TIỂU BAN NHÂN SỰ VÀ ĐÀO TẠO EUROCHAM Ý KIẾN VỀ DỰ THẢO NGHỊ ĐỊNH QUY ĐỊNH CHI TIẾT VỀ NGƯỜI LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 1. Điều 3 trong cam kết WTO và 11 ngành Hơn bảy năm từ khi các cam kết WTO và việc cho phép miễn trừ giấy phép lao động áp dụng cho 11 ngành nghề, EuroCham không tìm thấy một thành viên nào được miễn giấy phép lao động theo quy định tại khoản này, do không có được những diễn giải chi tiết về giấy tờ cần cung cấp. Chúng tôi muốn đề nghị Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội định hướng và cung cấp các chi tiết cho Bộ Công thương như là một phần của Nghị định này. EuroCham khuyến nghị Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và Bộ Công thương chấp nhận các giấy tờ sau cho việc miễn trừ: (i) Giấy chứng nhận đầu tư của doanh nghiệp nhận người nước ngoài di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp (chứng minh rằng doanh nghiệp có tham gia vào những ngành kể trên); (ii) Bằng chứng về mối liên hệ giữa doanh nghiệp nước ngoài (trước đó đã tuyển dụng người nước ngoài di chuyển trong nội bộ) và doanh nghiệp nhận người nước ngoài di chuyển trong nội bộ (ví dụ như: Giấy phép đầu tư, Giấy chứng nhận cổ đông, Giấy chứng nhận góp vốn ) (iii) Bằng chứng về việc tuyển dụng người nước ngoài di chuyển trong nội bộ của doanh nghiệp nước ngoài (trước đó đã tuyển dụng người nước ngoài) trong vòng ít nhất một năm (ví dụ như Hợp đồng lao động). Một khi Bộ Công thương gửi thư xác nhận rằng người lao động nước ngoài di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp được miễn giấy phép làm việc, "việc đăng ký" theo yêu cầu tại Sở Lao động, Thương binh và Xã hội để được "miễn Giấy phép lao động" nên được đơn giản hóa (chỉ một mẫu số 11). Hiện tại, mẫu miễn trừ giấy phép lao động số 11 yêu cầu các tài liệu hỗ trợ tương tự như các tài liệu cần thiết cho việc xin giấy phép lao động. Những trường hợp miễn trừ như vậy cũng phải được thông báo cho Phòng Xuất nhập cảnh chịu trách nhiệm phát hành thẻ tạm trú cho người lao động nước ngoài và người phụ thuộc tại Việt Nam. 2. Điều 5 về Nhu cầu sử dụng Người lao động nước ngoài Các công ty không nên bị bắt buộc xin phép Sở Lao động, Thương binh và Xã hội và sau đó là Ủy ban nhân dân về việc sử dụng người lao động nước ngoài vì điều này đã được chứng minh bằng cách đợi 30 ngày và thời gian đăng quảng cáo. Chúng tôi kiến nghị cần sửa đổi lại thành
Sở Lao động, Thương binh và Xã hội nên báo cáo số lượng yêu cầu cấp giấy phép lao động và yêu cầu công việc, và loại bỏ các thông tin khác. Bản thân các thủ tục đăng ký hiện tại cho người nước ngoài đã là một gánh nặng hành chính. Nếu giờ đây có thêm yêu cầu phải có sự chấp thuận từ phía Ủy ban nhân dân địa phương và các tiêu chuẩn cho việc chấp thuận hoặc từ chối của Ủy ban nhân dân địa phương cũng không rõ ràng, thì điều này sẽ gây bối rối và chậm trễ cho quá trình cấp giấy phép lao động. Thêm nữa cũng không rõ cơ quan nào sẽ có thẩm quyền chấp nhận cho phép việc thuê mướn và hồ sơ giữa các cơ quan có thẩm quyền liên quan. 3. Điều 8 về Trình tự cấp Giấy phép lao động Một trong những lý do khiến số lượng người lao động nước ngoài được tuyển dụng tại Việt Nam ngày càng tăng là kết quả của sự thiếu hụt ứng viên có kỹ năng trong thị trường, điều đó không hẳn là do hệ thống giáo dục Việt Nam mà còn do sự thiếu hụt ứng viên có kinh nghiệm làm việc trong môi trường quốc tế. Kinh nghiệm làm việc và kinh nghiệm trong môi trường quốc tế không