DOCAT MỖI TUẦN MỘT ĐỀ TÀI TUẦN 32 GIÁO HỘI CÓ ƯU ÁI MỘT MÔ HÌNH XÃ HỘI VÀ CHÍNH TRỊ NÀO KHÔNG? Như chúng ta đã biết, Công Đồng Vaticanô II dạy rằng Giáo Hội là Dân Thiên Chúa. Dân này sống rải rác khắp nơi trên thế giới. Ở đâu chúng ta cũng tìm thấy người công giáo. Nói cách cụ thể, dân Thiên Chúa sống và làm việc trong những mô hình [cơ cấu] xã hội khác nhau, như dân chủ hoặc xã hội chủ nghĩa. Là mẹ, Giáo Hội luôn đồng hành với con cái, những người đang sống trong những mô hình chính trị đó. Có những lúc, Giáo Hội vui mừng khi những mô hình chính trị này mang lại cho con cái mình cơm no ao ấm để họ sống đúng với nhân phẩm của mình. Nhưng cũng có lúc Giáo Hội phải lo buồn vì phẩm giá và quyền lợi con cái mình bị chà đạp. Công Đồng Vaticanô II diễn tả điều này như sau: Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ. Thực vậy, cộng đoàn của họ được cấu tạo bằng những con người đã được qui tụ trong Chúa Kitô, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong cuộc lữ hành về Nước Cha và đã đón nhận tin mừng cứu rỗi đem tới cho mọi người. Vì thế, cộng đoàn ấy mới nhận thấy mình thực sự liên hệ mật thiết với loài người và lịch sử nhân loại. 1 Trải qua dòng lịch sử, Giáo Hội đã chứng kiến sự hưng thịnh của nhiều mô hình chính trị khác nhau. Vậy Giáo Hội có ưu ái mô hình xã hội và chính trị nào không? Câu trả lời trong DOCAT khẳng định như sau: Giáo Hội có thể tán đồng nhiều hình thức chính trị, nếu phẩm giá và quyền lợi của mỗi người dân cũng như công ích được tôn trọng và bảo vệ. Giáo Hội ủng hộ một trật tự xã hội tự do dân chủ tới chừng mực mà trật tự này đảm bảo tốt nhất cho việc tham gia vào xã hội của mọi thành phần dân chúng và bảo vệ nhân quyền. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II viết: Giáo Hội đánh giá cao hệ thống dân chủ, vì hệ thống này đảm bảo công dân được tham gia vào việc đưa ra những chọn lựa chính trị, được bầu cử, và được quyền buộc các cấp chính quyền phải chịu trách nhiệm trong khi cầm quyền, cũng như khi cần thiết, được quyền thay thế họ bằng phương án ôn hoà. Do đó, Giáo Hội không thể ủng hộ việc thành lập các nhóm cầm quyền hạn hẹp, những kẻ chiếm quyền cai trị bằng vũ lực, nhằm thoả những động cơ lợi lộc cá nhân, hay vì những mục tiêu hiện thực hoá hệ tư tưởng nào đó. Nền dân chủ đích thực chỉ có thể hiện diện trong một Nhà nước được pháp luật ràng buộc, và dựa trên quan niệm đúng đắn về con người (Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Centesimus Annus, 46). 1 Vatican II, Hiến Chế Gaudium et Spes, số 1.
