Cảm nhận của em về hình ảnh quê hương trong thơ Tế Hanh

Tài liệu tương tự
Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh – Văn mẫu lớp 8

Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận

Nghị luận xã hội về tình yêu quê hương đất nước – Văn mẫu lớp 12

Phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh

Đề 11: Hình ảnh thiên nhiên, vũ trụ, con người trong Đoàn thuyên đánh cá của Huy Cận – Bài văn chọn lọc lớp 9

Cảm nhận về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải

Phân tích hình ảnh người lính trong hai tác phẩm Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Bình giảng đoạn thơ trong bài “Vội vàng” của Xuân Diệu

Nghị luận xã hội về tình yêu quê hương đất nước

Phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên

Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông - Hoàng Phủ Ngọc Tường

Phân tích bài thơ “Đàn ghi-tar của Lor ca” của Thanh Thảo – Văn hay lớp 12

Phân tích nhân vật Liên trong tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam

Tả quang cảnh một buổi sáng trên quê hương em

Khóa LUYỆN THI THPT QG 2018 GV: Vũ Thị Dung Facebook: DungVuThi.HY BÀI 4 Chuyên đề: LUYỆN THI THPT QUỐC GIA MÔN NGỮ VĂN A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT 1. Về kiến

Nêu suy nghĩ về tình mẫu tử trong đoạn trích Trong lòng mẹ của Nguyên Hồng

Giải thích câu “Nhiễu điều phủ lấy giá gương”

Cảm nhận của em về tùy bút “Mùa xuân của tôi” của Vũ Bằng

Cảm nhận về “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu

Phân tích bài thơ Ánh trăng – Văn mẫu lớp 9

NGHỊ LUẬN XÃ HỘI VỀ LỐI SỐNG ĐẸP

Hãy tả một loài hoa mà em yêu thích nhất

Phân tích vẻ đẹp cổ điển mà hiện đại trong bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận

Cảm nhận vẻ đẹp dòng sông hương qua bài “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Tả một cảnh đẹp mà em biết

Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu

Kể lại một kỉ niệm sâu sắc về mẹ

Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Vợ nhặt

36

Phân tích đoạn trích “Trao duyên” trong Truyện Kiều của Nguyễn Du

Cảm nhận về bài thơ Mộ (Chiều tối) của Hồ Chí Minh – Văn mẫu lớp 11

Em hãy chứng minh người Việt Nam luôn sống theo đạo lý “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” và “Uống nước nhớ nguồn”

Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng

 Phân tích bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh

Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt

Gặp tác giả tập thơ Ngược sóng yêu biển đảo, mê Trường Sa Chân dung nhân vật Có tình yêu đặc biệt với biển đảo và người lính, cô gái Đoàn Thị Ngọc sin

Em hãy tưởng tượng và kể lại một cuộc gặp gỡ với một trong các nhân vật cổ tích hoặc truyền thuyết

Cảm nghĩ về tình bạn thời học sinh

Bình giảng bài thơ Mưa xuân của Nguyễn Bính

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG NGUYỄN THỊ ĐÔ YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM VÀ THANH TỊNH Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số:

Kể về một chuyến về thăm quê – Văn mẫu lớp 6

Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu – Văn hay lớp 11

Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẦN THƠ ĐỀ CHÍNH THỨC ĐỀ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT NĂM HỌC Môn: NGỮ VĂN Thời gian làm bài 120 phút I. PHẦN LÝ TH

Microsoft Word - Ngay XuaNguoiTinh_pthienthu.doc

Bình giảng bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Tuyển Tập 2018 Chàng & Nàng 277

Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xưa qua bài Tự tình II của Hồ Xuân Hương và Thương vợ của Trần Tế Xương – Bài tập làm văn số 2 lớp 11

Cảm nhận của em về bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”

Cảm nhận về bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Cảm nghĩ về mái trường

Phân tích bài thơ Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẦN THƠ

Thuyết minh về Phố Cổ Hội An

Cảm nghĩ về người thân

Cảm nhận bài thơ Đàn ghita của Lor-ca của Thanh Thảo

Bình giảng bài thơ thu vịnh của Nguyễn Khuyến

Giới thiệu về quê hương em

Cảm nghĩ về người thân – Bài tập làm văn số 3 lớp 6

Tả lại con đường từ nhà đến trường

Phân tích bài thơ Chiều tối

Phân tích bài thơ Giục giã của nhà thơ Xuân Diệu

Tả người thân trong gia đình của em

Hãy viết một bài văn về tình mẫu tử

Cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu

Phần 1

Kể lại một chuyến đi tham quan hay du lịch cùng các bạn trong lớp – Văn hay lớp 7

Phân tích bài thơ Xuất Dương lưu biệt của Phan Bội Châu

Soạn Giả Thái Thụy Phong Vũ Thất Theo bài tường trình Nghệ thuật Sân khấu Cải lương 80 năm của soạn giả Nguyễn Phương trên trang nhà của nhạc sư Trần

LỜI RU CHẠM MẶT TRỜI

1 BẠCH VIÊN TÔN CÁC KỊCH THƠ LÊ THỊ DIỆM TẦN

Cảm nhận về bài thơ Nói với con của Y Phương

Phân tích hình tượng nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân

No tile

Bình giảng 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh (Hồ Gươm) – Văn mẫu lớp 8

Phân tích bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ – Ngữ Văn 9

Tả cây hoa lan

Vẻ đẹp bi tráng cùa hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng – Bài tập làm văn số 3 lớp 12

Phân tích cái hay, cái đẹp của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Bình giảng tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu

Nghị luận xã hội về bệnh vô cảm hiện nay

ẨN TU NGẨU VỊNH Tác giả: HT. THÍCH THIỀN TÂM ---o0o--- Nguồn Chuyển sang ebook Người thực hiện : Nam Thiên

Phần 1

Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài “Cảnh ngày hè”

Cúc cu

Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Cảm nghĩ về người thân

Tả cảnh mặt trời mọc trên quê hương em

Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất Nước

Bình giảng bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu ngữ văn 11

Microsoft Word - hoang hon tren bai bien.doc

MỘT VÀI VẺ ĐẸP CỦA NGÔN NGỮ VĂN CHƯƠNG TRONG CÁC BÀI TẬP ĐỌC Ở TIỂU HỌC NHÌN TỪ GÓC ĐỘ RÈN KĨ NĂNG CẢM THỤ VĂN HỌC CHO HỌC SINH Lê Phương Nga ĐHSP Hà

MỘT CÁCH NHÌN VỀ MƯỜI BA NĂM VĂN CHƯƠNG VIỆT NGOÀI NƯỚC ( ) (*) Bùi Vĩnh Phúc Có hay không một dòng văn học Việt ngoài nước? Bài nhận định dướ

KINH PHÁP CÚ Illustrated Dhammapada Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka Tâm Minh Ngô Tằng Giao CHUYỂN DỊCH THƠ

Phân tích tác phẩm Một người Hà Nội (Nguyễn Khải) – Văn mẫu lớp 12

Miêu tả người bạn thân nhất của em – Văn mẫu lớp 7

Phân tích về thơ của Xuân Diệu

Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu

Bản ghi:

