một kẻ khác (the Other), luôn ở thế bị động, phụ thuộc, phải dựa hoàn toàn vào nam giới. Với nội dung phân tích sự áp bức và yêu cầu cao hơn nữa để giải phóng phụ nữ trong đời sống xã hội, Giới thứ hai đóng vai trò quan trọng thúc đẩy phong trào phụ nữ chuyển sang một bước tiến mới. Nhờ vậy, Liên hiệp quốc đã tuyên bố năm 1975 là Năm quốc tế phụ nữ. Với tiêu đề công trình của mình, bà không dùng Giới nữ mà lại dùng Giới thứ hai. Theo bà, Giới nữ gắn liền với những quan niệm tất yếu của xã hội: đó là mềm yếu, dễ thuyết phục... và đó là sản phẩm của xã hội và văn hóa, của thế giới đàn ông cố tạo nên quy chuẩn ngầm cho phụ nữ. Simone de Beauvoir phải dùng Giới thứ hai để giảm nhẹ thiên kiến của xã hội gán ghép cho giới nữ. Do đó, bà kêu gọi các văn sĩ hãy dùng sức mạnh ngôn từ đấu tranh chống lại sự khống chế của nam giới, của định kiến xã hội, chứ không chịu an phận trong những ngôn từ quy thuận của mình. Giới thứ hai được xem là một bản tuyên ngôn nữ quyền của giới nữ, vốn không được xem trọng trong xã hội thời bấy giờ. Nội dung của tác phẩm nói về những vấn đề mà phụ nữ bị áp bức, kìm hãm lâu dài dẫn đến trở thành giới ít quan trọng hơn (giới thứ hai) so với nam giới (giới thứ nhất). Đối với Beauvoir, trong Giới thứ hai, bà xem phụ nữ như là tha nhân và giới đóng vai trò quan trọng trong xã hội. Bên cạnh đó, bà đã khám phá ra được thân phận phụ nữ, người phụ nữ có một vai trò bất di bất dịch trong xã hội chính là tha nhân của đàn ông. Từ đó, tạo nên một quan hệ bất bình đẳng (phụ nữ bị áp bức một cách phổ biến) và cần phải giải quyết sự bất công trong quan hệ đó. Cái hay của Beauvoir trong Giới thứ hai là bà vận dụng nhiều kiến thức về triết học, sinh học, thần thoại học, nhân loại học, lịch sử, phân tâm học để chứng 9

minh cho luận điểm của mình. Ví như, khi bàn luận về sinh học và lịch sử, bà chỉ ra phụ nữ phải trải qua một số hiện tượng đặc thù như kinh nguyệt, thai nghén, cho con bú. Điều này khiến cho phụ nữ khác biệt so với nam giới. Nói tóm lại, Simone de Beauvoir được xem là người đi tiên phong, đặt nền móng đầu tiên cho phong trào nữ quyền mới, mở ra một hướng đi tiến bộ cho công cuộc giải phóng phụ nữ mà không hề lặp lại các phương pháp đấu tranh truyền thống đã có trong quá khứ. Hưởng ứng tinh thần của Beauvoir, hàng loạt bài viết về đấu tranh giành quyền bình đẳng cho nữ giới ra đời, đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của phong trào phê bình nữ quyền. Các nhà văn nữ kêu gọi, thúc đẩy chủ trương lấy thân phận của phụ nữ để đọc, khi đó tác phẩm văn học mới hạn chế được những thiên kiến về nam quyền. Tác giả Elaine Showalter, nhà phê bình văn học nữ quyền người Mỹ là người đưa ra khái niệm phê bình phụ nữ vào những năm cuối thập niên 70. Theo bà, khái niệm phê bình nữ quyền bao gồm nhiều yếu tố như lịch sử, thể loại, phong cách, cấu trúc, tư tưởng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến lối viết nữ. Bà đã phân chia lịch sử lối viết nữ thành 3 giai đoạn cơ bản ứng với 3 thời kỳ phát triển ý thức hệ đặc trưng của nữ giới. Đó là: 1. Giai đoạn tính nữ: đây là giai đoạn các tác giả nữ bị ảnh hưởng bởi văn học truyền thống của nền sáng tác nam quyền từ năm 1840 đến năm 1880. 2. Giai đoạn nữ quyền: là giai đoạn các nhà văn nữ đứng lên đấu tranh mạnh mẽ cho giới của mình, đồng thời thể hiện tiếng nói phản kháng những giá trị truyền thống văn chương của nam giới từ năm 1880 đến năm 1920. 3. Giai đoạn văn học nữ: là giai đoạn giới nữ thể hiện những đặc trưng riêng về lối viết, chống lại sự phụ thuộc nam giới và hình thành nên nền văn học nữ. Đây là thời kỳ văn học quan tâm đến cuộc đời và số phận của nhân vật nữ để thấy rõ vai trò của giới nữ từ lâu đã bị xem thường và lãng quên. Giai đoạn này kéo dài từ năm 1920 trở về sau. Như vậy, phê bình văn học nữ quyền chính là sự công nhận và bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của người phụ nữ đáng được hưởng. Ở phương Đông, tiêu biểu là Nhật Bản, những nghiên cứu về nữ quyền vẫn còn hạn chế dưới thời Minh Trị Duy Tân. Người phụ nữ Nhật rất chiều chuộng, 10

