Cảm nhận của em về nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”

Tài liệu tương tự
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xưa qua bài Tự tình II của Hồ Xuân Hương và Thương vợ của Trần Tế Xương – Bài tập làm văn số 2 lớp 11

Phân tích đoạn trích “Trao duyên” trong Truyện Kiều của Nguyễn Du

Phân tích nhân vật vũ nương trong tác phẩm Người con gái Nam Xương

Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du

Phân tích những bi kịch của phụ nữ dưới thời phong kiến

Phân tích vẻ đẹp cổ điển mà hiện đại trong bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên

Hóa thân thành Mị Châu kể lại câu chuyện Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy

Nghị luận xã hội về “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”

Thuyết minh về Nguyễn Du

Cảm nhận về hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua văn thơ xưa

Phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn – Văn mẫu lớp 9

Phân tích đoạn trích Trao duyên của truyện kiều

 Phân tích bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh

Bình giảng tác phẩm truyện Kiều của Nguyễn Du

Thơ NGUYỄN KINH BẮC

Công Chúa Hoa Hồng

Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh ký của Nguyễn Du – Văn hay lớp 10

Microsoft Word - nvs-vanhocnamha[layout].doc

Phân tích nhân vật Liên trong tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam

Bình giảng bài thơ thu vịnh của Nguyễn Khuyến

Phân tích nét tương đồng trong thơ Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương

HỒI I:

Phân tích tác phẩm Một người Hà Nội (Nguyễn Khải) – Văn mẫu lớp 12

Phân tích bài thơ “Đàn ghi-tar của Lor ca” của Thanh Thảo – Văn hay lớp 12

Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du

KINH PHÁP CÚ Illustrated Dhammapada Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka Tâm Minh Ngô Tằng Giao CHUYỂN DỊCH THƠ

Phân tích cách nhìn hiện thực cuộc sống của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm Chiếc thuyển ngoài xa

Thuyết minh về truyện Kiều

No tile

Tràng Giang

Phân tích hình tượng nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân

Phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh

Phân tích bài thơ Xuất Dương lưu biệt của Phan Bội Châu

Phần 1

PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA

Cảm nhận bài thơ Đàn ghita của Lor-ca của Thanh Thảo

Cảm nhận của em về bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”

Bình giảng đoạn thơ trong bài “Vội vàng” của Xuân Diệu

Cảm nhận về “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu

Chiều Trên Phá Tam Giang Trần Thiện Thanh Chiều Trên Phá Tam Giang anh chợt nhớ em nhớ ôi niềm nhớ ôi niềm nhớ đến bất tận em ơi! em ơi! Giờ này thươn

Nghị luận xã hội về tình yêu quê hương đất nước – Văn mẫu lớp 12

Phân tích nét hung bạo và vẻ đẹp trữ tình của hình tượng sông Đà trong tác phẩm Người lái đò sông Đà – Văn hay lớp 12

Chương 16 Kẻ thù Đường Duyệt càng hoài nghi, không rõ họ đang giấu bí mật gì. Tại sao Khuynh Thành không ở bên cạnh nàng, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì

Microsoft Word - 25-AI CA.docx

Phân tích cái hay, cái đẹp của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Em hãy tưởng tượng và kể lại một cuộc gặp gỡ với một trong các nhân vật cổ tích hoặc truyền thuyết

Tả cảnh mặt trời mọc trên quê hương em

Đọc truyện cổ tích Tấm Cám, anh chị có suy nghĩ gì về cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giữa người tốt và kẻ xấu trong xã hội xưa và nay? – Văn m

Bình giảng 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Cúc cu

ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN Giảng giải: Đại Sư Ấn Quang Việt dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa PHẦN MƯỜI TÁM 17

Tóm tắt tác phẩm văn xuôi lớp 12

ẨN TU NGẨU VỊNH Tác giả: HT. THÍCH THIỀN TÂM ---o0o--- Nguồn Chuyển sang ebook Người thực hiện : Nam Thiên

chulangnghiem.com Kinh Đại Phật Đảnh Cứu Cánh Kiên Cố Và Mật Nhân Của Như Lai Về Chư Bồ-Tát Vạn Hạnh Để Tu Chứng Liễu Nghĩa (Kinh Lăng Nghiêm) Quyển 4