Cảm nhận của em về hình ảnh quê hương trong thơ Tế Hanh Author : vanmau Cảm nhận của em về hình ảnh quê hương trong thơ Tế Hanh Bài làm 1 Quê hương trong xa cách là nguồn đề tài vô tận, là cả một dòng cảm xúc dạt dào, lấp lánh suốt đời thơ Tế Hanh.Cái làng quê nghèo ở một cù lao trên sông Trà Bồng đã nuôi dưỡng tâm hồn Tế Hanh, đã trở thành nguồn cảm xúc vô tận để ông viết nên những vần thơ tha thiết, lai láng như : Nhớ con sông quê hương, Quê hương, Trở lại con sông quê hương. Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất miền Trung Quãng Ngãi, một vùng đất cằn cỗi, quanh năm chỉ có gió và cát, một vùng quê nghèo. Do hoàn cảnh bắt buộc, ông rời xa quê hương từ thuở thiếu thời. Trong thời gian xa quê ông viết rất nhiều tác phẩm, chủ yếu là về quê hương, bằng tất cả những tình yêu, nỗi nhớ của mình. Một vùng đất đầy thơ mộng và rất đẹp trong thơ Tế Hanh. Trong đó có nói con sông quê mà ông gắn bó : Quê hương tôi có con sông xanh biếc Nước gương trong soi tóc những hàng tre Xa quê, xa cả con sông. Tài liệu chia sẻ tại

Có thể nói đó là nỗi đau của ông. Qua những kỉ niệm, hồi tưởng về con sông trong nỗi nhớ con sông quê hương, Tế Hanh đã thể hiện một tình yêu quê hương tha thiết, mãnh liệt, một hình ảnh quê hương thân thiết, ruột rà. Làng tôi ở vốn nghề chài lưới Nước bao vây cách biển nửa ngày sông Quê hương tôi có con sông xanh biếc Nước gương trong soi tóc những hàng tre Thế đấy, quê hương trong thơ Tế Hanh hiện lên đẹp và mát dịu như vậy. Còn người dân quê thì mạnh mẽ, tinh tế, sống động : Tài liệu chia sẻ tại

Dân chài lưới làn da ngăm dám nắng Có thân hình nồng thở vị xa xăm Chỉ có ai là con người của sông nước, vạn chài mới có thể tạo được hình ảnh người dân chài giữa đất trời lồng lộng gió với đủ hình khối, màu sắc và hương vị. Chất muối mặn nồng ngấm vào thân hình người dân quê hương cũng như ngấm sâu vào làn da, thớ thịt vào tận tâm hồn thơ Tế Hanh. Bằng giọng thơ giãi bày, phơi trải, ông đã kể về kỉ niệm tuổi thơ tươi đẹp : Khi mặt nước chập chờn con cá nhảy Bạn bè tôi tụm năm tụm bẩy Tôi đưa tay ôm nước vào lòng Sông mở nước ôm tôi vào dạ Cao hơn, trong xa cách, nhưng với sức mạnh của tình quê, không chỉ có hình ảnh đặc trưng của quê hương Màu nước xanh, cá bạc cánh buồm vôi / Thoảng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi hiện ra mà nhà thơ còn cảm nhận được cả mùi vị quê: Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá Quê hương Tế Hanh là một làng chài nghèo, người dân sống cần cù, khó nhọc, thế nhưng khi nhớ về quê, ông lại chỉ thấy vẻ đẹp tươi sáng. Phải chăng đó là nhờ làng quê ấy có con sông êm đềm, tuơi tắn, lại gần biển tự do, phóng khoáng và nhất là nhờ trái tim tuổi trẻ khoẻ khoắn? Mặt khác, cùng tình cảm đằm thắm, kỉ niệm sâu lắng, đẹp đẽ, lời kể theo lối giãi bày, thủ thỉ chân thật và khả năng miêu tả những cảm giác bên trong chân thành, mộc mạc, nên ở thơ Tế Hanh, con sông trở thành một hình tượng thẩm mĩ, gợi cảm, đầy chất trữ tình. Đối với Tế Hanh, quê hương luôn là bông hoa đẹp nhất trong vườn hoa. Ca dao, dân ca dường như cũng đã ngấm sâu vào hồn thơ Tế Hanh. Dù ở phương trời nào lòng ông vẫn nhớ quê hương, nó luôn dạt dào, cháy bỏng trong ông khiến nhà thơ thấy được hình ảnh quê hương liên tục hiện ra. Quê hương chính là sức sống của ông, ở một khía cạnh nào đó, ta lại thấy tình yêu quê hương của Tế Hanh rất đa chiều và phức tạp. Lúc da diết, ngập tràn với Nhớ con sông quê hương, nhưng lúc khác lại cho người đọc thấy một hồn thơ trẻ trung phơi phới của Quê hương. Nhưng dù ở góc độ, khía cạnh nào thì nó đều ẩn chứa một tình yêu, nỗi khát khao đoàn tụ, bày tỏ khát vọng gặp gỡ cụ thể. Không như thơ Huy Cận, Lưu Trọng Lư đầy chất mộng ảo, không như thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên hun hút sầu thương, thơ Tế Hanh trong sáng, khoẻ mạnh, đắm đuối rất thực. Bởi ông có một vùng quê bằng xương, bằng thịt, mà ông luôn dõi theo bằng đôi mắt rất thực, bằng trái tim có địa chỉ rõ ràng. Tài liệu Suốtchia nửasẻ đời tại người, do thời thế, Tế Hanh phải xa quê, khi trở lại sau mùa hè đại thắng, thống nhất đất nước 1975, con sông và làng quê đã đổi thay nhiều:

Tác giả thật sự ngỡ ngàng : Tôi nhìn sông bên lở bên bồi Tre thưa thớt ngập tràn lau cỏ Trong ánh sáng ngả nghiêng theo chiều gió Thuyền máy dọc ngang tỏ trắng lòng sông Nhà dân chài giăng những lưới ni lông Màu xanh đỏ ngời ngời ánh nước Kìa bãi sú nơi sáu năm về trước Giặc Mĩ bao vây sát hai mốt trung đội dàn quân Cây mù u không còn ngả bóng bên cồn Cây xanh trước đình thân chỉ còn một nửa Tôi đi học bờ sông bỡ ngỡ Quên cả khúc quanh rẽ lối vào nhà Quê hương đẹp đẽ thơ mộng trong tâm trí tác giả nay trần trụi những vết thương chiến tranh, vết thương do chia cắt đất nước. Tác giả vừa vui vừa đau buồn một nỗi hồi hương. Trở về, gặp lại, tuổi cũng đã cao, quê hương thì đổi thay như thế, nên sau này, dẫu quê nhà vẫn mến yêu, thổn thức trong trái tim nhà thơ, nhưng thơ về quê hương của Tế Hanh thì đã khác. Không còn cái sức hấp dẫn của vẻ đẹp trai tráng. Cho nên, có thể nói, người ta chỉ còn nhớ đến những bài thơ về quê hương, con sông quê của ông mấy mươi năm về trước. Dù sao thế cũng là quá đủ với một đời thơ. Có thể nói những bài thơ về quê hương trước và hai mươi năm sau Cách mạng Tháng Tám của Tế Hanh đã cất lên một tiếng ca trong trẻo, nồng nàn, thơ mộng về con sông hiền hòa đã tắm cả đời tôi, về cái làng vạn chài từng ôm ấp, ru vỗ tuổi thơ ông. Mỗi chúng ta một lần nữa vui mừng khi được giao tiếp với một hồn thơ khoẻ mạnh, trong sáng song lại rất đỗi bình dị mà sâu sắc. Nó không hề làm nặng đầu ta với những bóng dáng siêu hình hay những vô thức u minh, nó chấp cánh mộng mơ, bồi đắp cho mỗi chúng ta tình yêu quê hương thắm thiết, là điểm trở về bình yên của ta trong cuộc đời nhiều bươn trải, cũng là sự thôi thúc ta vươn lên. Tài liệu chia Cảm sẻ tại nhận của em về hình ảnh quê hương trong thơ Tế Hanh Bài làm 2