nhường nhịn phái nam. Tiêu biểu người vợ khi đón chồng về thường bắt đầu bằng câu: Anh muốn ăn tối ngay hay đi tắm trước?. Như vậy, ngay cả trong quan hệ gia đình, người phụ nữ cũng phải dùng kính ngữ, luôn hạ thấp mình xuống một bậc so với đàn ông, người trụ cột trong gia đình. Người phụ nữ Nhật Bản được xem là cam chịu, luôn ứng xử theo tam tòng, tứ đức, họ phải luôn phục tùng đàn ông dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Theo Nguyễn Nam Trân, nhà nghiên cứu và dịch giả văn học Nhật Bản, trong bản thảo biên khảo Tổng quan lịch sử văn học Nhật Bản, chương "Khi văn học Nhật Bản nhìn ra thế giới" thì: "Từ năm Showa 50 (1975) trở đi, trong bầu không khí của phong trào tìm cách nới rộng quyền sống phụ nữ, các nhà văn phái nữ đã có những hoạt động đáng kể. Đó là dòng văn học tranh đấu cho nữ quyền (women rights), hay mạnh mẽ hơn nữa, thiên trọng phụ nữ (feminism)." [92, tr. 318]. Tiêu biểu là các nhà văn như Kono Taeko: "từ chối mẫu tính", đào sâu chủ đề "thế giới của những dục vọng thầm kín và lệch lạc của con người", hay Tsushima Yuko: "hình ảnh người đàn bà đơn độc nuôi con"... Tuy vậy, có vẻ những tiếng nói ấy cũng chỉ là những lời ta thán về thân phận người phụ nữ, kiểu "Đau đớn thay phận đàn bà / Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung" (Truyện Kiều - Nguyễn Du), hay táo tợn lắm cũng chỉ là những lời phản kháng đối với xã hội còn dung dưỡng duy trì những bất công về phái tính, tạo ra những bi kịch, thảm kịch của phụ nữ. Những ta thán, phản kháng như thế vẫn tiếp tục xuất hiện bàng bạc, không nhiều thì ít, trong tác phẩm của các nhà văn phái nữ Nhật Bản thời nay. Văn học Nhật Bản từng có dòng văn học nữ tính từ thời trung đại (thế kỉ XI, thời Heian/ Bình an) cho đến thế kỉ XIII thì lắng xuống, mãi đến thế kỉ XIX dưới thời đại Minh Trị mới trỗi dậy. Nhiều nhà văn nữ đóng góp đáng kể thành tựu của mình cho nền văn học hiện đại và đương đại Nhật. Sono Avako, nữ tác giả nổi tiếng với tác phẩm Người khách từ phương xa (1954). Trong đó, Sono miêu tả nhân vật thiếu nữ 19 tuổi tỏ thái độ khinh thường những tên lính Mỹ ngang tàng v.v.. 11

Ở Trung Quốc, do ảnh hưởng Nho giáo nên người phụ nữ cũng bị áp chế bởi những chế độ, định kiến xã hội rất hà khắc. Hiểu rõ hoàn cảnh ấy, những nhà văn nữ trước Cách mạng Văn hóa như Đinh Linh, Băng Tâm đã viết những tác phẩm về nữ quyền, tạo ra được tiếng vang mạnh mẽ trong lịch sử văn học Trung Quốc nhưng mới chỉ phát triển thành những xu hướng nhỏ lẻ. Theo nhà nghiên cứu văn học Trung Quốc Tưu Tư Khiêm thì khái niệm văn học nữ tính là trào lưu văn học ra đời từ sau phong trào văn hóa mới Ngũ Tứ, lấy nữ tính làm chủ thể ngôn từ, chủ thể trải nghiệm, chủ thể tư duy, chủ thể thẩm mỹ. Hiện nay, văn học nữ Trung Quốc đương đại với nhiều trào lưu như Tiểu thuyết nữ tính chủ nghĩa (các nhà văn nữ ở lứa tuổi trung niên) và dòng văn học linglei (dòng văn học nữ đầy phá cách, khác biệt so với dòng văn học chính thống) với những nhà văn trẻ bảo chứng cho sự thành công của tác phẩm như: Xuân Thụ, Trương Duyệt Nhiên, Trịnh Tiểu Quỳnh, Lý Sỏa Sỏa, nhà văn mạng Tào Đình Hầu hết các nhà văn đã thể hiện sự đa dạng, cách tân về thể loại như lồng vào tác phẩm yếu tố tự truyện, đề tài tính dục, hình tượng người phụ nữ ở thành thị và nông thôn với bút pháp tự do, phóng khoáng giúp cho các tác phẩm của họ mang hơi thở thời đại, tạo cảm giác gần gũi với người đọc. Cùng với Nhật Bản, Hàn Quốc cũng là nơi bị ảnh hưởng nặng nề bởi Nho giáo, nam giới vẫn đóng vai trò trụ cột và nắm giữ các vị trí quyền lực trong xã hội, còn phụ nữ thì luôn bị xem thường, đối xử bất công. Cuối năm 1990 là thời kỳ khủng hoảng kinh tế châu Á, nhiều người đàn ông bị mất việc. Người phụ nữ đã dần độc lập, tự chủ về kinh tế, không còn lệ thuộc vào đàn ông. Đây cũng chính là giai đoạn mà quyền bình đẳng giữa hai giới được nhấn mạnh, không phân biệt giới tính, có quyền cống hiến và làm việc như nhau. Làn sóng nữ quyền có thể nói đã trỗi dậy và tạo được tiếng vang, hiệu ứng mạnh mẽ nhất ở Hàn Quốc là thông qua phim ảnh, băng hình, quảng cáo... Giới showbiz Hàn đã có nhiều bộ phim tuyên truyền, ủng hộ cho bình đẳng giới. Những nhân vật nữ không còn quá yếu đuối, nhu mì mà thay vào đó là những cô gái nghèo khó nhưng mạnh mẽ, cá tính, luôn mang trong mình ước mơ, hoài bão vượt lên số 12