chỉ có được thông qua bản thân công việc mà còn cần được trải nghiệm qua những môi trường và tình huống (quốc tế) khác nhau. Đối với một số Chuyên gia, Quản lý và Điều hành, điều đó có được nhờ vào nhiều năm kinh nghiệm làm việc trong những phong tục và nền văn hóa khác nhau. Việt Nam đang tìm cách thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực Công nghệ Thông tin, Viễn thông, Chăm sóc sức khỏe, Dịch vụ tài chính và Giáo dục trong vòng 5-10 năm tới. Hiện tại, có một sự chênh lệch lớn, vì những chứng nhận và kỹ năng cần thiết không được đào tạo hoặc có sẵn tại Việt Nam, dẫn đến việc nhiều công ty không thể địa phương hóa một số vị trí do tính chất của ngành nghề. Việt Nam cần thu hút những chuyên gia này đến làm việc tại Việt Nam và chuyển giao kỹ năng cho những thế hệ tiếp theo. Người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam vẫn duy trì sự quan trọng và không thể thiếu được trong tương lai Việt Nam, khi mà hệ thống giáo dục chưa thật sự sẵn sàng cung cấp những lực lượng lao động chuyên môn và kinh doanh cần thiết. Chúng tôi đề nghị rằng các Hợp đồng học việc nên được bắt buộc trong lần ký kết thứ ba của hợp đồng lao động thay vì lần thứ hai nhằm cho phép người học việc học hỏi được công việc. Hai năm là quá nhanh để tìm hiểu các kỹ năng cần thiết cho vai trò chuyên môn và kỹ thuật. EuroCham tin rằng điều khoản này sẽ ngăn cản các công ty thâm nhập thị trường Việt Nam vì họ cần nhiều thời gian hơn để phát triển nhân viên và các chi phí liên quan đến việc thuê một người nước ngoài chuyển giao kiến thức sẽ không được bù lỗ. Theo Nghị định 46, việc yêu cầu các công ty phải đưa tên một cá nhân người Việt Nam vào hợp đồng học việc khi gia hạn giấy phép lao động của người nước ngoài là mối quan tâm lớn cho các thành viên EuroCham. Như chúng tôi đã chỉ ra, Việt Nam có tỉ lệ chuyển việc cao do nhân viên thường rời khỏi công
ty và làm việc cho đối thủ cạnh tranh với một mức lương cao hơn. Việc quy định tên một người là rất khó trong quá trình này, hơn nữa có một số kỹ năng và vai trò chuyên môn có thể cần nhiều hơn ba năm học việc. Việc các công ty phải cam kết và đưa ra những kỳ vọng và thời gian không thực tế cho cả người lao động và người sử dụng lao động là một gánh nặng. Ngoài ra, việc các tổ chức phi chính phủ cần phải có hợp đồng học việc là không khả thi mà nên thay bằng các chương trình đào tạo để phát triển kỹ năng cho người lao động. 4. Điều 10 về Đơn xin giấy phép lao động Mặc dù Việt Nam có một quy trình tương tự như các quốc gia trong khu vực, nhưng quy trình quản lý tại Việt Nam lại phức tạp và thiếu nhất quán trong từng địa phương. Quá trình quảng cáo Trước hết, việc yêu cầu đăng quảng cáo cho một vị trí trong vòng 30 ngày trên các báo địa phương và quốc gia chưa phản ánh đúng môi trường truyền thông tại Việt Nam. Internet đóng một vai trò lớn tại Việt Nam với hơn 60% dân số tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội sử dụng, có nghĩa là báo chí truyền thống không phải là phương tiện quảng cáo duy nhất. Hấu hết các công ty đăng quảng cáo trên internet và các trang việc làm hơn là báo in truyền thống. Khi các công ty phải quảng cáo công việc đòi hỏi kỹ năng chuyên môn hoặc kinh nghiệm, việc đó làm trì hoãn ngày bắt đầu làm việc và cũng không hiệu quả cho doanh nghiệp. Điều này đặc biệt quan trọng nếu vị trí đó đòi hỏi nhiều kỹ năng. Công ty không nên phân biệt trong quá trình quảng cáo/lựa chọn và có quyền tự do chỉ định người tốt