Trong câu trả lời của DOCAT, chúng ta có thể nhận ra hai tư tưởng chính yếu sau: (1) Giáo Hội tán đồng với bất kỳ mô hình [thể chế] chính trị nào biết tôn trọng và bảo vệ phẩm giá cũng như quyền lợi con người; (2) Giáo Hội ủng hộ một trật tự xã hội tự do dân chủ. Nhưng có sự ủng hộ của Giáo Hội có chứng mực, đó là trật tự này đảm bảo tốt nhất cho việc tham gia vào xã hội của mọi thành phần dân chúng và bảo vệ nhân quyền. Tại sao Giáo Hội tán đồng với bất kỳ hính thức chính trị nào biết tôn trọng và bảo vệ phẩm giá và quyền lợi con người? Tại sao Giáo Hội không chỉ ủng hộ một hình thức chính trị để dễ dàng kiểm soát? Chúng ta cùng nhau bắt đầu với kinh nghiệm hằng ngày. Đứng trước một vấn đề, chúng ta thường thấy mỗi người có mỗi cách giải quyết khác nhau. Ví dụ, đứng trước vấn đề thiếu nước để sinh hoạt hằng ngày, có người giải quyết bằng cách đào giếng, có người bắt nước từ những công ty cung cấp nước. Hoặc để đi lên đến một nơi nào đó, có người chọn đi bằng xe, có người đi máy bay, cũng có người đi bằng tàu. Mỗi người có những các giải quyết vấn đề khác nhau. Điều này dựa trên định luật cá vị hoá của con người, tức là mỗi người sinh ra là độc nhất vô nhị, không ai giống ai trong lối suy nghĩ và làm việc. Sự khác biệt nền tảng này là nền tảng mà trên đó những hình thức chính trị khác nhau được xây dựng. Mỗi hình thức chính trị tiếp cận và giải quyết vần đề xã hội khác nhau, tuỳ theo cái nhìn hoặc phương pháp tiếp cận vấn đề của họ. Phương pháp tiếp cận vấn đề và mục đích muốn đạt được sẽ quyết định phương tiện để giải quyết vấn đề. Như vậy, có ba yếu tố tạo nên sự khác biệt của các hình thức chính trị trong tương quan với xã hội, đó là mục đích của hình thức chính trị, phương pháp tiếp cận xã hội, và phương tiện để đạt đến mục đích. Giáo Hội luôn tôn trọng sự khác biệt của các hình thức chính trị, vì Giáo Hội là thầy dạy về con người. Giáo Hội biết con người không thể có được một hình thức chính trị đồng nhất cho hết con dân của mình đang sống rãi rác trên các nước khác nhau vì con người là những cá vị được Thiên Chúa dựng nên và yêu thương trong chính nó. Tuy nhiên, điều kiện cần thiết để Giáo Hội tán đồng cho một hình thức chính trị là thể chế chính trị đó phải tôn trọng và bảo vệ phẩm giá và quyền lợi của mỗi người dân cũng như công ích. Trong câu này, chúng ta thấy có ba điều mà một hình thức chính trị phải tôn trọng và bảo vệ, đó là (1) phẩm giá con người, (2) quyền lời của mỗi người, và (3) công ích. Nhìn từ khía cạnh Kitô giáo, chúng ta hiểu ba điều kiện này như thế nào? Thứ nhất là phẩm giá con người. Khi nói đến phẩm giá con người, chúng ta nói đến một cái gì đó vô giá trong con người mà ai trong chúng ta cũng sở hữu. Tư tưởng phẩm giá con người bao gồm tư tưởng tốt lành, tuyệt đẹp và hoản hảo. Nói cách khác, mỗi người chúng ta là một hữu thể mang trong mình sự tốt lành, vẽ đẹp và sự hoàn hảo. Phẩm giá con người được diễn tả qua khả năng tri thức, tự do và tình yêu. Nhìn từ khía cạnh Kinh Thánh, phẩm giá con người hệ tại việc con người được dựng nên theo hình ảnh và giống Thiên Chúa (St 1:26-27). Thiên Chúa dựng nên mỗi người cách cá vị, không thể thay thế và không thể lặp lại. Vì vậy, con người là hữu thể không thể bị lợi dụng. Tóm lại, phẩm giá con người theo cái nhìn Kitô giáo bao gồm những yếu tố sau: (1) con người là hình ảnh Thiên Chúa, (2) con người là con cái Thiên Chúa, (3) con người được tạo dựng cho sự sống đời đời. Yếu tố quan trọng làm nên phẩm giá con người [làm con người khác với con vật] là sự tự do. Tự do diễn tả phẩm giá con người trong một cách thức rất đặc biệt. Tự do cần phải gắn liền [không thể tách rời] với sự thật [là điều kiện của tự do], công bình [là thước đo của tự do], tình yêu [là sự hoàn thiện của tự