phận, thành công trong cuộc sống. Ở Hàn Quốc, tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn tồn tại rất lớn, hầu như mọi công việc từ lớn đến nhỏ như dọn dẹp nhà cửa, nội trợ, đưa đón, chăm sóc con cái, chăm sóc gia đình đều do một tay người phụ nữ quán xuyến, lo liệu. Người đàn ông về đến nhà chỉ việc đọc báo, xem tivi hoặc chơi với con. Điều này dẫn đến sự bất bình đẳng về giới, trong khi cả hai giới đều làm việc, nhưng xem ra người phụ nữ xứ sở kim chi phải chịu vất vả và nhiều thiệt thòi hơn đàn ông. Tóm lại, tình hình nghiên cứu lý thuyết nữ quyền trên thế giới đã có những bước phát triển đáng ghi nhận cùng nhiều tác phẩm viết về phê bình nữ quyền có giá trị, làm nền tảng cho những công trình nghiên cứu về lý thuyết cũng như công tác lý luận, phê bình về giới sau này ở Việt Nam. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu lý thuyết nữ quyền ở Việt Nam Ở Việt Nam, nghiên cứu nữ quyền cũng diễn ra khá sớm, nhất là từ những năm đầu thế kỷ XX. Năm 1907 trên Đăng cổ tùng báo đã có mục Nhời đàn bà xuất hiện như một diễn đàn của phụ nữ. Bà Đào Thị Loan, trong chuyên mục này, đã lên tiếng về sự bất công trong hành xử của nam giới đối với phụ nữ. Cụ thể, bà cho rằng: Làm đàn ông phải ăn ở thế nào, cho đàn bà biết suy hơn quản thiệt, mà trọng mình thì mới xướng (sướng), chớ cứ dốt (nhốt) vợ một só (xó) nhà, hơi lạc con mắt đã lo nghĩ, là người hèn, chỉ muốn dùng sự trói buộc, mà thủ lấy tình riêng một mình [101]. Năm 1916, trên Trung Bắc Tân Văn trong mục Nhời đàn bà, Nguyễn Văn Vĩnh cho rằng việc coi thường phụ nữ của người đàn ông Việt Nam là tự làm thiệt mình bởi người phụ nữ được sinh ra để làm bạn, cùng chia sẻ công việc chứ không phải làm thân trâu ngựa. Cũng trong năm 1916, Phạm Quỳnh cũng đánh giá cao người phụ nữ trong gia đình với bài Sự giáo dục đàn bà con gái trên Đông Dương tạp chí. Ông cho rằng phụ nữ bị đánh giá thấp bởi không có học thức, đó chính là sự thiệt thòi của nữ giới, từ đó sinh ra các hệ quả khác trong xã hội. 13

Người quan tâm và thường xuyên viết về các vấn đề giải phóng phụ nữ, đó chính là nhà báo Phan Khôi (1887-1959). Ông ủng hộ tinh thần giải phóng phụ nữ thông qua một loạt bài như Về văn học của phụ nữ Việt Nam (Phụ nữ Tân Văn số 1, ngày 2/5/1929), Văn học với nữ tánh (Phụ nữ Tân Văn số 2, 9/5/1929), Văn học của phụ nữ nước Tàu về thời kỳ toàn thạnh (Phụ nữ Tân Văn số 3, 16/5/1929)... Trong bài Tống Nho với phụ nữ in trên Phụ nữ tân văn (1931), ông kêu gọi sự bình đẳng cho giới nữ trong hôn nhân, gia đình: Cái luật cấm cải giá là bất công, vô đạo, cướp mất quyền lợi đàn bà mà không bổ ích gì cho phong hóa, nên phế trừ đi là phải [57]. Bên cạnh đó, đấu tranh vì những bình đẳng về giới đã được các danh sĩ, các nhà trí thức yêu nước thời đó đặc biệt quan tâm, trong đó có Phan Bội Châu với Vấn đề phụ nữ được in ở Nxb Duy Tân thư xã, Huế (1929) đã chỉ ra những bất bình đẳng của phụ nữ suy cho cùng là do nguyên nhân lịch sử - xã hội. Cũng trong thời điểm đó, những vấn đề về phụ nữ của một số tác giả tiếp thu lý thuyết tiên tiến từ phương Tây được quan tâm như: Trần Thiện Ty và Bùi Thế Phúc với khuynh hướng phê bình nữ quyền Âu hóa trong Vấn đề phụ nữ ở Việt Nam (1932); Vấn đề phụ nữ của Nguyễn Thị Kim Anh (Nguyễn Thị Minh Khai), Nhà xuất bản Tân Dân (1938); Bộ sách Đời chị em và Chị em gái làm gì của Cựu Kim Sơn và Văn Huệ, Nxb Dân chúng (1938)... Nhìn chung, những bài viết trên đều lên tiếng bảo vệ quyền phụ nữ, chỉ ra nguyên nhân của sự bất bình đẳng giới, tuy rằng quan niệm của họ còn nằm trong phạm trù cũ, chưa thật sự mang tinh thần nữ quyền hiện đại như sau này của các nhà nữ quyền hiện đại, cấp tiến. Giai đoạn 1945-1975, cả nước bước vào hai cuộc chiến tranh thần thánh của dân tộc: kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đã định hình rõ hai miền Nam Bắc. Chính vì thế, công tác nghiên cứu lý thuyết và phê bình nữ quyền đã có sự khác nhau ở hai miền: miền Bắc thường gắn liền đời sống hiện thực và cách mạng còn đối với miền Nam thì đó chính là phê bình về văn xuôi đô thị, gắn với đời sống thực dụng của xã hội tiêu dùng lúc bấy giờ. 14