nhất cho vai trò dựa trên tiêu chuẩn chứ không phải là quốc tịch. Một khi công ty đã đăng quảng cáo công việc, họ phải có được các tài liệu cần thiết và nộp đơn xin giấy phép lao động. Việc cấp quyết định có thể mất đến 60 ngày trong một số trường hợp. Trong thời gian đó, người nước ngoài không thể làm việc hợp pháp tại Việt Nam. Điều này có thể gây ra các vấn đề lớn cho việc kinh doanh của công ty, không cho phép họ có người quản lý tại chỗ và điều hành doanh nghiệp hiệu quả. Đào tạo nghề/chứng chỉ Một vấn đề khác nữa đó là rất nhiều loại chứng chỉ đào tạo nghề, giấy chứng nhận, thư của hiệp hội, giấy chứng nhận thương mại, v.v. không được Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội chấp nhận trong quá trình cấp giấy phép lao động ngay cả khi là giấy chứng nhận hợp pháp. Đó là những chứng chỉ có giá trị pháp lý tại nước sở tại nhưng lại không được một số các phòng ban chấp nhận trong quá trình cấp giấy phép lao động. Điều này là một vấn đề lớn khi người nước ngoài có một chứng chỉ đào tạo nghề chứ không phải bằng cấp.
Giấy chứng nhận kinh nghiệm, dù đương nhiên vẫn có thể được nộp theo yêu cầu, không phù hợp với bản chất và thị trường việc làm đang ngày càng thay đổi hiện nay. Theo quy định hiện tại, cần phải có ít nhất 5 năm kinh nghiệm làm việc tại một vị trí; điều này không phản ánh được thực tế là có nhiều người nước ngoài cũng như người Việt Nam có thể có 2 công việc liên tục trong khoảng thời gian đó. Chứng nhận này cũng không tính đến kinh nghiệm làm việc tại Việt Nam. Vấn đề là nhiều công ty không lưu hồ sơ nhân viên lâu như vậy nên việc cố gắng truy nguyên các giấy tờ yêu cầu tại nước sở tại là rất khó khăn. Hợp pháp hóa Một vấn đề quan trọng khác là các yêu cầu hợp pháp hóa, công chứng và chứng nhận giấy tờ. Trước hết, mất khá nhiều thời gian để có được các văn bản theo yêu cầu tại nước ngoài, nhiều nước hiện chưa có Đại sứ quán Việt Nam và quy định chỉ có hiệu lực trong 3 tháng. Quá trình này mất rất nhiều thời gian và chi phí, trong khi vẫn có khả năng sau đó không được Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tại các địa phương chấp nhận. Quá trình này và quá trình cấp phép sau đó có thể mất đến 6 tháng, và trong thời gian này người nước ngoài vẫn không thể bắt đầu làm việc. Một giấy phép lao động tạm thời có thể là phương án khả thi cho phép các công ty sắp xếp mọi việc trước khi đăng quảng cáo một vài công việc cụ thể (kỹ năng cao, chuyên môn) hoặc một vài vị trí cho phép họ làm việc trong quá trình đợi cấp phép. 5. Kết luận và Kiến nghị: EuroCham tin rằng về nguyên tắc, việc nội địa hóa các vai trò là một phần quan trọng cho sự phát triển của Việt Nam từ một thị trường mới nổi thành một quốc gia phát triển. Vì vậy, EuroCham xin đưa ra các kiến nghị sau: Quảng cáo 1. Yêu cầu đăng quảng cáo không nên áp dụng cho những vị trí đã được miễn trừ giấy phép lao động theo cam kết WTO và một quảng cáo trong các phương tiện do công ty lựa chọn là đủ thay thế cho những quảng cáo khác. 2. Công ty nên được cho phép lựa chọn ứng viên dựa theo nhận định và quy trình nội bộ, không phân biệt quốc tịch. Hợp đồng học việc 3. Yêu cầu ký hợp đồng học việc với một cá nhân xác định khi gia hạn giấy phép lao động cần được bãi bỏ. Và cho phép đúng người làm đúng vị trí dựa trên chuyên môn và yêu cầu công việc, các công ty cần được yêu cầu có một chương trình đào tạo tại chỗ cho người lao động Việt Nam và chứng minh việc đào tạo được thực hiện cho cơ quan chức năng.