do]. Tự do đích thật, tự do mà làm cho con người có một phẩm giá tuyệt đẹp là khả năng chọn và thực hiện điều tốt, là khả năng chọn để yêu và để mình được yêu. Abraham Lincoln nói rằng: Khi tôi làm việc thiện, tôi cảm thấy hạnh phúc; khi tôi làm việc xấu, tôi cảm thấy xấu hổ. Đó là tôn giáo của tôi. Nhìn từ khía cạnh này, chọn và làm điều xấu là sự thất bại của tự do. Như thế, một thể chế chính trị không đảm bảo tự do đích thật của con người là một thể chế chính trị không tôn trọng và bảo vệ phẩm giá con người. Thứ hai là quyền lợi của con người hay còn gọi là nhân quyền. Khi nói đến nhân quyền, chúng ta nói đến điều gì? Chúng ta nói đến quyền mà mỗi con người [và mọi người] được thừa hưởng. Chúng ta phải phân biệt rõ nhân quyền với quyền của một nhóm. Ngày hôm nay, nhiều nhóm lấy danh nghĩa của nhân quyền để đấu tranh đòi quyền cho riêng nhóm của mình. Những quyền mà họ đấu tranh không phải là nhân quyền, dù họ lấy danh nghĩa nhân quyền để có được. Ví dụ, nhiều người đấu tranh để được quyền phá thai. Đây chỉ là quyền của một nhóm người muốn phá thai chứ không phải là quyền mà mọi người đều thừa hưởng. Như vậy, đâu là những yếu tố căn bản để một quyền được gọi là nhân quyền? Trong Thông Điệp Redemptor Hominis ( Đấng Cứu Độ Con Người ), Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II gọi nhân quyền là nguyên lý nền tảng về làm việc cho đời sống hạnh phúc của con người. 2 Sau đây là những đặc tính của nhân quyền: (1) nhân quyền thì phổ quát. Điều này có nghĩa là một quyền được gọi là nhân quyền chỉ khi nó được áp dụng cho hết mọi người, mọi nơi không phân biệt; (2) nhân quyền không thể chiếm lấy hoặc mất đi. Điều này có nghĩa là nghĩa là nhân quyền là quyền phú bẩm của con người; (3) nhân quyền đều giống nhau cho hết mọi người. Điều này có nghĩa là nhân quyền không lệ thuộc bào vị trí xã hội hay học thức. Ba nhân quyền căn bản nhất là: quyền được sống, quyền được sống một cuộc sống tự do cách hợp lý và quyền tìm kiếm hạnh phúc [đích thật]. Trong học thuyết xã hội của Giáo Hội, công ích là một nguyên tắc quan trọng vì mọi khía cạnh trong đời sống xã hội đều liên hệ đến công ích. Giáo Hội khẳng định rằng: Không có tổ chức nào của đời sống xã hội từ gia đình đến các tập thể xã hội trung gian, các hiệp hội, các tổ chức mang bản chất kinh tế, các thành thị, các khu vực, các quốc gia, cho đến cộng đồng các dân tộc và các quốc gia có thể tránh né việc tìm kiếm công ích, vì đó chính là yếu tố làm nên ý nghĩa và là lý do hiện hữu của các tổ chức ấy. 3 Vậy chúng ta tự hỏi, công ích là gì? công ích là toàn bộ những điều kiện xã hội cho phép con người, tập thể hay cá nhân, đạt tới sự phát triển cách đầy đủ và dễ dàng hơn. 4 Giáo huấn của Giáo Hội giải thích về công ích như sau: Công ích không chỉ đơn giản là tổng số các thiện ích riêng của mỗi người trong một thực thể xã hội. Dù là thuộc về mọi người và mỗi người, công ích vẫn là và mãi mãi là ích lợi chung, vì nó không thể phân chia được và vì khi cùng chung như thế người ta mới có thể có được nó, mới phát triển và bảo vệ được hiệu quả của nó, với tầm nhìn hướng về tương lai. Cũng như hành vi luân lý của một người được thực hiện chính khi người ấy làm điều tốt, các hành vi của xã hội cũng chỉ có tầm vóc tương xứng khi chúng đem lại ích lợi chung. Thật vậy, có thể hiểu công ích là khía cạnh xã hội và cộng đồng của luân lý. 5 Theo Giáo Hội, để cho một thể chế chính trị được tán đồng thì thể chế chính trí đó phải lấy công ích tức là ích lợi của hết mọi người và của con người toàn diện làm mục tiêu tiên 2 Xem Gioan Phaolô II, Thông Điệp Redemptor Hominis ( Đấng Cứu Độ Con Người ), số 17. 3 4 Toát Yếu về Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo, số 164. 5 Toát Yếu về Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo, số 164.