Tế Hanh là người con của xứ sở núi Ấn sông Trà. Đề tài quê hương trở đi trở lại trong thơ ông từ lúc tóc còn xanh cho tới khi đầu bạc! Ông viết về quê hương bằng cảm xúc đậm đà, chân chất và dành cho mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình một tình yêu thiết tha, sâu nặng. Bài thơ Quê hương sáng tác năm 1938, khi tác giả mới tròn mười bảy tuổi, đang theo học trung học ở Huế, là nỗi nhớ, là tình yêu nồng nàn đối với quê hương. Mở đầu bài thơ, bằng lời kể mộc mạc, tự nhiên, Tế Hanh giới thiệu Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông. Quê hương nhà thờ là một cù lao nổi giữa bốn bề sông nước. Dân làng sống bằng nghề chài lưới, cuộc đời gắn chặt với biển cả mênh mông. Làng nghèo giống như bao làng biển khác nhưng khi,đi xa, nhà thơ thương nhớ đến quặn lòng. Nhớ nhất là khung cảnh: Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá. Đoàn thuyền nối đuôi nhau rời bến lúc bình minh. Cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp. Bầu trời cao lồng lộng đồng điệu với lòng người phơi phới. Hình ảnh các chàng trai xứ biển vạm vỡ và con thuyền băng băng lướt sóng đã in đậm trong tâm tưởng nhà thơ: Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang. Hình ảnh so sánh đẹp đẽ và một loạt tính từ, động từ chọn lọc: hăng, phăng, mạnh mẽ, vượt đã diễn tả đầy ấn tượng khí thế của những con thuyền nối nhau ra khơi, toát lên sức sống khỏe khoắn và một vẻ đẹp hào hùng. Trong hai câu tiếp theo, tác giả miêu tả cánh buồm bằng sự so sánh độc đáo, bất ngờ và lãng mạn: Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió Hình ảnh cánh buồm giản dị, quen thuộc hằng ngày bỗng trở nên lớn lao, thiêng liêng và thơ mộng. Nhà thơ cảm thấy đó chính là biểu tượng của hồn làng nên dồn hết tình yêu thương vào ngòi bút để vừa vẽ ra cái hình, vừa thể hiện cái hồn của cánh buồm. So sánh không đơn thuần là làm cho sự vật được miêu tả cụ thể hơn mà đem lại cho nó một vẻ đẹp bay bổng chứa đựng ý nghĩa lớn lao. Liệu có hình ảnh nào diễn tả chính xác cái hồn của làng chài bằng Tài hình liệu chia ảnh sẻ cánh tại buồm trắng căng phồng ngọn gió biển khơi?

Đem so sánh cánh buồm là vật hữu hình với hồn làng một khái niệm vô hình thì quả là sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà thơ. Con thuyền ra khơi mang theo những nỗi lo toan cùng niềm tin yêu, hi vọng của bao người. Nhiệt tình và sức sống của con người truyền sang cả vật vô tri khiến cho con thuyền dường như cũng có tâm hồn riêng, sức sống riêng. Nhịp thơ khỏe khoắn, tươi vui thể hiện khí thế sôi nổi và niềm khao khát hạnh phúc ấm no của người dân làng biển. Sáu câu thơ miêu tả đoàn thuyền ra khơi đánh cá vừa là bức tranh phong cảnh thiên nhiên tươi sáng, vừa là bức tranh lao động đầy hứng khởi. Nếu cảnh đoàn thuyền ra khơi được nhà thơ miêu tả bằng bút pháp lãng mạn bay bổng thì cảnh đoàn thuyền đánh cá về bến được tả thực đến từng chi tiết: Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ Khắp dân làng tấp nập đón ghe về. Nhờ ơn trời! biển lặng cá đầy ghe Những con cá tươi ngon thân bạc trắng. Dân làng vui mừng đón đoàn thuyền đánh cá trở về trong không khí ồn ào, tấp nập. Những chiếc ghe đầy ắp những con cá tươi ngon thân bạc trắng trông thật thích mắt. Dân làng chân thành tạ ơn trời đất đã sóng yên biển lặng để đoàn ngư phủ được an toàn trở về với làng xóm thân yêu. Khi những người thân ra khơi đánh cá, người ở nhà đợi chờ trong phấp phỏng, lo âu. Nay những con thuyền cập bến bình yên với đầy khoang cá bạc, hỏi còn niềm vui nào lớn lao hơn thế bởi đó chính là cuộc sống ấm no, hạnh phúc của dân làng. Biển cả đẹp đẽ, giàu có và hào phóng nhưng cũng thật khó lường bởi lúc thì trời yên biển lặng, lúc thì bão tố dữ dội. Giữa đại dương mênh mông, làm sao tránh được hiểm nguy, bất trắc? Chỉ có những người một đời gắn bó, sống chết với biển mới thấu hiểu điều này. Cuộc sống của dân chài ngàn đời nay phụ thuộc vào thiên nhiên. Họ vất vả, cực nhọc trăm bề để kiếm miếng cơm manh áo. Vì vậy, giây phút đón người thân sau chuyến đi biển an toàn trở về bao giờ cũng tràn ngập niềm vui. Giữa khung cảnh ấy nổi bật lên hình ảnh rắn rỏi, cường tráng của những chàng ngư phủ quanh năm vật lộn với sóng gió đại dương. Dấu ấn của biển cả đã in đậm trên thân hình vả trong tâm hồn họ: Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng, Cả thân hình nồng thở vị xa xăm. Những con thuyền về bến sau chuyến ra khơi được nhà thơ ví như con người nghỉ ngơi sau Tài một liệu chia ngàysẻ lao tại động vất vả: Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm, Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ. Bao hiểm nguy giờ đã lùi xa, nhường chỗ cho sự thanh thản, bình yên. Nghệ