Sau năm 1986, văn học giai đoạn Đổi mới đã chứng kiến những bước phát triển nhảy vọt trong công tác nghiên cứu, phê bình về lý thuyết nữ quyền được tiếp thu có chọn lọc từ phương Tây và vận dụng linh hoạt vào công tác phê bình ở Việt Nam. Có thể thấy rằng, số lượng các tác giả với những công trình nghiên cứu chuyên sâu và có chất lượng được trẻ hóa, không ngừng gia tăng về số lượng và chất lượng từ sau năm 2000. Có thể kể đến một số tác giả đã thể hiện những góc nhìn tham chiếu khác nhau trên nhiều lĩnh vực như về vấn đề nữ quyền trong hôn nhân, gia đình. Tiêu biểu là tác giả Lê Ngọc Văn với Nghiên cứu gia đình - Lý thuyết nữ quyền, quan điểm giới (2005) được in bởi Viện Khoa học xã hội nhân văn đã giới thiệu lịch sử hình thành tư tưởng nữ quyền, một số quan điểm cơ bản, ứng dụng lý thuyết mới, lý thuyết nữ quyền... Tác giả Hoàng Bá Thịnh trong tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới số 4 (2008) với bài viết Về các làn sóng nữ quyền và ảnh hưởng của nữ quyền đến địa vị của phụ nữ Việt Nam đã đi sâu phân tích về các làn sóng nữ quyền và địa vị của phụ nữ Việt Nam hiện nay trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa. Tác giả khẳng định: Địa vị của người phụ nữ - dù trong xã hội truyền thống hay trong xã hội hiện đại - đều chịu tác động của các yếu tố cơ bản như: chính trị, kinh tế, văn hóa, tôn giáo. Tùy thuộc những yếu tố này phát triển như thế nào mà người phụ nữ ở các nước khác nhau có được địa vị cao hay thấp trong đời sống gia đình và xã hội [119]. Bài nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các phong trào nữ quyền chính là một phần, chứ không phải duy nhất quyết định mọi vấn đề về bình đẳng giới và giải phóng phụ nữ ở Việt Nam. Yếu tố cốt lõi quyết định bình đẳng giới đó là các chính sách, đường lối của Đảng về giới. Tác giả Nguyễn Đăng Điệp với bài nghiên cứu nổi tiếng: Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại (2006) đi sâu vào một vấn đề phức tạp: vấn đề giới tính bởi nó có liên quan đến ý thức, chính trị, tôn giáo trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau. Những yếu tố theo tác giả có ảnh hưởng trực tiếp đến âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại: ngôn ngữ có yếu tố nữ tính với những câu chuyện đời thường gần gũi, góc nhìn 15

cá nhân, đề tài tính dục và lối viết bản năng, lối viết thân thể thể hiện sự xông pha của nữ giới trước những đề tài nóng, cấm kỵ nhất Ngoài ra, một cây bút phê bình văn học nữ quyền với tuổi đời còn trẻ đã đi sâu phân tích ý thức nữ quyền trong đầu thế kỷ XX, một giai đoạn quan trọng trong tiến trình phê bình về giới: tác giả Hồ Khánh Vân với bài nghiên cứu đáng chú ý như: Ý thức nữ quyền và sự phát triển của văn học nữ Nam Bộ trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc đầu thế kỷ XX (Tạp chí Nghiên cứu văn học, tháng 7/2010). Theo tác giả, ý thức nữ quyền đã có sự manh nha từ đầu thế kỷ XX, phụ nữ chính là đối tượng trung tâm và trọng yếu mà văn học hướng đến bởi phụ nữ chính là đối tượng và phương thức sáng tác. Nữ tính và văn chương có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau trên nhiều phương diện, đặc biệt được thể hiện rõ trong văn học. Đáng chú ý, bài viết đã thể hiện rõ những đặc trưn, diện mạo văn học nữ Nam Bộ giai đoạn đầu thế kỷ XX đầy sôi nổi với các cây bút nữ trên nhiều mặt trận văn học lẫn thi ca như Phan Thị Bạch Vân, Huỳnh Thị Bảo Hòa, Nguyễn Thị Manh Manh Các tác giả nữ đã tạo nên một trào lưu văn học đầy mới mẻ, thúc đẩy sự phát triển của các thể loại văn học mới, góp thêm tiếng nói về giới trong quá trình hiện đại hóa ngôn ngữ văn học. Ngoài ra, tác giả Hồ Khánh Vân còn có những bài nghiên cứu đáng chú ý khác như: Từ quan niệm lối viết nữ (L ecriture féminine) đến việc xác lập một phương pháp nghiên cứu trong phê bình nữ quyền - Niên giám Bình luận văn học 2011 - Tạp chí Đại học Sài Gòn; Một vài lý giải về hiện tượng tự thuật trong sáng tác văn