Giấy phép lao động tạm thời trong 6 tháng 4. Việc ra mắt một biên nhận chính thức có thể cấp cho phép người lao động nước ngoài bắt đầu làm việc ngay lập tức. Giấy phép lao động có điều kiện cho các Chuyên gia, Quản lý và điều hành cho phép họ bắt đầu làm việc trong lúc thu thập các giấy tờ từ nước ngoài. Giấy phép lao động tạm thời này nên được cấp trong giai đoạn 6 tháng. Trong thời gian đó, công ty sử dụng lao động có trách nhiệm đảm bảo người đó có đủ năng lực, v.v để hoàn thành công việc và chịu trách nhiệm cho hành động của họ. 5. Làm rõ những định nghĩa và quy trình cấp Giấy chứng nhận/văn bằng đào tạo nghề được Sở Lao động, Thương binh và Xã hội công nhận. Hướng dẫn chi tiết quy trình công chứng, hợp pháp hóa và chứng nhận các văn bản mà những nước khác nhau có quy trình khác nhau và không miễn phí cho các yêu cầu từ Việt Nam và các cơ quan tại Việt Nam. 6. Việc chấp nhận xác minh của người sử dụng lao động về năng lực và thư xác nhận kinh nghiệm của người lao động. Điều này sẽ hội đủ chứng từ cho giấy phép lao động mà không cần có từ quốc gia của họ. Miễn trừ Giấy phép lao động 7. Hiện nay, cần hoàn thành danh mục người lao động nước ngoài được miễn giấy phép lao động và nộp Mẫu số 11 cho Sở Lao động, Thương binh và Xã hội để xin miễn giấy phép làm việc và cung cấp các tài liệu hỗ trợ như bằng Đại học hoặc Giới thiệu kinh nghiệm từ những người khác. Những tài liệu bổ sung này cũng tương tự như các giấy tờ yêu cầu khi xin giấy phép lao động. 8. Người lao động nước ngoài di chuyển trong nội bộ khi nhận được xác nhận từ Bộ Công Thương cho miễn giấy phép lao động thì chỉ cần điền vào mẫu số 11 miễn trừ giấy phép lao động tại Sở Lao động, Thương binh và Xã hội. Điều này nên được áp dụng tương tực cho các trường hợp được miễn trừ khác. Không cần hoặc nên hạn chế việc yêu cầu các tài liệu hỗ trợ kèm theo. Một số vấn đề nổi bật cần thêm hướng dẫn/ các văn bản hỗ trợ: 1. Liệu việc yêu cầu người lao động ngước ngoài phải xuất trình giấy phép lao động trong quá trình làm thủ tục nhập cảnh trước khi vào Việt Nam có hợp lý không nếu sau thời gian thử việc người nước ngoài không đáp ứng được các đòi hỏi công việc? 2. Có chính xác không khi hiển nhiên cho rằng Bộ luật Lao động Việt Nam liên quan tới các vấn đề nghỉ thai sản, thử việc, Liên đoàn Lao động và chấm dứt hợp đồng cũng áp dụng đối với người nước ngoài? 3. Có nên đề xuất một điều khoản đề cập việc vô hiệu hóa hợp đồng lao động trong trường hợp thiếu giấy phép lao động?
4. Bản dự thào nêu cụ thể rằng giấy phép lao động không được xin quá 24 tháng trong khi luật hiện hành cho phép k ý hợp đồng lao động có giá trị tối đa là 36 tháng. 5. Số lần gia hạn hợp pháp tại Việt Nam cần được làm rõ đối với trường hợp sử dụng người nước ngoài