thuật nhân hóa đã đem đến cho con thuyền vô tri một đời sống và một tâm hồn tinh tế. Nhà thơ đã phát hiện ra chất thơ trong đời sống vất vả, cực nhọc của dân quê, đó là điều đáng quý. Cũng vì vậy mà hình ảnh quê hương trong bài thơ tươi sáng, mang hơi thở nồng ấm của cuộc đời cần lao. Hình ảnh quê hương đẹp đẽ với những con người lao động cần cù đã khắc sâu trong kí ức, hỏi làm sao khi xa cách, nhà thơ không thương nhớ đến quặn lòng? Nếu không có tấm lòng gắn bó chân thành, máu thịt với con người cùng cuộc sống lao động ở làng chài quê hương thì thi sĩ không thể sáng tác ra những câu thơ xuất thần như vậy. Mỗi lần nhớ về quê hương, cảnh đẹp của biển cả như hiển hiện rõ ràng trong tâm trí nhà thơ: Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi, Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi, Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá! Ở bốn câu thơ kết, nhà thơ trực tiếp bộc bạch nỗi nhớ quê hương khôn nguôi của mình. Nhớ Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi; Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi và nhớ cả cái mùi nồng mặn rất đặc trưng của gió biển cùng tất cả những gì thân thuộc của quê hương. Phải chăng nỗi nhớ da diết ấy chính là sợi dây kết chặt nhà thơ với quê hương suốt cả cuộc đời! Bài thơ Quê hương mộc mạc, tự nhiên nhưng rất sâu sắc và thấm thía bởi nó được viết lên từ cảm xúc chân thành. Sức hấp dẫn của nó trước hết là ở những hình ảnh tiêu biểu, chọn lọc và ngôn ngữ tự nhiên, trong sáng. Những biện pháp nghệ thuật so sánh, ví von, nhân hóa kết hợp hài hòa khiến cho bài thơ giống như một bức tranh phong cảnh tuyệt vời được vẽ nên từ tình yêu tha thiết mà Tế Hanh dành trọn cho quê hương. Có thể coi bài thơ này như một cung đàn dịu ngọt của những tấm lòng gắn bó sâu nặng với quê hương xứ sở bởi đây là mảnh tâm hồn trong trẻo nhất, đằm thắm nhất của Tế Hanh dành cho mảnh đất chôn nhau cắt rốn. Cảm nhận của em về hình ảnh quê hương trong thơ Tế Hanh Bài làm 3 Quê hương là nguồn cảm hứng vô tận của nhiều nhà thơ Việt Nam và đặc biệt là Tế Hanh - một tác giả có mặt trong phong trào Thơ mới và sau cách mạng vẫn tiếp tục sáng tác dồi dào. Ông được biết đến qua những bài thơ về quê hương miền Nam yêu thương với tình cảm chân thành và vô cùng sâu lắng. Ta có thể bắt gặp trong thơ ông hơi thở nồng nàn của những người con đất biển, hay một dòng sông đầy nắng trong những buổi trưa gắn với tình yêu quê hương sâu sắc của nhà thơ. Bài thơ Quê hương là kỉ niệm sâu đậm thời niên thiếu, là tác Tài phẩm liệu chia mởsẻ đầu tại cho nguồn cảm hứng về quê hương trong thơ Tế Hanh, bài thơ đã được viết bằng tất cả tấm lòng yêu mến thiên nhiên thơ mộng và hùng tráng, yêu mến những con

người lao động cần cù. Bài thơ được viết theo thể thơ tám chữ phối hợp cả hai kiểu gieo vần liên tiếp và vần ôm đã phần nào thể hiện được nhịp sống hối hả của một làng chài ven biển: Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới Nước bao vây cách biển nửa ngày sông Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá. Quê hương trong tâm trí của những người con Việt Nam là mái đình, là giếng nước gốc đa, là canh rau muống chấm cà dầm tương. Còn quê hương trong tâm tưởng của Tế Hanh là một làng chài nằm trên cù lao giữa sông và biển, một làng chài sóng nước bao vây. một khung cảnh làng quê như đang mở ra trước mắt chúng ta vô cùng sinh động: Trời trong - gió nhẹ - sớm mai hồng, không gian như trải ra xa, bầu trời như cao hơn và ánh sáng tràn ngập. Bầu trời trong trẻo, gió nhẹ, rực rỡ nắng hồng của buổi bình minh đang đến là một báo hiệu cho ngày mới bắt đầu, một ngày mới với bao nhiêu hi vọng, một ngày mới với tinh thần hăng hái, phấn chấn của biết bao nhiêu con người trên những chiếc thuyền ra khơi: Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang Nếu như ở trên là miêu tả vào cảnh vật thì ở đây là đặc tả vào bức tranh lao động đầy hứng khởi và dạt dào sức sống. Con thuyền được so sánh như con tuấn mã làm cho câu thơ có cảm giác như mạnh mẽ hơn, thể hiện niềm vui và phấn khởi của những người dân chài. Bên cạnh đó, những động từ hăng, phăng, vượt diễn tả đầy ấn tượng khí thế băng tới vô cùng dũng mãnh của con thuyền toát lên một sức sống tràn trề, đầy nhiệt huyết. Vượt lên sóng. Vượt lên gió. Con thuyền căng buồm ra khơi với tư thế vô cùng hiên ngang và hùng tráng: Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió... Từ hình ảnh của thiên nhiên, tác giả đã liên tưởng đến hồn người, phải là một tâm hồn nhạy cảm trước cảnh vật, một tấm lòng gắn bó với quê hương làng xómtế Hanh mới có thể viết được như vậy.cánh buồm trắng vốn là hình ảnh quen thuộc nay trở nên lớn lao và thiên nhiên.cánh buồm trắng thâu gió vượt biển khơi như hồn người đang hướng tới tương lai tốt đẹp.có lẽ nhà thơ chợt nhận ra rằng linh hồn của quê hương đang nằm trong cánh buồm. Hình ảnh trong thơ trên vừa thơ mộng vừa hoành tráng, nó vừa vẽ nên chính xác hình thể vừa gợi được linh hồn của sự vật. Ta có thể nhận ra rằng phép so sánh ở đây không làm cho việc Tài miêu liệu chia tả cụ sẻ thể tại hơn mà đã gợi ra một vẻ đẹp bay bổng mang ý nghĩa lớn lao. Đó chính là sự tinh tế của nhà thơ. Cũng có thể hiểu thêm qua câu thơ này là bao nhiêu trìu mến thiêng

liêng, bao nhiêu hy vọng mưu sinh của người dân chài đã được gửi gắm vào cánh buồm đầy gió. Dấu chấm lửng ở cuối đoạn thơ tạo cho ta ấn tượng của một không gian mở ra đến vô cùng, vô tận, giữa sóng nước mênh mông, hình ảnh con người trên chiếc tàu nhỏ bé không nhû nhoi đơn độc mà ngược lại thể hiện sự chủ động, làm chủ thiên nhiên của chính mình. Cả đoạn thơ là khung cảnh quê hương và dân chài bơi thuyền ra đánh cá, thể hiện được một nhịp sống hối hả của những con người năng động, là sự phấn khởi, là niềm hi vọng, lạc quan trong ánh mắt từng ngư dân mong đợi một ngày mai làm việc với bao kết quả tốt đẹp: Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ Khắp dân làng tấp nập đón ghe về Nhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe Những con cá tươi ngon thân bạc trắng. Những tính từ ồn ào, tấp nập toát lên không khí đông vui, hối hả đầy sôi động của cánh buồm đón ghe cá trở về. Người đọc như thực sự được sống trong không khí ấy, được nghe lời cảm tạ chân thành đất trời đã sóng yên, biển lặng để người dân chài trở về an toàn và cá đầy ghe, được nhìn thấy những con cá tươi ngon thân bạc trắng. Tế Hanh không miêu tả công việc đánh bắt cá như thế nào nhưng ta có thể tưởng tượng được đó là những giờ phút lao động không mệt mỏi để đạt được thành quả như mong đợi. Sau chuyến ra khơi là hình ảnh con thuyền và con người trở về trong ngơi nghỉ: Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng Cả thân hình nồng thở vị xa xăm Chiếc thuyền im bến mỏi trở về năm Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ. Có thể nói rằng đây chính là những câu thơ hay nhất, tinh tế nhất của bài thơ. Với lối tả thực, hình ảnh làn da ngắm rám nắng hiện lên để lại dấu ấn vô cùng sâu sắc thì ngay câu thơ sau lại tả bằng một cảm nhận rất lãng mạn Cả thân hình nồng thở vị xa xăm - Thân hình vạm vỡ của người dân chài thấm đẫm hơi thở của biển cả nồng mặn vị muối của đại dương bao la. Cái độc đáo của câu thơ là gợi cả linh hồn và tầm vóc của con người biển cả. Hai câu thơ miêu tả về con thuyền nằm im trên bến đỗ cũng là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Nhà thơ không chỉ thấy con thuyền nằm im trên bến mà còn thấy cả sự mệt mỏi của nó. Cũng như dân chài, con thuyền có vị mặn của nước biển, con thuyền như đang lắng nghe chất muối của đại dương đang thấm trong từng thớ vỏ của nó. Thuyền trở nên có hồn hơn, nó không còn là một vật vô tri vô giác nữa mà đã trở thành người bạn của ngư dân. Không phải Tài người liệu chia consẻ làng tại chài thì không thể viết hay như thế, tinh như thế, và cũng chỉ viết được những câu thơ như vậy khi tâm hồn Tế Hanh hoà vào cảnh vật cả hồn mình để lắng nghe. Ở đó là