xuôi của các tác giả nữ Việt Nam từ năm 1990 đến nay - Niên giám Bình luận văn học 2012 - Tạp chí Đại học Sài Gòn Cả hai bài viết này đều đề cập đến sức hấp dẫn của lối viết nữ và hiện tượng tự thuật, đã dần trở nên phổ biến trong những sáng tác của nữ giới. Đối với trào lưu văn học hậu hiện đại, văn học Việt Nam hiện nay đã có sự cách tân, chọn lọc trong việc tiếp thu nền tảng lý thuyết hậu hiện đại từ phương Tây, đặc biệt là về phê bình nữ quyền. Tác giả Phương Lựu với công trình Lý thuyết văn học hậu hiện đại xuất bản năm 2011, đã chỉ ra những tiền đề, sự phát triển của lý thuyết và phê bình nữ quyền, đặc biệt là phê bình nữ quyền da đen. 16

Tác giả Nguyễn Văn Hòa, Nguyễn Việt Phương với bài viết Lý thuyết đạo đức về sự quan tâm - một điển hình của cách tiếp cận nữ quyền trong đạo đức học, Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, 2011 cho rằng hướng tiếp cận nghiên cứu nữ quyền thông qua lý thuyết đạo đức là một hướng đi mới ở phương Tây nửa sau thế kỷ XX. Đó chính là lý thuyết đạo đức của sự quan tâm (ethics of care) mà các tác giả đã đưa vào trong công trình nghiên cứu của mình. Từ sự nghiên cứu các công trình nữ quyền về đạo đức, người viết đã chỉ ra được sự khác biệt trong việc tiếp nhận lý thuyết đạo đức có sự khác biệt giữa hai phái. Vấn đề đạo đức được nữ giới quan tâm và chú trọng hơn trong khi xu hướng bạo lực gia đình, cưỡng bức tình dục, hôn nhân bất bình đẳng lại nghiêng về nam giới nhiều hơn. Khái niệm về sự quan tâm bao gồm cả những vấn đề về tình cảm và nhận thức, nữ giới vẫn có những đặc tính và những giá trị vượt trội riêng biệt. Nghiên cứu về lý thuyết đạo đức là một hướng đi đúng đắn và phù hợp bởi Lý thuyết này không chỉ đòi hỏi sự bình đẳng cho nữ giới trong cấu trúc xã hội, mà xa hơn đòi hỏi một sự nhìn nhận đúng đắn hơn, công bằng hơn và nhân văn hơn từ phía nam giới về những trải nghiệm đặc trưng của nữ giới, để từ đó có thể khám phá những giá trị phong phú, tầm quan trọng và ý nghĩa đạo đức của sự quan tâm [44]. Tác giả Nguyễn Thị Bình với Ý thức phái tính trong văn xuôi nữ đương đại, tạp chí Nghiên cứu văn học, 2011; tác giả Phan Tuấn Anh với Quá trình giải phóng thiên tính nữ trong văn học nghệ thuật từ góc nhìn mỹ học tính dục. Cả hai bài viết của Nguyễn Thị Bình và Phan Tuấn Anh đều nghiên cứu chuyên sâu về yếu tố thiên tính nữ và yếu tố tính dục trong văn học. Tác giả Đặng Thị Vân Chi với Vấn đề nữ quyền ở Việt Nam đầu thế kỷ XX, được in trong Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam lần thứ nhất (2012). Bài viết đã chỉ ra được những vấn đề cốt yếu, trọng tâm làm nền tảng của sự xuất hiện tư tưởng nữ quyền ở Việt Nam cùng sự phát triển nhận thức của người phụ nữ Việt Nam đầu thế kỷ XX. Thông qua bài viết, tác giả đã đúc kết được những kết luận có giá trị. Thứ nhất, vấn đề phụ nữ ở Việt Nam là một vấn đề được lưu tâm từ những năm đầu thế kỷ XX chứng tỏ vai trò quan trọng của người phụ nữ trong gia đình và xã hội. Thứ hai, vấn đề phụ nữ ở Việt Nam, vấn đề nữ quyền 17

luôn gắn với vấn đề dân tộc, vấn đề giai cấp. Thứ ba, nữ giới đã sớm nhận thức được vai trò của mình thông qua sự xuất hiện của những tờ báo dành riêng cho giới của mình. Thứ tư, quá trình tự nhận thức của người phụ nữ đã dẫn đến những biến chuyển tích cực về các phong trào đòi quyền bình đẳng, giải phóng phụ nữ, giải phóng dân tộc lúc bấy giờ. Tác giả Bùi Thị Tỉnh với sách tham khảo Phụ nữ và giới đã đi sâu phân tích về chủ nghĩa hiện sinh, đi tìm ngọn nguồn về giới trong lịch sử, những sự khác biệt mang tính huyền thoại về giới. Trong hầu hết các trang viết trong sách tham khảo của mình, tác giả Bùi Thị Tỉnh đều nhắc đến vai trò của giới, các cuộc cách mạng về giới và chủ nghĩa giới chính là luân lý của chủ nghĩa hiện sinh, sự gắn bó mật thiết của chủ nghĩa hiện sinh đối với những mục tiêu của sự giải phóng phụ nữ. Simone de Beauvoir chính là đại diện tiêu biểu của luân lý hiện sinh, là người mở đầu cho luân lý hiện đại về giới và nữ quyền. Chính luân lý về sự lo âu đã làm nền tảng hướng tới tự do và con người phải được tự do. Ngoài ra, các vấn đề về tự do, tính độc