quyết của mình. 6 Như chúng ta đã chia sẻ trong những bài học hỏi trước, con người tự mình không thể đáp ứng hết tất cả những ước muốn của mình. Nói cách khác, con người không thể tìm thấy hạnh phúc đích thực nơi chính bản thân của mình. Hạnh phúc đích thật của con người hệt tại ở việc sống với và vì người khác. Điều này không chỉ bắt con người phải sống với người khác ở các cấp độ khác nhau trong đời sống xã hội, mà còn bắt con người phải không ngừng tìm kiếm không chỉ tìm kiếm trong ý tưởng mà cả trong thực tế cụ thể điều tốt, tức là ý nghĩa và sự thật, được tìm thấy trong hết mọi hình thức đang có của đời sống xã hội. 7 Để đảm bảo công ích, mỗi thể chế chính trị phải làm hài hoà các quyền lợi khác nhau của các thánh phần xã hội với các đòi hỏi của công lý. 8 Một trong những thách đố lớn cho bất kỳ hình thức xã hội và chính trị nào là việc điều hoà cách thích hợp giữa các lợi ích của tập thể với các lợi ích cá nhân. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng, chế độ xã hội chủ nghĩa, trên lý thuyết đặt quyền lợi tập thể lên trên quyền lợi cá nhân. Nhưng trong thực hành thì ngược lại, những người cầm quyền trong thể chế này thường lo cho quyền lợi cá nhân [của mình hay của đảng phái mình] hơn quyền lợi tập thể. Còn hình thức xã hội dân chủ, vì những người lãnh đạo được dân chúng bầu lên, nên họ có lưu tâm nhiều hơn để làm hài hoà giữa hai lãnh vực quyền lợi khi có sự đối kháng. Công ích mặc lấy giá trị siêy vượt khi nhìn từ ý định của Thiên Chúa. Thật vậy, ngay từ khai sáng tạo, Thiên Chúa tạo dựng nên mọi sự vì lợi ích chung của toàn thể thụ tạo. Liên quan đến đặc tính siêu việt của công ích, Giáo Hội dạy rằng: Thiên Chúa là mục tiêu tối hậu của các thụ tạo do Ngài dựng nên, và vì thế, không thể vì bất cứ lý do gì mà công ích mất đi chiều hướng siêu việt, tức là chiều hướng vừa vượt lên trên lịch sử vừa hoàn thành lịch sử. Viễn cảnh này đạt đến sự viên mãn của nó nhờ tin vào cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu, một mầu nhiệm cho chúng ta thấy rõ ích lợi chung thực sự của nhân loại đã được thực hiện như thế nào. Lịch sử của chúng ta tức là nỗ lực cá nhân cũng như tập thể để nâng cao thân phận con người bắt đầu và kết thúc nơi Đức Giêsu: nhờ Người, với Người và trong ánh sáng của Người, mọi thực tại, kể cả xã hội loài người, có thể được đưa tới Sự Thiện Tối Thượng, tới mức thành toàn của công ích. Một nhãn quan thuần tuý lịch sử và vật chất sẽ kết thúc bằng cách biến công ích thành một sự an vui đơn thuần về mặt kinh tế và xã hội mà không hướng tới một mục tiêu siêu việt nào, tức là không có lý do hiện hữu sâu xa nào của chính công ích. 9 Điểm quan