âm thanh của gió rít nhẹ trong ngày mới, là tiếng sóng vỗ triều lên, là tiếng ồn ào của chợ cá và là những âm thanh lắng đọng trong từng thớ gỗ con thuyền. Có lẽ, chất mặn mòi kia cũng đã thấm sâu vào da thịt nhà thơ, vào tâm hồn nhà thơ để trở thành nỗi niềm ám ảnh gợi bâng khuâng kì diệu. Nét tinh tế, tài hoa của Tế Hanh là ông nghe thấy cả những điều không hình sắc, không âm thanh như mảnh hồn làng trên cánh buồm giương... Thơ Tế Hanh là thế giới thật gần gũi, thường ta chỉ thấy một cách lờ mờ, cái thế giới tình cảm ta đã âm thầm trao cảnh vật: sự mỏi mệt, say sưa của con thuyền lúc trở về bến... Nói lên tiếng nói từ tận đáy lòng mình là lúc nhà thơ bày tỏ tình cảm của một người con xa quê hướng về quê hương, về đất nước : Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ Màu nước xanh, cá bạc, chiếc thuyền vôi Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá Nếu không có mấy câu thơ này, có lẽ ta không biết nhà thơ đang xa quê. ta thấy được một khung cảnh vô cùng sống động trước mắt chúng ta, vậy mà nó lại được viết ra từ tâm tưởng một cậu học trò. từ đó ta có thể nhận ra rằng quê hương luôn nằm trong tiềm thức nhà thơ, quê hương luôn hiện hình trong từng suy nghĩ, từng dòng cảm xúc. Nối nhớ quê hương thiết tha bật ra thành những lời nói vô cùng giản dị: Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá. Quê hương là mùi biển mặn nồng, quê hương là con nước xanh, là màu cá bạc, là cánh buồm vôi. Màu của quê hương là những màu tươi sáng nhất, gần gũi nhất. Tế Hanh yêu nhất những hương vị đặc trưng quê hương đầy sức quyến rũ và ngọt ngào. Chất thơ của Tế Hanh bình dị như con người ông, bình dị như những người dân quê ông, khoẻ khoắn và sâu lắng. Từ đó toát lên bức tranh thiên nhiên tươi sáng, thơ mộng và hùng tráng từ đời sống lao động hàng ngày của người dân. Bài thơ đem lại ấn tượng khó phai về một làng chài cách biển nửa ngày sông, lung linh sóng nước, óng ả nắng vàng. Dòng sông, hồn biển ấy đã là nguồn cảm hứng theo mãi Tế Hanh từ thuở hoa niên đến những ngày tập kết trên đất Bắc. Vẫn còn đó tấm lòng yêu quê hương sâu sắc, nồng ấm của một người con xa quê: Tôi dang tay ôm nước vào lòng Sông mở nước ôm tôi vào dạ Chúng tôi lớn lên mỗi người mỗi ngả Kẻ sớm hôm chài lưới ven sông Tài liệu chia sẻ tại Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài đồng

Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến Nhưng lòng tôi như mưa nguồn gió biển Vẫn trở về lưu luyến bến sông (Nhớ con sông quê hương 1956) Với tâm hồn bình dị, Tế Hanh xuất hiện trong phong trào Thơ mới nhưng lại không có những tư tưởng chán đời, thoát li với thực tại, chìm đắm trong cái tôi riêng tư như nhiều nhà thơ thời ấy. Thơ Tế Hanh là hồn thi sĩ đã hoà quyện cùng với hồn nhân dân, hồn dân tộc, hoà vào cánh buồm giương to như mảnh hồn làng. Quê hương - hai tiếng thân thương, quê hương - niềm tin và nỗi nhơ,ù trong tâm tưởng người con đấùt Quảng Ngãi thân yêu - Tế Hanh - đó là những gì thiêng liêng nhất, tươi sáng nhất. Bài thơ với âm điệu khoẻ khoắn, hình ảnh sinh động tạo cho người đọc cảm giác hứng khởi, ngôn ngữ giàu sức gợi vẽ lên một khung cảnh quê hương rất Tế Hanh. Cảm nhận của em về hình ảnh quê hương trong thơ Tế Hanh Bài làm 4 Quê hương- mỗi lần nhắc tới lại khiến cho chúng ta nhớ tới biết bao nhiêu những kỉ niệm êm đềm của tuổi thơ, những buổi chiều vàng hái hoa bắt bướm bên sông, những sáng tinh mơ lũ trẻ rủ nhau đi học trên những triền đê, dạt hai bên bở là những ngọn cỏ còn tắm ướt sương đêm hay những buổi tối cùng cha mẹ đi xem hát, xem hội. Tất cả, tất cả đã tạo nên những kí ức đẹp mà chúng ta ai ai cũng đều lưu giữ một phần trong trái tim mình. Và Quê hương của nhà thơ Tế Hanh cũng là một bài thơ như vậy. Bài thơ là những hồi ức tươi đẹp của người con khi nhớ về quê hương với biết bao kỉ niệm và những cảnh vật gắn bó trong suốt những năm tháng ấu thơ. Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới Nước bao vây cách biển nửa ngày sông Khi trởi trong gió nhẹ sớm mai hồng Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá Mở đầu bài thơ chính là những lời giới thiệu nhẹ nhàng và đầy tình cảm của người thi sĩ về quê hương của mình. Đó chính là một ngôi làng làm nghề đánh cá nhỏ bên dòng sông Trà Bồng tĩnh lặng và mang đầy những kỉ niệm. Mỗi buổi sớm mai, khi ánh mặt trời còn chưa kịp soi rõ trên những con đường, xuống vạn vật thì những người dân đã bắt đầu đi đánh bắt cá ngoài vùng biển khơi. Hình ảnh của những người thanh niên đi đánh cá được nhà thi sĩ miêu tả một cách thật chi tiết: Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng Tài liệu chia sẻ tại Cả hơi thở nồng đượm vị xa xăm