đáo của Cái tôi nhân vị ( cái tôi độc đáo, độc lập, không lặp lại bất kỳ ai) cũng chính là những yếu tố cơ bản để giải phóng phụ nữ. Như vậy, Phụ nữ và giới chính là một tài liệu tham khảo về giới, bình đẳng giới và giải phóng phụ nữ đầy tính trọn vẹn và hiệu quả. Một công trình nghiên cứu xuất hiện trong thời gian gần đây cũng đã tạo tiếng vang: Nữ quyền luận ở Pháp và tiểu thuyết nữ Việt Nam đương đại (2016) của Trần Huyền Sâm. Đây là một công trình nghiên cứu về nữ quyền luận tương đối chi tiết, công phu từ tiểu thuyết - một thể loại được thể hiện tương đối toàn diện, đa dạng các sắc thái nữ quyền nhìn từ phương diện diễn ngôn và các dạng thức trần thuật. Tính chất tự thuật được nghiên cứu sâu trong công trình như là một hình thức giải phóng cái tôi nữ giới. Trong đó, có thể thấy được rằng diễn ngôn thân thể là một phạm trù thuộc về nữ quyền, cần có hướng nghiên cứu chuyên sâu hơn từ sự gợi mở của công trình này. Ngoài những công trình nghiên cứu về phê bình lý thuyết nữ quyền còn có một số luận án, luận văn văn học có liên quan đến vấn đề ý thức về giới như: 18

Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn xuôi Việt Nam đương đại qua sáng tác của một số nhà văn nữ tiêu biểu (Nguyễn Thị Thanh Xuân, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội, 2013); Nhân vật nữ trong tác phẩm của Ernest Hemingway từ góc độ nữ quyền luận (Lê Lâm, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội, 2015); Ý thức nữ quyền trong thơ nữ Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến nay (qua một số trường hợp tiêu biểu) (Nguyễn Thị Hưởng, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội, 2016); Ý thức nữ quyền trong văn xuôi Võ Thị Xuân Hà (Dương Mai Liên, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đà Nẵng, 2004); Âm hưởng nữ quyền trong truyện ngắn các nhà văn nữ thời kỳ đổi mới (Nguyễn Thị Oanh, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Vinh, 2007); Vấn đề bình đẳng giới trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (qua tuyển tập truyện ngắn 1975-1995) (Lê Thị Thúy Hằng, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đà Nẵng, 2017) Nhìn chung, các luận án, luận văn này đều có chung mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu vấn đề phái tính và nữ quyền trong văn xuôi nữ Việt Nam hiện đại ở các cấp độ bản chất thuộc nội dung và hình thức của tác phẩm. Từ đó, chỉ ra nhu cầu thể hiện cái tôi cá nhân nữ giới một cách dân chủ, mạnh mẽ thông qua các mối quan hệ nhân sinh khác nhau. Điều đó xuất phát từ ý thức của toàn nữ giới trong đó, có ý thức của các tác giả nữ hiện đại. Như vậy, có thể thấy rằng, với những công trình nghiên cứu có chất lượng và số lượng về lý thuyết giới/ lý thuyết nữ quyền, các tác giả đã đưa bạn đọc đến một hướng tiếp cận về phê bình nữ quyền đầy đa dạng, hiệu quả và sáng tạo. Đây chính là một hướng đi mới của nghiên cứu và tiếp nhận văn học từ phê bình văn học nữ quyền. 1.2. Tình hình nghiên cứu truyện ngắn nữ Việt Nam từ góc nhìn phê bình văn học nữ quyền Nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam từ góc nhìn phê bình văn học nữ quyền hiện nay đang trở thành một hướng đi đầy mới lạ, hấp dẫn. Bởi lẽ, học thuyết nữ quyền không chỉ ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều bộ môn, nhiều lĩnh vực khác nhau của cuộc sống mà nó còn chi phối đến đời sống của phê bình văn học, đến 19

mỗi cá nhân thưởng thức văn học. Văn học Việt Nam đã có sự cách tân và đổi mới toàn diện từ sau năm 1986. Sự tiếp nhận và phát triển học thuyết nữ quyền dựa trên nền tảng lý thuyết có sẵn đã giúp cho các tác giả nữ có cơ hội vận dụng linh hoạt vào trong đời sống sáng tạo và phê bình. Họ là những người tiên phong đi đầu cho phong trào nữ quyền trong văn học và đã tạo được những tiếng vang mạnh mẽ với những nội dung được đề cập rất gần gũi, bình dị nhưng lại mang những giá trị nhân văn sâu sắc. Những tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến: Y Ban với I am đàn bà, Đỗ Hoàng Diệu với Bóng đè, Nguyễn Ngọc Tư với Cánh đồng bất tận, Nguyễn Thị Thu Huệ với Minu xinh đẹp, Võ Thị Hảo với Bàn tay