Cảm nhận vẻ đẹp dòng sông hương qua bài “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Tả một cảnh đẹp mà em biết

PHÓNG SANH VẤN ĐÁP

Nghị luận xã hội về bệnh vô cảm hiện nay

Document

Vỡ Hoang Trước Bình Mình Cung Tích Biền Đêm động phòng hoa chúc mà không thể làm tình, có chăng chuyện xảy ra với một gã liệt dương đặt bày cưới vợ. C

Phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang của Huy Cận

Document

Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông - Hoàng Phủ Ngọc Tường

Đôi mắt tình xanh biếc 1 THÍCH THÁI HÒA ĐÔI MẮT TÌNH XANH BIẾC NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA VĂN NGHỆ

Bình giảng tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu

KHUYÊN NGƯỜI NIỆM PHẬT

ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN Giảng giải: Đại Sư Ấn Quang Việt dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa PHẦN MƯỜI HAI 19

No tile

Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu

Bình giảng bài thơ Mưa xuân của Nguyễn Bính

Hà Nội, những Mùa Xuân Phai Lê Hữu Hà Nội yêu, anh vẫn yêu muốn khóc (1) Tôi chưa hề nghe ai nói yêu muốn khóc bao giờ, chỉ độc nhất có một người làm

Phân tích bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ – Ngữ Văn 9

Microsoft Word - emlatinhyeu14.doc

Bình giảng bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Kể lại một chuyến đi tham quan hay du lịch cùng các bạn trong lớp – Văn hay lớp 7

Phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Cảnh khuya của Hồ Chí Minh

SỰ SỐNG THẬT

Cảm nhận về bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

BIỂN ĐÔNG BS Tô Đình Đài 1 MỘNG HÁN GIAN Hán Gian mơ ước từ lâu Muốn làm Bá Chủ Hoàn cầu Đưa nhân loại vào vòng lệ thuộc Dòng đời tang tóc bèo dâu! Hã

Hãy viết một bài văn về tình mẫu tử

Cảm nhận về bài thơ Mộ (Chiều tối) của Hồ Chí Minh – Văn mẫu lớp 11

1 Triệu Châu Ngữ Lục Dịch theo tài liệu của : Lư Sơn Thê Hiền Bảo Giác Thiền Viện Trụ Trì Truyền Pháp Tứ Tử Sa Môn Trừng Quế Trọng Tường Định. Bản khắ

Đề 11: Hình ảnh thiên nhiên, vũ trụ, con người trong Đoàn thuyên đánh cá của Huy Cận – Bài văn chọn lọc lớp 9

Microsoft Word - hong vu cam thu.doc

Nêu suy nghĩ về tình mẫu tử trong đoạn trích Trong lòng mẹ của Nguyên Hồng

Phân tích bài thơ Chiều tối

Microsoft Word - KinhVoLuongTho-Viet

Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh – Văn mẫu lớp 8

Phân tích Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát

SỰ SỐNG THẬT

Kể lại một kỷ niệm sâu sắc nhất về gia đình, bạn bè, người thân, thầy cô – Bài tập làm văn số 2 lớp 10

Kinh Bat Chu Tam Muoi - HT Minh Le Dich

Ngày 14/07/1992, lúc 4 giờ sáng rời Sài Gòn để qua Mỹ theo diện HO/10 trên chuyến máy bay United Airline ngừng tại trại tị nạn Thái Lan. Máy bay lên c

Phân tích bài “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến

LỜI NÓI ĐẦU Ebook miễn phí tại : Khi tình yêu đồng nghĩa với đau khổ, nghĩa là bạn đang yêu mù quáng. Khi phần lớn những cuộc trò chuy

(SỰ LỰA CHỌN SAI LẦM)

Phân tích hình ảnh người lính trong hai tác phẩm Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Cảm nghĩ về bố của em – Văn mẫu lớp 7

Bản ghi:

Cảm nhận của em về nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích Author : vanmau Cảm nhận của em về nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích Bài làm 1 Thúy Kiều là nhân vật lí tưởng của Nguyễn Du với sự trọn vẹn về tài và sắc nhưng cuộc đời Kiều lại long đong, lận đận. Qua nhân vật Thúy Kiều, tác giả muốn gửi gắm những khát vọng sống, khát vọng yêu mạnh liệt nhất. Trong những năm tháng đày đọa bản thân, cảnh kiều sống ở lầu Ngưng Bích khiến người đọc rưng rưng. Nguyễn Du đã gợi tả thành công hình dáng và tâm lí của Thúy Kiều khi sống ở chốn lầu xanh qua đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích. Cuộc đời của Thúy Kiều sau khi rơi vào tay Mã Giám Sinh là những chuỗi ngày đằng đằng nhớ thương và nước mắt. Thúy Kiều bị chà đạp và vùi dập không xót thương. Những kẻ mua thịt bán người đã không từ mọi thủ đoạn để có được Kiều, và rồi để hành hạ Kiều. Thúy Kiều đã định tìm đến cái chết để giải thoát bản thân nhưng Tú Bà đã biết được và đem Kiều sống tại lầu Ngưng Bích một nơi lạnh lẽo tình người. Thực chất hành động này của mụ chính là giam lỏng kiều, dần dần buộc Kiều tiếp khách. Khung cảnh lầu Ngưng bích khiến người đọc phải xót xa: Bốn bề bát ngát xa trông Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia. Cụm tù Bát ngát xa trông đã gợi lên sự vô tận của không gian, của thiên nhiên. Đâu là bến bờ, đâu là điểm dừng chân hình như là không có. Một khung cảnh cô liêu, hoang lạnh đến rợn Tài liệu chia sẻ tại người. Thúy Kiều nhìn xa chỉ thấy những dãy núi, những cồn cát bay mù trời. Nàng chỉ biết

làm bạn với cảnh vật vô tri, vô giác, ảm đảm và quạnh quẽ đến thê lương. Chỉ một vài chi tiết nhưng Nguyên Du đã khắc họa thành công khung cảnh lầu Ngưng Bích đơn côi. Trong khung cảnh này, Thúy Kiều vẫn luôn nhung nhớ về chốn cũ, về người xưa. Nỗi nhớ ấy da diết và day dứt: Tưởng người dưới nguyệt chén đồng Tin sương luống những rày trông mai chờ Bên trời góc bể bơ vơ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai Dù trong hoàn cảnh éo le như thế này nhưng tấm lòng son của Thúy Kiều vẫn nhung nhớ tới một người khi tưởng lại những kỉ niệm êm đẹp từng có. Kiều xót xa kkhi nghĩ tới cảnh Kim Trọng còn mong chờ tin tức của nàng. Rồi nhìn lại mình, thấy nhơ nhuốc và hoen ố. Thúy Kiều đã không thể giữ trọn lời hứa với chàng Kim. Nàng nằng tấm son gột rửa bao giờ cho phai, những gì nang chịu đựng, những gì kẻ xấu làm với này biết bao giờ chàng Kim thấu, biết bao giờ có thể gột rửa đây? Một tiếng lòng đầy đau đớn và thê lương. Nghĩ về người yêu đã xót, Thúy Kiều còn xót xa hơn khi nghĩ về cha mẹ: Xót người tựa cửa hôm mai Quạt nồng ấm lạnh những ai đó chờ Sân Lai cách mấy nắng mưa Có khi ngồi gốc tứ đã vừa người ôm Thúy Kiều chua xót khi nghĩ cảnh cha mẹ đã già yếu, héo hon từng ngày. Nàng lo lắng không biết có ai chăm sóc cho cha mẹ hay không. Nàng ân hận và chua xót khi không được phụng dưỡng mẹ già. Một người con gái hiếu thảo, nhưng đành lặng lẽ nhớ và lặng lẽ chờ mong ngày đoàn tụ. Thúy Kiều một người con gái dù sống trong cảnh nhơ nhuộc nhưng chữ hiếu và chữ tình vẫn còn da diết trong trái tim của Kiều. Con người đã buồn thê lương, nhìn ra cảnh bật dường như càng thê lương hơn: Buồn trông của bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cảnh buồn xa xa Tài liệu chia sẻ tại Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu Những câu thơ chua xót, cứa vào lòng người người đọc nhiều đớn đau mà Kiều phải trải qua. Chiều hôm là thời gian mà nỗi buồn cứ thế ùa về, hiển hiện bao nhiêu thương nhớ nhưng đành câm lặng. Điệp từ Buồn trông như khắc khoải, như chờ mong và như nén lại trong lòng. Thúy Kiều ví mình như hoa trôi vô định, không có điểm dừng, không biết về đâu. Màu xanh xuất hiện ở cuối đoạn trích dường như càng khiến cho cảnh thêm tái tê hơn: Chân mây mặt đất một màu xanh xanh Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi Một bức tranh chỉ có màu buồn, buồn đến thê thảm và buồn đến não nề. Dường như người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Màu cỏ, màu mây, màu nước, đều là màu xanh xanh, nhưng không phải màu xanh tươi mới mà là màu xanh đến rợn người, mờ mịt và đầy tối tăm. Mỗi câu thơ, mỗi hình ảnh để khắc họa được tâm trạng đầy ngổn ngang giữa một khung cảnh ảm đạm, tái tê khiến người đọc không cầm được cảm xúc. Nguyễn Du với những nét vẽ tài tình đã vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp, một vẻ đẹp đến thê lương cuộc sống của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích. Cảm nhận của em về nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích Bài làm 2 Nguyễn Du là bậc thầy về tả cảnh. Nhiều câu thơ tả cảnh của ông có thể coi là chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển. Nhưng Nguyễn Du không chỉ giỏi về tả cảnh mà còn giỏi về tả tình cảm, tả tâm trạng. Trong quan niệm của ông, hai yếu tố tình và cảnh không tách rời nhau mà luôn đi liền nhau, bổ sung cho nhau. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã miêu tả tâm trạng nhân vật một cách xuất sắc. Đoạn thơ cho thấy nhiều cung bậc tâm trạng của Kiều. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, nhân hậu dành cho Kim Trọng và cha mẹ. Kết cấu của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích rất hợp lí. Phần đầu tác giả giới thiệu cảnh Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích; phần thứ hai: trong nỗi cô đơn buồn tủi, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; phần thứ ba: tâm trạng đau buồn của Kiều và những dự cảm về những bão tô cuộc đời sẽ giáng xuống đời Kiều. Thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu được miêu tả hoang vắng, bao la đến rợn ngợp. Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp Tài chạm liệu chia đầu, sẻ nhìn tại xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như bụi hồng nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này:

Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung Bốn bề bát ngát xa trông Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia Có thể hình dung rất rõ một không gian mênh mông đang trải rộng ra trước mắt Kiều. Không gian ấy càng khiến Kiều xót xa, đau đớn: Bẽ bàng mây sớm đèn khuya, Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Một chữ bẽ bàng mà lột tả thật sâu sắc tâm trạng của Kiều lúc bấy giờ: vừa chán ngán, buồn tủi cho thân phận mình, vừa xấu hổ, sượng sùng trước mây sớm, đèn khuya. Và cảnh vật như cũng chia sẻ, đồng cảm với nàng: nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Bức tranh thiên nhiên không khách quan, mà có hồn, đó chính là bức tranh tâm cảnh của Kiều những ngày cô đơn ở lầu Ngưng Bích. Trong tâm trạng cô đơn, buồn tủi nơi đất khách quê người, Kiều tìm về với những người thân của mình. Nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ được Nguvễn Du miêu tả rất xúc động trong những lời độc thoại nội tâm của nhân vật. Nỗi nhớ thương được chia đều: bốn câu đầu dành cho người yêu, bốn câu sau dành cho cha mẹ. Nhưng nỗi nhớ với chàng Kim được nói đến trước vì đây là nồi nhớ nồng nàn và sâu thẳm nhất. Nồi nhớ đó được xoáy sâu và đêm thề nguyền dưới ánh trăng và nỗi đau cũng trào lên từ đó: Tưởng người dưới nguyệt chén đồng. Tin sương luống những rày trông mai chờ. Bên trời góc bể bơ vơ, Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai. Lời thơ như chứa đựng nhịp thổn thức của một trái tim yêu đương đang chảy máu! Nỗi nhớ của Kiều thật tha thiết, mãnh liệt! Kiều tưởng tượng ra cảnh chàng Kim đang ngày đêm chờ mong tin mình một cách đau khổ và tuyệt vọng. Mới ngày nào nàng cùng với chàng Kim nặng lời ước hẹn trăm năm mà bỗng dưng, nay trở thành kẻ phụ bạc, lỗi hẹn với chàng. Chén rượu thề nguyền vẫn còn chưa ráo, vầng trăng vằng vặc giữa trời chứng giám lời thề nguyền vẫn còn kia, vậy mà bây giờ mỗi người mỗi ngả. Rồi bất chợt Kiều liên tưởng đên thân phận Bên trời góc bể bơ vơ của mình và tự dằn vặt: Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Kiều nuối tiếc mối tình đầu trong trắng của mình, nàng thấm thía tình cảnh cô đơn của mình, và cũng hơn ai Tài hết, liệu nàng chia sẻ hiểu tại rằng sẽ không bao giờ có thể gột rửa được tấm lòng son sắt, thủy chung của mình với chàng Kim. Và thực sự, bóng chàng Kim cũng sẽ không bao giờ phai nhạt trong tâm