Nếu như ai là người con của biển hay đã từng gặp những người dân làm nghề chài lưới thì chúng ta sẽ hiểu rõ được vẻ đẹp của những người con miền biển là như thế nào. Một làn da ngăm săn chắc khỏe mạnh được nhuộm màu bởi ánh mắt trời cùng làn gió biển mằn mặn ánh lên những nụ cười tươi rói, rực rỡ. Đó là nét đẹp mà không ở nơi đâu có thể có được. Để rồi, những hương vị mặn nồng ấy thấm đượm vào trong từng thớ thịt, đi vào máu, vào tâm hồn và hơi thở của con người. Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang Cánh buồm trương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió Từng đoàn người cùng nhau đi ra biển với một khí thế hừng hực, sôi nổi để chinh phục cả thiên nhiên, để thấy được ý chí của con người lớn mạnh và mãnh liệt như thế nào. Một cuộc sống vất vả với những người dân lao động cần cù, chăm chỉ, nhưng qua con mắt của nhà thơ thì những điều đó lại trở nên vô cùng tươi đẹp và tràn đầy sức sống bởi chính những ý chí của con người và cũng bởi con mắt lạc quan của chính người quan sát. Ngày hôm sau tấp nập trên bến đỗ Khắp dân làng tấp nập đón ghe về Nhờ ơn trời biển lặng, cá đầy ghe Những con cá tươi ngon thân bạc trắng Và những cố gắng của những người dân đã được đền bù bằng những thành quả lao động to lớn- đó là những chiếc thuyền đầy ắp ghe cá, với những con cá thân bạc trắng tươi ngon. Đó là điều mà người dân lao động mong chờ nhất, là nguồn thu nhập chính của những người dân làng biển. Và có lẽ đó chính là ngày mà mọi người cảm thấy hạnh phúc nhất bởi chính những công sức lao động của mình đã đạt được. Chỉ với những chi tiết nhỏ bé ấy nhưng đã gom nhặt tạo nên một bức trang quê hương luôn hiện lên trong tâm trí của những người con xa quê. Cả bài thơ là một bức tranh mang đầy đủ cả màu sắc, hương vị và hơi thở của quê hương, của tuổi thơ của tác giả mà trong đó, chúng ta cũng như thấy được chính tuổi thơ đã trôi qua của mình. Tất cả, tất cả đã tạo nên vẻ đẹp của bài thơ Quê hương đi mãi cùng với thời gian mà không phải bài thơ nào cũng có thể có được- như một nốt nhạc cao khơi gợi trong lòng người những tình cảm mãnh liệt về tuổi thơ của mỗi người. Cảm nhận của em về hình ảnh quê hương trong thơ Tế Hanh Bài làm 5 Tài Thơ liệu chia Tế Hanh sẻ tại bao giờ cũng trong trẻo. Dù năm nay nhà thơ đã xấp xỉ tuổi 80, tâm hồn như vẫn nguyên vẹn những cảm xúc thuở hoa niên. Quê hương là nguồn thi cảm dồi dào của Tế

Hanh. Những bài thơ hay nhất của ông là những bài viết về quê hương yêu dấu. Người đọc bắt đầu biết đến Tế Hanh từ bài thơ Quê hương in trong tập Nghẹn ngào năm 1939. Trong 14 tập thơ đã xuất bản của Tế Hanh, kế từ khi ông bước chân vào làng thơ đến nay, không tập nào thiếu vắng những bài thơ viết về quê cũ. Quê hương đã trỏ' thành một hệ thống hình tượng "ám ảnh" suốt đời thơ Tế Hanh. Thuở hồn nhiên cắp sách đến trường, quê hương trong mắt cậu học trò nghịch ngợm là những "con đường nhỏ chạy lang thang, kéo nỗi buồn không dạo khắp làng" (Lời con đường què), là "con sông xanh biếc, nước gương trong soi tóc những hàng tre" (Nhớ con sông quê hương). Khi đã trưởng thành "cầm súng xa nhà đi kháng chiến", tâm hồn nhà thơ vẫn trở về quấn quýt với con sông quê, mảnh vườn xưa, cái giếng đầu làng. Xa quê từ năm 15 tuổi, mấy chục năm sau Tế Hanh vẫn xốn xang khi nghe một điệu bài chòi (Điệu quê hương) trên sóng phát thanh. Tình yêu quê hương đã trỏ' thành niềm thao thức khôn nguôi khiến nhà thơ nhìn thấy mặt quê hương hiển hiện trên gương mặt người yêu dấu... Có thể nói, quê hương là điểm khởi đầu sự nghiệp sáng tác của Tế Hanh và là nguồn đề tài không bao giờ vơi cạn của nhà thơ xứ Quảng. Ngay từ bài thơ đầu tiên viết về quê hương, người đọc đã có cảm tình với một giọng thơ chân thành, rủ rỉ. Chàng thanh niên miền biển kể về làng quê của mình bằng những lời mộc mạc: "Làng tôi vốn làm nghề chài lưới: Nước bao vây cách biển nửa ngày sông". Sau câu mở đầu giản dị, cảm hứng như đã được khơi nguồn thi sĩ bắt đầu say sưa mô tả cảnh đẹp của quê hương: "Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng Dân trai tráng bai thuyền đi đánh cá. Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang. Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió"... Dòng thơ cứ nhẹ nhàng tuôn chảy, hình ảnh như tự nó thi nhau kéo đến, đẩy câu thơ đi liền một mạch theo dòng cảm xúc dào dạt của nhà thơ. Ngọn bút của thi nhân chỉ điểm phớt qua vài nét mà cảnh vật.như bừng sáng: "trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng". Một ngày mới ở làng thuở bắt đầu bằng vẻ tươi mát của thiên nhiên và tâm trạng hào hứng của người lao Tài động. liệu chia Chiếc sẻ tại thuyền "băng" ra biển trong tư thế của một "con tuấn mã", khi những "trai tráng" vạm vỡ, đầy sinh lực khua những nhịp chèo hối hả, mê say: "Phăng mái chèo