lạnh... và nhiều tác phẩm tiêu biểu của nhiều tác giả thuộc nhiều thế hệ khác nhau. Tất cả đã làm nên những sắc thái đa dạng về thiên tính nữ trong văn chương, tạo nên những hiệu ứng nghệ thuật đặc sắc, mới lạ. 1.2.1. Giai đoạn từ trước năm 2000 So với tiểu thuyết, truyện ngắn được ưa chuộng bởi tính ngắn gọn, hàm súc, đại chúng. Và với địa hạt này, các nhà nghiên cứu, lý luận phê bình cũng bắt đầu vào cuộc với những bài phê bình sắc sảo từ thành công của truyện ngắn. Như vậy, so với các thể loại văn học khác thì truyện ngắn đương đại Việt Nam đã có bứt phá mạnh mẽ, đã dần khẳng định được vai trò và sức hút của mình đối với độc giả. Không còn những đề tài xưa cũ, phổ quát như đề tài chiến tranh mà thay vào đó, văn học đi sâu vào hiện thực đa dạng, phản ánh những nỗi đau hậu chiến, những vấn đề mang tính nhân sinh, con người và số phận cá nhân trong thời kỳ đó. Vấn đề hạnh phúc của con người, những trăn trở, khao khát về tình yêu được đặt lên hàng đầu. Yếu tố nữ quyền được lồng ghép vào tác phẩm tuy chỉ mang tính chất manh nha, nhưng đã để lại những ấn tượng sâu đậm trong lòng độc giả. Đi sâu vào những góc khuất trong tâm hồn con người nên những vấn đề vụn vặt, đời thường của cuộc sống cũng được các nhà văn nữ khai thác có hiệu quả. Về tình hình nghiên cứu, trong giai đoạn 1945-1975, các nhà nghiên cứu và phê bình cho rằng văn chương đô thị miền Nam có những bước khởi sắc, đặc biệt là văn xuôi mang sắc thái nữ tính, hiện đại của các nhà văn nữ. Tiêu biểu là tác giả 20

Nguyễn Văn Sâm với những công trình nghiên cứu như Văn chương tranh đấu miền Nam (1969) và Văn chương Nam Bộ và cuộc kháng Pháp 1945-1950 (1972) đã chỉ ra sự tranh đấu của những người dân quê và đặc biệt là nghiên cứu các tác giả với sứ mệnh giai đoạn của phụ nữ ý thức gắn với sự trưởng thành trong tư tưởng của người phụ nữ miền Nam Việt Nam. Ngoài ra, còn có những tác giả với những công trình nghiên cứu chính về văn xuôi đô thị miền Nam tạo được những dấu ấn nhất định như: Doãn Quốc Sỹ với cuốn Đồ biểu văn xuôi Việt Nam (1973) đã thống kê và nhận định các cây bút nữ tuy chiếm số lượng hạn chế nhưng đã từng bước tạo nên tiếng vang ở mỗi tác phẩm được đầu tư chỉnh chu, sáng tạo. Các tác phẩm đều thể hiện nỗi niềm của người phụ nữ về mái ấm hạnh phúc, gia đình. Đôi khi là khao khát đầy mạnh mẽ, dục tính vừa hồn nhiên vừa từng trải đầy chất đàn bà. Cuộc sống hiện sinh của họ được các nhà văn nữ thể hiện đa dạng theo từng mối quan hệ với từng không gian, thời gian cụ thể của xã hội miền Nam tạm chiếm lúc bấy giờ. Tác giả Võ Phiến với cuốn Tổng quan văn học miền Nam (1986) đã thể hiện rõ bước tiến trong hệ ý thức nữ đầy hiện đại, cá tính trong văn xuôi đô thị miền Nam. Mỗi một tác giả nữ định hình một phong cách riêng đầy màu sắc và cung bậc: Nhã Ca với tiếng nói đầy tự do, phóng khoáng, độc lập; Trùng Dương đầy tính hiện sinh và triết lý; Nguyễn Thị Thụy Vũ và Túy Hồng bạo dạn, táo bạo trong ngôn ngữ tả và ngôn ngữ kể về thân thể người phụ nữ cũng như yếu tố tính dục; Nguyễn Thị Hoàng đầy nổi loạn và có sức hút với những đề tài tình yêu cấm kỵ theo sự vận dụng những phức cảm phân tâm học của S. Freud, Ở miền Bắc, trong giai đoạn trước năm 2000, tình hình nghiên cứu truyện ngắn nữ từ góc nhìn phê bình văn học nữ quyền ít được các nhà phê bình quan tâm vì lý thuyết này chưa du nhập vào Việt Nam. Phê bình truyện ngắn nữ giai đoạn này chủ yếu được nhìn nhận và đánh giá từ góc nhìn xã hội học nhiều hơn, đặt truyện ngắn nữ trong mối quan hệ với lịch sử, xã hội và nhiệm vụ cách mạng để nói lên vai trò, nghĩa vụ và sự đóng góp của người nữ vào công cuộc chiến đấu giành độc lập của dân tộc. Phương pháp phê bình hiện thực xã hội chủ nghĩa 21