trí Kiều trong suốt mười lăm năm lưu lạc. Nhớ người yêu, Kiều càng xót xa nghĩ đến cha mẹ. Mặc dầu nàng đã liều đem tấc có, quyết đền ba xuân, cứu được cha và em thoát khỏi vòng tù tội, nhưng nghĩ về cha mẹ, bao trùm trong nàng là một nỗi xót xa lo lắng. Kiều đau lòng khi nghĩ đến cảnh cha mẹ già tựa cửa trông con. Nàng lo lắng không biết khi thời tiết thay đổi ai là người chăm sóc cha mẹ. Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng thành ngữ, điển cố (tựa cửa hôm mai, quạt nồng ấp lạnh, gốc tử) để thể hiện tình cảm nhớ nhung sâu nặng cũng như những băn khoăn, trăn trở của Kiều khi nghĩ đến cha mẹ, nghĩ đến bổn phận làm con của mình. Trong hoàn cảnh của Kiều, những suy nghĩ, tâm trạng đó càng chứng tỏ Kiều là một người con rất mực hiếu thảo. Nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng rồi cuổì cùng nàng Kiều lại quay về với cảnh ngộ của mình, sống với tâm trạng và thân phận hiện tại của chính mình. Mỗi cảnh vật qua con mắt, cái nhìn của Kiều lại gợi lên trong tâm trí nàng một nét buồn. Và nàng Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nỗi buồn của mình. Nỗi buồn sâu sắc của Kiều được ngòi bút bậc thầy Nguyễn Du mỗi lúc càng tô đậm thêm bằng cách dùng điệp ngữ liên hoàn rất độc đáo trong tám câu thơ tả cảnh ngụ tình: Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ rầu rầu, Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Buồn trông gió cuốn mặt duềnh, Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Nguyễn Du quan niệm: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu... Mỗi cảnh vật hiện ra qua con mắt của Kiều ở lầu Ngưng Bích đều nhuốm nỗi buồn sâu sắc. Mỗi cặp câu gợi ra một nỗi buồn. Buồn trông là buồn mà nhìn ra xa, nhưng cũng là buồn mà trông ngóng một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại. Hình như Kiều mong cánh buồm, nhưng cánh buồm chỉ thấp thoáng,xa xa không rõ, như một ước vọng mơ hồ, mỗi lúc mỗi xa. Kiều lại trông ngọn nước mới từ cửa sông chảy ra biển, ngọn sóng xô đẩy cánh hoa phiêu bạt, không biết về đâu như thân phận của mình. Rồi màu xanh xanh bất tận của nội cỏ rầu rầu càng khiến cho nỗi buồn thêm mênh mang trong không gian; để rồi cuối cùng, nỗi buồn đó bỗng dội lên thành một nỗi kinh hoàng khi ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Đây là một hình ảnh vừa thực, vừa ảo, cảm thấy như sóng vỗ dưới chân, đầy hiểm họa, như muốn nhấn chìm Kiều xuống Tài vực. liệu chia sẻ tại