trọng thứ hai mà câu trả lời trong DOCAT đưa ra đó là việc Giáo Hội ủng hộ một trật tự xã hội tự do dân chủ tới chừng mực mà trật tự này đảm bảo tốt nhất cho việc tham gia vào xã hội của mọi thành phần dân chúng và bảo vệ nhân quyền. Trong câu khẳng định này, chúng ta thấy dường như Giáo Hội tỏ sự ưu ái hơn với nền chính trị mang tính dân chủ. DOCAT khẳng định điều này qua việc trích lời của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong Thông Điệp Centesimus Annus ( Bách Chu Niên ) (số 46): Giáo Hội đánh giá cao hệ thống dân chủ, vì hệ thống này đảm bảo công dân được tham gia vào việc đưa ra những chọn lựa chính trị, được bầu cử, và được quyền buộc các cấp chính quyền phải chịu trách nhiệm trong khi cầm quyền, cũng như khi cần thiết, được quyền thay thế họ bằng phương án ôn hoà. Khi đọc cẩn thận những lời này, chúng ta cần phải lưu ý rằng Giáo Hội đánh giá cao chứ không hoàn toàn ưu ái hay hoàn toàn ủng hộ hình thức dân chủ của xã hội. Khi nhìn lại lịch sử, Giáo Hội nhận ra nhiều chế độ độc tài đã đưa tới tai hoa khủng khiếp về chiến tranh, về chà đạp phẩm giá con người, nhất là về việc tước đi nhiều quyền căn bản của con người. Những chế độ độc tào này nhìn bề ngoài xem ra hoạt động cho một lợi ích cao hơn, đó là lợi ích chung. 6 7 8 Toát Yếu về Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo, số 169. 9 Toát Yếu về Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo, số 170.
Nhưng tự bản chất, những chế độ này chỉ lo cho lợi ích của một phe phái đã tự đồng hoá với thể chế chính trị. 10 Còn hình thức xã hội mang tính dân chủ có khuynh hướng tôn trọng quyền lợi và nhân vị của con người hơn. Vì trong hình thức xã hội dân chủ, có nhiều đảng đối kìm hãm nhau hầu mang lại một sự cân bằng trong xã hội, đồng thời cũng có thể tố cáo những đảng phái nào không thực thi quyền bính cách hợp pháp hầu tôn trọng và bảo vệ quyền lợi của từng công dân và toàn đất nước. Tóm lại, Giáo Hội chỉ ưu ái hình thức xã hội và chính trị biết tôn trọng và bảo vệ phẩm giá và quyền lợi con người. Tự bản chất, Giáo Hội là một thực thể hổn hợp của hai yếu tố thiêng liêng và trần thế. Hai yếu tố này hoà hợp với nhau một cách không thể tách rời. Nhìn từ khía cạnh này, Giáo Hội ưu ái cho bất kỳ hình thức xã hội và chính trị nào đảm bảo cho con cái của mình tìm được sự phát triển toàn diện trong cả hai lãnh vực vật chất và thiêng liêng. Nói cách khác, Giáo Hội ưu ái cho thể chế nào biết tạo điều kiện cho công dân của mình trở thành những công dân lương thiện cho đất nước và những người Kitô hữu thánh thiện cho Giáo Hội. 10 Xem Gioan Phaolô II, Thông Điệp Redemptor Hominis ( Đấng Cứu Độ Con Người ), số 17.