chiếm địa vị quan trong trong nghiên cứu văn học giai đoạn này. Hơn nữa, các nhà văn nữ trong hai cuộc kháng chiến ở miền Bắc trước năm 2000 cũng không nhiều. Tác phẩm của họ được các nhà lý luận và phê bình văn học gộp nghiên cứu thành diện mạo và phong trào chung. Tuy vậy, chúng tôi nhận thấy có một số bài nghiên cứu chung và riêng về sáng tác của các nhà văn nữ ở miền Bắc trước năm 2000 thu hút sự chú ý của độc giả như sau: Tiêu biểu năm 1990, tác giả Nguyên Ngọc với bài viết Đôi nét về tư duy văn học mới đang hình thành in trên Tạp chí Văn học, số 4 đã nhận định văn học về giới nữ cùng các yếu tố về thiên tính nữ, các đặc điểm trong cá tính, điều kiện cá nhân, phong cách sáng tạo riêng biệt ở mỗi cây bút nữ đã tạo thành một tổng thể đầy màu sắc trong việc đổi mới tư duy văn học hiện đại Việt Nam. Năm 1995, tác giả Hà Minh Đức có bài viết Những tác giả nữ trong nền văn xuôi cách mạng trong cuốn sách Truyện ngắn của các tác giả nữ (tuyển chọn 1945 1975) đã đánh giá văn học giai đoạn nữ từ sau năm 1975 hứa hẹn sẽ có nhiều bước phát triển khởi sắc bên cạnh các cây bút nữ mới nổi, đông đảo về số lượng và chất lượng ở miền Bắc. Năm 1996, tác giả Bùi Việt Thắng trong cuốn sách 50 năm văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám đã đánh giá những bước đi, quá trình vận động và phát triển của văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám có những thay đổi, sáng tạo tích cực. Góp phần thành công không nhỏ chính là các cây bút nữ hậu chiến với những tác phẩm mang đậm dấu ấn nhân sinh. Đặc biệt, năm 1999, tác giả Bùi Việt Thắng trong cuốn sách Bình luận truyện ngắn đã dày công nghiên cứu với rất nhiều bài viết về truyện ngắn nữ, yếu tố nữ tính trong văn học cũng như sự đối thoại, độc thoại về giới nữ của chính các cây bút nữ. Điều đó giúp cho độc giả dường như tiếp cận gần hơn với văn học giới mà truyện ngắn nữ về sau thể hiện ngày càng rõ nét và đa sắc thái. Tóm lại, tình hình nghiên cứu về truyện ngắn nữ từ góc nhìn phê bình văn học nữ quyền trước năm 2000 không nhiều và chủ yếu tập trung vào các nhà văn xuôi nữ ở đô thị miền Nam, nhưng cũng đã thể hiện mốc phát triển khởi đầu 22

đầy ấn tượng, cụ thể trong tiến trình phê bình văn học và hiện đại hóa văn học Việt Nam. Đồng thời, là cơ sở để các tác giả nữ thể hiện đậm nét ý thức nữ quyền trong từng sáng tác của mình giai đoạn sau khi hoàn cảnh và các mối quan hệ thuận lợi giữa người nữ và xã hội xuất hiện trong cuộc sống thời bình. 1.2.2. Giai đoạn từ sau năm 2000 Chuyển sang giai đoạn hòa bình, đặc biệt là từ thời kỳ Đổi mới (1986), tình hình nghiên cứu, phê bình văn học nữ quyền đã có sự khởi sắc. Các nhà phê bình có ý thức đi sâu nghiên cứu truyện ngắn nữ từ góc nhìn phê bình văn học nữ quyền. Từ đầu thế kỷ XXI cho đến nay, xuất hiện nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về văn xuôi hậu chiến cũng như phê bình nữ quyền cuối thế kỷ XX như là một xu thế đổi mới tất yếu của nước nhà với sự vận động, phát triển theo thể loại, tư duy mới của văn học. Tiêu biểu là nhà văn Nguyên Ngọc với bài viết Văn xuôi sau 1975 - thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển, đôi nét về tư duy văn học mới đang hình thành, Hồ Thế Hà với cách tiếp cận truyện ngắn từ góc độ phân tâm học: Hướng tiếp cận phân tâm học trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ; Hỏa Diệu Thúy với bài Sự vận động của truyện ngắn Việt Nam sau 1975 qua những cách tân về hình thức ; Nguyễn Thị Bình với cuốn Văn xuôi Việt Nam sau 1975, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội (2012). Đặc biệt, phê bình nữ quyền về truyện ngắn sau năm 1975 đã có những bước phát triển đầu tiên với các bài viết được đầu tư chuyên sâu như: Phạm Thị Thu Hiền với Ý thức phái tính trong sáng tác văn xuôi nữ từ sau năm 1975, Đại học Đà Nẵng (2012); Thái Phan Vàng Anh với Văn xuôi các nhà văn nữ thế hệ sau 1975 nhìn từ diễn ngôn giới, Hội thảo Khoa học quốc gia Thế hệ nhà văn sau 1975 (Đại học Văn hóa, Hà Nội, 2016) Có thể thấy rằng, các bài viết của các tác giả đã đi sâu vào mảng truyện ngắn/ văn xuôi dành cho nữ giới và đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Điều đó chứng minh được rằng, sức hút về giới tính và vẻ đẹp về giới không chỉ được thể hiện trong đời sống thường nhật mà nó còn có sức lan tỏa mạnh mẽ trong các áng văn thơ. Văn xuôi thế hệ các nhà văn nữ sau 1975 không chỉ thể hiện những biến thiên của lịch sử, xã hội mà còn kể những câu chuyện gắn liền đời sống người phụ nữ vô cùng bình dị, đời thường và gần 23