Tám câu thơ tuyệt bút với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn đầu mỗi câu lục và nghệ thuật ước lệ tượng trưng cùng với việc sử dụng nhiều từ láy tượng hình, tượng thanh (thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, ầm ầm) đã khắc họa rõ cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh thiên nhiên đồng thời cũng là một bức tranh tâm trạng có bố cục chặt chẽ và khéo léo. Thiên nhiên ở đây liên tục thay đổi theo diễn biến tâm trạng của con người. Mỗi nét tưởng tượng của Nguyễn Du đều phản ánh một mức độ khác nhau trong sự đau đớn của Kiều. Qua đó, cho thấy Nguyễn Du đã thực sự hiểu nỗi lòng nhân vật trong cảnh đời bất hạnh để ca ngợi tấm lòng cao đẹp của nhân vật, để giúp ta hiểu thêm tâm hồn của những người phụ nữ tài sắc mà bạc mệnh. Cảm nhận của em về nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích Bài làm 3 Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động từ nỗi buồn mênh mang vô tận đã lan toả, thấm đượm vào cảnh vật. Một mình Kiều sống trong cảnh cấm cung bơ vơ nơi quê người đất khách. Không gian vắng lặng, hoang sơ không một bóng người, chỉ có thiên nhiên làm bạn với Kiều: Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung Bốn bề bát ngát xa trông Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia. Ngày nàng ngắm núi xa, cảnh núi non xa mờ gợi lên nỗi buồn, niềm thương nhớ da diết với cha mẹ, người yêu. Đêm nàng ngắm vầng trăng và cảm thấy nó rất gần như ở chung với mình. Tuy chỉ là những câu thơ tả cảnh nhưng chúng ta cũng thấy hình ảnh Kiều cô đơn. Không gian thơ càng mở rộng bốn bề bát ngát thì hình ảnh Kiều càng trở nên bé nhỏ, côi cút bơ vơ. Nàng không có ai để cùng chia sẻ nỗi lo âu sợ hãi của người thiếu nữ lần đầu tiên xa nhà. Giữa nền thiên nhiên mênh mông rộng lớn, bát ngát ấy, một nỗi niềm choáng ngợp tâm hồn nàng là nỗi bẽ bàng. Đó là nỗi chán ngán cô đơn, chán cho cảnh ngộ của mình, thân phận mình xinh đẹp là thế, tài hoa là thế mà giờ đây chỉ còn biết làm bạn với mây buổi sớm, ngọn đèn đêm khuya: "Bẽ bàng mây sớm đèn khuya Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng." Cảnh ở đây gắn vào tình người, làm nên bức tranh tâm tình sinh động và bức tranh này được hình thành bằng tâm cảnh của Thuý Kiều, đó là bi kịch nội tâm. Một mình cô đơn lẻ bóng trước lầu Ngưng Bích, trong lòng Kiều trào lên nỗi nhớ những người Tài thân liệu chia yêu. sẻ Nàng tại hướng tình cảm của mình tới Kim Trọng. Trong kí ức của nàng kỉ niệm của đêm thề nguyện đính ước dưới trăng vẫn còn đang nóng hổi, tươi rói:

"Tưởng người dưới nguyệt chén đồng Tin sương luống những rày trông mai chờ." Giờ đây Kiều đang ngóng đợi hình bóng chàng Kim với nỗi sầu tư. Nguyễn Du đã miêu tả chính xác, qua từ "tưởng" đó là tưởng nhớ, tưởng tượng lại. Không những thế, sau tình cảm bồi hồi da diết nhớ đến Kim Trọng, trái tim Kiều lại thổn thức tình cảm của đứa con xa nhà nhớ về cha mẹ. Tự nguyện bán mình để lấy tiền chuộc cha, Kiều đã làm tròn chữ hiếu. Nhưng trong lòng người con gái hiếu thảo vẫn canh cánh một nỗi xót xa khi cha mẹ đã già mà không có mình bên cạnh để nâng giấc, chăm sóc. Nàng hình dung ra bóng dáng song thân đang mỏi lòng tựa cửa ngóng tin con và xót xa tự hồi giờ đây ai là người đang thay mình quạt nồng, ấp lạnh: "Xót người tựa cửa hôm mai Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ" Nhìn đâu Kiều củng thấy buồn, đúng như Nguyễn Du đúc kết: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ, Kiều dù đang bơ vơ nơi góc bể chân trời nhưng nàng không hề nghĩ tới mình, luôn lo lắng cho người khác. Dù trong cảnh ngộ nào Kiều cùng ngời sáng lên đức hi sinh tấm lòng vị tha, nhân hậu. Qua ngòi bút thiên tài của Nguyễn Du, nỗi buồn của Kiều càng được tô đậm thêm qua mỗi lần điệp từ buồn trông được cất lên là mở ra một bức tranh thiên nhiên và bức tranh tâm trạng. Không gian bao la bát ngát nơi cửa bể vào lúc chiều tà, bóng xế để gợi lên trong lòng người nỗi nhớ thương. Nhìn cánh buồm thấp thoáng xa xa, trong lòng Kiều trào lên nỗi khát khao cùng cánh buồm về quê hương. Rồi trông cánh hoa mỏng manh trôi dạt trên dòng nước cuốn, nàng nghĩ tới thân phận lênh đênh của mình. Hình ảnh nội cỏ rầu rầu giữa một không gian chân mây, mặt đất gợi trong lòng nàng nỗi lo lắng cho một tương lai mờ mịt: "Buồn trông cửa bề chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ rầu rầu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh" Âm thanh của tiếng sóng ầm ầm trong cảnh gió cuốn mặt duềnh là nỗi sợ hãi của Kiều trước bão tố cuộc đời đang chờ đón nàng phía trước. Nàng tưởng như mình đang ngồi giữa biển Tài khơi, liệu chia bốn sẻ bên tại sóng dữ gào thét, dội cả vào tâm hồn, vây bủa lấy nàng:

"Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi." Bức tranh thiên nhiên ấy cũng là bức tranh tâm cảnh trong tâm hồn Kiều đầy lo âu, thấp thỏm, bất an. Nguyễn Du quả là bậc thầy trong việc miêu tả nội tâm nhân vật và sử dụng các biện pháp tu từ rất độc đáo. Đó là một bức tranh tả cảnh ngụ tình thể hiện một đặc sắc trong bút pháp nhà thơ: cảnh và tình bao giờ cũng hoà quyện với nhau. Nhưng phải chăng đặc sắc nhất vẫn là tình của nhà thơ với nhân vật của mình, đối với con người và đối với cuộc đời, nói một cách khác, đó là giá trị nhân văn của đoạn trích, bắt nguồn từ tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du. Qua đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, hẳn người đọc sẽ có suy nghĩ về nhân vật Kiều, một cô gái chung thuỷ với người yêu, hiếu thảo với cha mẹ. Và ta càng căm giận xã hội bất công, tàn bạo đã đày đọa những con người tài hoa như nàng phải sa vào kiếp sống tủi nhục ở chốn lầu xanh. Cảm nhận của em về nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích Bài làm 4 Người ta cho rằng Truyện Kiều không phải là một cuốn tiểu thuyết tài tử giai nhân khuôn sáo như Kim Vân Kiều truyện, mà chính là một cuốn tiểu thuyết tâm lí vĩ đại của văn học Việt Nam. Thật vậy, với ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Du đã nhào nặn nên những thế giới tâm linh nhân vật cực kì sống động, đã chinh phục trái tim triệu triệu người đọc suốt gần 200 năm nay, Nói đến nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của Nguyễn Du, người ta tất sẽ nhớ ngay tới đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích. Đây là một trích đoạn thuộc vào hàng hay nhất trong Truyện Kiều, diễn tả tâm trạng của Kiều trong những tháng ngày ở lầu Ngưng Bích của mụ Tú Bà. Quãng thời gian Kiều ở lầu Ngưng Bích là khoảng tĩnh lặng giữa hai cơn giông tố của đời nàng. Nhưng trong tâm hồn nàng lại không tĩnh lặng, lúc nào lòng nàng cũng đang diễn ra bão tố dữ dội, ngổn ngang trăm mối tơ vò không sao nguôi ngoai được. Lầu Ngưng Bích - đúng như cái tên thơ mộng của nó - là một nơi phong cảnh tuyệt đẹp. Nếu nhìn bằng con mắt hội hoạ thì đây quả là một chốn thần tiên: Bốn bề thoáng đãng mênh mông, xa xa có núi non, có con đường đất đỏ uốn lượn, cồn cát vàng trải dưới nắng và màu xanh biếc đọng khắp nơi khi mùa xuân ngự trị. Nhất là những ngày nắng đẹp, những đêm trăng sáng thì phong cảnh càng thêm hữu tình. Thế nhưng cảnh đẹp với ai, chứ với Kều thì không. Bao cảnh đẹp của lầu Ngưng Bích đều vô nghĩa khi nó là chiếc lồng son khoá kín đời Kiều. Qua đôi mắt nặng trĩu tâm trạng buồn đau của Kiều, thiên nhiên cũng trở nên buồn thảm, đồng điệu với lòng nàng. Tài liệu chia sẻ tại Bằng cái nhìn hờ hững chán chường, Kiều chỉ thấy dáng núi xa như một vết mờ tít tắp. Cái