mạnh mẽ vượt trường giang". Thuyền lướt ra khơi, cánh buồm được kéo lên từ từ rồi bất chợt căng phồng vì no gió... Những hình ảnh so sánh đẹp và gợi cảm đi vào bài thơ một cách tự nhiên, dung dị, như không cần một cố gắng kĩ thuật nào. Dưới ngòi bút nhà thơ, cảnh sớm mai ỏ' làng chài hiện lên đầy vẻ rạng rỡ, tinh khôi và điểm sáng huy hoàng nhất ở đây là hình ảnh: "Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thầu góp gió". Biết bao thi tứ đã nảy sinh từ cánh buồm kiêu hãnh và thơ mộng. Lec-môn-tôp (nhà thơ Nga) có bài thơ trữ tình nổi tiếng về một cánh buồm khao khát đời giông tố: "Thấp thoáng xa xa một cánh buồm Chập chờn trên biển cả mù sương Buồm kiếm tìm chi nơi đất lạ? Giã từ chi đó chốn quê hương?" (Thuý Toàn dịch) Thơ Nguyễn Bính cũng có một cánh buồm đau đáu nhớ nhung: '"Anh đi đấy, anh về đâu? Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm"... Sau này, Hoàng Trung Thông còn mượn hình tượng Những cánh buồm để trò chuyện với con mình... Có bao nhiêu cánh buồm trong thơ ca là có bấy nhiêu cách cảm nghĩ khác nhau về hình tượng đó. Đối với Tế Hanh, cánh buồm như một biểu tượng của làng quê. Cánh buồm mỏng manh như "mảnh hồn làng nhưng nó mở rộng "bao la" như tâm hồn rộng mở của quê hương, nó vươn lên, dân thân và che chở... Từ một "cánh buồm" hết sức cụ thể đem so với "mảnh hồn làng" vô cùng trừu tượng, nhà thơ đã mỏ' ra một khoảng trời thênh thang cho những liên tưởng của người đọc: cánh buồm, hay mảnh hồn làng, là sự che chỏ' cho thuyền nhỏ bé, là sức mạnh (góp gió) đẩy thuyền đi xa, là phương tiện để chèo lái con thuyền... Người dân chài ra khơi như mang đi một phần máu thịt quê hương, cánh buồm gắn với con thuyền như "hồn vía" làng quê chỏ' che, neo giữ họ... Kẻ xa quê lâu ngày, thoáng thấy cánh buồm tưởng như bắt gặp hình bóng của miền quê yêu dấu... Tế Hanh, với trái tim mẫn cảm của một nhà thơ, đã thấy ỏ' cánh buồm, tâm hồn lộng gió của quê hương mình. Tình cảm gắn bó với làng quê khiến nhà thơ cảm nhận được sâu sắc niềm vui đơn sơ, hồn hậu của những.người dân chài khi thuyền cá trỏ' về: Tài liệu chia sẻ tại "Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ

Khắp dân làng tấp nập đón ghe về. Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe, Những con cá tươi ngon thân bạc trắng". Cuộc sống khắc nghiệt, luôn phải đương đầu với muôn nỗi hiếm nguy buộc những người dân ở đây gạn kết thành một cộng đồng chặt chẽ. Họ hợp lực với nhau trong những chuyên đi biển và chia sẻ cùng nhau mọi nỗi vui buồn. Mỗi lần thuyền ra khơi đánh cá, cả người ỏ' nhà lẫn người ra đi đều cầu trời khấn Phật đế được bình an. Vì thế, mỗi một khoang cá nặng chỏ' về là niềm vui, là hạnh phúc của mọi nhà: "Khắp dân làng tấp nập đón ghe về". Hơn ai hết, người dân chài thấu hiểu: đằng sau những mẻ cá "tươi ngon" là bao nỗi vất vả gian nan, bao hiểm nguy mà người thân của họ đã trải qua. Khi nhà thơ thay họ xúc động thốt lên: "Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe" Người đọc bỗng cảm thấy một niềm hạnh phúc rưng rưng lan toả trong dòng tho' rất đỗi bình thường: "Những con cá tươi ngon thân bạc trắng". Giọng thơ đang náo nức, sôi nổi ỏ' đoạn đầu, đến đây bắt đầu lắng xuống, nhịp thơ đi chậm lại. Ngòi bút nhà thơ chuyển sang đặc tả chân dung người đánh cá và con thuyền về bến: "Dân chài lưới làn da ngâm rám nắng, Cả thân hình nồng thở vị xa xăm; Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ". Đây là khổ thơ đẹp nhất, gợi cảm nhất của bài thơ, giống như một tác phẩm điêu khắc bằng thơ. Nếu như ỏ' phần trên Tế Hanh thiên về mô tả cảnh đẹp nhìn thấy thì ở đây, nhà thơ lại nghiêng về khai thác những vẻ đẹp cảm thấy. Hình tượng thơ, vì thế, như có chiều sâu hơn. Với "làn da ngăm rám nắng" người dân chài làm ta liên tưởng đến bức tượng đồng vạm vỡ. Hình ảnh đẹp như tượng nhưng ấm nồng sự sống, bởi: "Cả thân hình nồng thở vị xa xăm". Nhà thơ đã thi vị hóa một hiện tượng bình thường trong đời thực - nước biển mặn ngấm vào da thịt người dân chài tạo thành mùi vị riêng trên cơ thể họ - để gợi nên một hình ảnh vô cùng lãng mạn: chàng đánh cá sau chuyến phiêu du trên biển, lúc trở về còn mang theo hương vị nồng nàn của những vùng biển lạ. Và con thuyền, được hình dung như một cơ thể sống động, cũng mỏi mệt "nằm" im trên bến, lặng lẽ cảm nhận vị mặn mòi của biển ngấm vào cơ thể: Tài liệu chia sẻ tại "Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ

Trong câu thơ nhân hóa con thuyền, nhà thơ đã phối hợp tài tình hai hiện tượng: nước biển mặn ngấm sâu vào vỏ gỗ của con thuyền ngâm nước lâu ngày, tiếng tí tách rạn nứt của lòng thuyền ngấm mặn khi phơi mình trên bờ cát... Cả người và thuyền, hai hình tượng đều đẹp đến say lòng trong trạng thái nghỉ ngơi thư giãn. Bao nhiêu tài hoa của nhà thơ như đã dồn tụ ở bốn câu thơ đặc sắc này. Nếu bài thơ kết thúc ở đây, có lẽ sức gợi cũng chẳng kém gì khi cố thêm khổ cuối: "Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ Màu nước, xanh, cá hạc, chiếc buồm vôi, Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi, Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá". Đoạn kết bài thơ chỉ muốn tổng hợp lại những nỗi nhớ cụ thể của chàng trai. Có lẽ thơ không nên nói đến tận cùng, nói đủ đầy nhu thế chăng? Nhưng, đối với Tế Hanh, sự hồn nhiên chân thành trong tình cảm bao giờ cũng lấn át những dụng công kĩ thuật của nghề thơ. Bất chấp thời gian và sự biến đổi của lòng người, cảm xúc về quê hương vẫn là nguồn mạch dâng trào trong trái tim thi sĩ, để mỗi lần thấy biển, nhà thơ lại xốn xang: "Biển xao động nôn nao chiều con nước Lòng như thuyền chờ đợi buổi ra khơi"... Cảm nhận của em về hình ảnh quê hương trong thơ Tế Hanh Bài làm 6 Tế Hanh là nhà thơ có mặt trong phong trào Thơ Mới chặng cuối. Thơ Tế Hanh là một hồn thơ lãng mạn. Tế Hanh được biết đến nhiều nhất như một nhà thơ của quê hương, gắn bó máu thịt với quê hương. Cái làng chài ven biển có dòng sông bao quanh, nơi Tế Hanh được sinh ra, luôn đau đáu trong nỗi nhớ thương của Tế Hanh, gợi những nguồn cảm hứng vô tận cho thơ ông, giúp ông viết nên những vần thơ hay nhất, đẹp nhất. Quê hương là một trong những vần thơ như vậy. Tê Hanh la môṭ nha thơ lañg maṇ. Baì thơ đươ c ông viê t khi ông mươì tăḿ tuôỉ, caí tuôỉ môṇg mơ thơì aó trăńg. Tać gia xa quê nhơ vê laǹg quê như môṭ đôṇg lư c đê phâń châń chư không phaỉ caí ca m giać buôǹ man mać. Baì thơ vơí tiǹh ca m va gioṇg thơ chân thaǹh, ru ri, ngươì con miêǹ biê m kê vê laǹg quê cuả miǹh: Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới Tài liệu chia sẻ tại Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông

Đo la nhưñg câu thơ mơ đâù gia n di, nhưñg hiǹh a nh thân quen âý la bă t đâù cuả khơi nguôǹ mô ta ca nh đe p quê hương. Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang Sau nhưñg câu thơ giơí thiêụ vê laǹg quê cuả miǹh. nhưñg công viê c thươǹg ngaỳ cuả ngươì dân ven biê n không co gi la xa la đo la nghê đańh ca. Mây trơì, gio biê n la hiǹh a nh vô cuǹg đe p đươ c tać gia sư duṇg đê noí vê thơì tiê t nơi đây. Đoaǹ thuyêǹ ra khơi trong một buổi bình minh đẹp, khoáng đạt: bầu trời cao rộng, trong trẻo được điểm bởi những tia nắng hồng rực rỡ. Chỉ một câu thơ: Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng, tác giả đã vẽ được một không gian rộng lớn, vô tận. Một ngày mới ở làng thuở bắt đầu bằng vẻ tươi mát của thiên nhiên và tâm trạng hào hứng của người lao động. Nôỉ bâṭ lên ơ caí không gian nhe nhaǹg va đe p đe âý la hiǹh a nh duñg mañh cuả đoaǹ thuyêǹ băng miǹh ra khơi. Nhưñg hiǹh a nh so sańh vô cuǹg đe p đi vaò baì thơ môṭ caćh tư nhiên, như không câǹ môṭ ty ki thuâṭ naò, cać đôṇg tư maṇh đa toa t lên sưć sôńg, ve đe p huǹg trańg, sư duñg mañh cuả con thuyêǹ vươṭ sońg ra khơi. Dưới ngòi bút nhà thơ, cảnh sớm mai ỏ làng chài hiện lên đầy vẻ rạng rỡ, tinh khôi và điểm sáng huy hoàng nhất ở đây là hình ảnh cánh buồm căng gió. Vôń mang một vẻ đẹp lãng mạn, có thể quan sát được, bất ngờ được so sánh với hồn làng là những gì lớn lao, thiêng liêng, phi vật thể. Sự so sánh này không làm cho cánh buồm được miêu tả cụ thể hơn nhưng nó đã gợi nên một vẻ đẹp mới, lớn lao, thiêng liêng, vừa thơ mộng, vừa hùng tráng. Từ một cánh buồm hết sức cụ thể đem so với mảnh hồn làng vô cùng trừu tượng, nhà thơ đã mỏ ra một khoảng trời thênh thang cho những liên tưởng của người đọc: cánh buồm, hay mảnh hồn làng, là sự che chỏ cho thuyền nhỏ bé, là sức maṇh đẩy thuyền đi xa, là phương tiện để chèo lái con thuyền Người dân chài ra khơi như mang đi một phần máu thịt quê hương, cánh buồm gắn với con thuyền như hồn vía làng quê chỏ che, neo giữ họ Kẻ xa quê lâu ngày, thoáng thấy cánh buồm tưởng như bắt gặp hình bóng của miền quê yêu dấu.. Biểu hiện linh hồn làng chài bằng hình ảnh cánh buồm trắng no gió biển khơi là một sáng tạo độc đáo của Tế Hanh. Nhưñg câu thơ tiêṕ theo thể hiện hình ảnh làng chài khi những chiếc thuyền cá trở về sau những ngày chìm trong gió biển. Người dân làng chài vui sướng biết bao khi những người thân của họ đã mang về những thành quả tương xứng. Dân chài lưới mang một màu da thật riêng, có một mùi hương riêng biệt. Cái mùi này chỉ những người yêu quê hương tha thiết, nồng nàn như tác giả Tế Hanh mới có thể cảm nhận được. Chiếc thuyền cũng mệt mỏi sau những ngày đi biển, tựa như con người vậy. Cái chất muối thấm trong thớ vỏ cũng được tác giả cảm nhận bằng cách nghe, thật độc đáo! Vơí bôń câu thơ miêu ta người dân chài và con thuyền nằm nghỉ trên bến sau chuyến ra khơi là những câu thơ đặc sắc nhất, tinh tế nhất của bài Quê hương. Hình ảnh người dân chài vừa nổi bật với vẻ đẹp ngoại hình rắn rỏi, vạm vỡ: làn ra Tài ngăm liệu chia rámsẻ nắng, tại vừa gợi mở vẻ đẹp của một tâm hồn mộc mạc, đằm thắm, mặn mà vẻ đẹp của biển cả. Đó là một vẻ đẹp vừa chân thực vừa lãng mạn. Hai câu thơ vừa tả thực vừa

Powered by TCPDF (www.tcpdf.org) gợi cho người đọc những liên tưởng sâu xa, thú vị. Tác giả không chỉ nhìn thấy mà còn cảm nhận thấy sự mệt mỏi say sưa của con thuyền. Con thuyền vô tri đã trở thành một tâm hồn tinh tế không kém chủ nhân của nó. Sau bao ngày tháng lênh đênh, miệt mài trên biển, giờ đây, nó đang nằm và lắng nghe chất muối mặn mòi của biển thấm dần vào từng thớ vỏ, như một người lao động đang nằm và ngẫm nghĩ lại cả chặng đường vất vả, những giọt mồ hôi mà mình đã đổ xuống để có được thành quả lao động như ngày hôm nay. Trong cách miêu tả của Tế Hanh, ta thấy có sự gắn bó làm một giữa thiên nhiên cuộc sống với tâm hồn con người nơi đây. Và dù tác giả không biểu lộ trực tiếp tình cảm của mình nhưng trong cách miêu tả của ông, người đọc cảm nhận được sợi dây tình cảm thiêng liêng sâu nặng nối liền tâm hồn ông với thiên nhiên, cuộc sống và con người nơi đây. Không phải là một người con yêu dấu của quê hương, không yêu quê hương bằng tình yêu máu thịt và không có sự tinh tế tài hoa của một nhà nghệ sĩ thì không thể viết được những câu thơ sâu xa, xúc động như vậy. Nhưñg doǹg thơ cuôí la tiǹh ca m nhơ thương quê hương cuả tać gia. Vậy mà, ông vẫn luôn nhớ về mảnh đất quê hương yêu dấu của mình. Nhớ màu nước biển xanh, nhớ những con cá bạc, nhớ cánh buồm trắng, nhớ con thuyền đang băng băng rẽ sóng ra khơi. Ông còn nhớ cả cái mùi muối mặn của biển quê nhà, caí muì nôǹg măn trong tâm tươ ng nha thơ, chińh la caí hôǹ thiêng cuả quê hương. Caí tiǹh yêu va nôĩ nhơ ma không gi co thê miêu ta hê t đươ c. Ca baì thơ la nhưñg doǹg miêu ta song nhưñg sư miêu ta âý la xuâ t pha t tư doǹg tươ ng nhơ, tiǹh yêu quê hương da diê t cuả nha thơ. Ca baì thơ la toa t lên y biêủ ca m đă c biêṭ trong thơ Tê Hanh. Tê Hanh đa ve nên môṭ bưć tranh tươi sańg, sinh đôṇg vê môṭ laǹg quê miêǹ biê n, nôỉ bâṭ trong hiǹh a nh khoẻ khoăń, đâỳ sưć sôńg cuả ngươì chân chaì lươí, qua đo thê hiêṇ tiǹh yêu quê hương tha thiê t va đă m thăḿ cuả tać gia. Tài liệu chia sẻ tại