huyền diệu của đêm trăng chỉ làm nàng cảm thấy vũ trụ bao la quá mà mình sao nhỏ nhoi quá, để cho nỗi cô đơn lại tăng lên gấp bội: Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung. Đọc câu thơ này, tôi chạnh nhớ tới buổi hẹn hò của Kim - Kiều dưới trăng đêm nào: Góp lời phong nguyện, nặng nguyền non sông. Khi xưa hẹn núi thề sông, có vầng trăng làm chứng, Thế mà nay, non xa trăng gần, khoảng cách vời vợi khó mà hàn gắn được, cũng như lòng Kiều đang chia đôi vì bao nỗi đau thương. Ban đêm với trăng và núi đã buồn như vậy, ban ngày nàng cũng chẳng vui gì hơn. Những cát vàng cồn nọ, những bụi hồng dặm kia với những từ để trỏ nọ, kia gợi lên nỗi tê tái của sự sẻ chia rời rã bao trùm lên phong cảnh bốn bề bát ngát. Vũ trụ thì vô hạn, mà đời người thì hữu hạn. Trong mắt Kiều, vũ trụ chỉ toàn là bụi bặm dơ bẩn muốn nhuốm đen chút lòng trinh bạch của nàng. Bởi cảnh như thế nên tình càng bẽ bàng. Bẽ bàng là buồn, là chán, là thẹn, là nỗi buồn đè nặng hết ngày này qua ngày khác; để đến nỗi Kiều chỉ biết buồn với mây sớm những lúc tan giấc mơ, trở lại với hiện thực và khóc với đèn khuya trong những đêm dài không ngủ được, bởi vậy mà: Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng Nàng tự đối thoại với lòng mình trong cô đơn vì thương nhớ. Trước hết, nàng nhớ tới Kim Trọng: Tưởng người dưới nguyệt chén đồng Tin sương luống những rày trông mai chờ. Tại sao Nguyễn Du lại để Kiều nghĩ đến người yêu trước cha mẹ mặc dù nàng là người con chí hiếu, xem hiếu nặng hơn tình? Điều này có lẽ là vì: Công lao cha mẹ Kiều đã đền đáp một phần rồi, nhưng còn nợ tình với chàng Kim là nàng không bao giờ trả được nữa! Nhớ lại những lời đã từng thề thốt: Dẫu thay mái tóc, dám rời lòng tơ Đã nguyền hai chừ đồng tâm Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai Nàng lại càng đau đớn nghĩ đến Thề hoa chưa ráo chén vàng thì đã phải Lỗi thề thôi đã Tài phũ liệu phàng chia sẻ với tại hoa. Và nhất là đã phải phụ chàng để rồi thất thân với một gã con buôn đê tiện như Mã Giám Sinh thì sao khỏi xót xa, tủi hổ, sao không cảm thấy có lỗi nặng với người

mình yêu? Tưởng người dưới nguyệt chén đồng. Tưởng là mơ tưởng, là nhớ, là thương. Bao nhiêu nỗi xót xa gửi vào chữ tưởng ấy. Và bây giờ, sau khi đã lỗi thề với Kim Trọng, nàng chỉ còn dám nhớ tới Kim Trọng với một chữ người. Người chứ không phải là Kim lang, tình quân hay chàng. Bao thiên lí cách ngăn trong chữ người đó. Thương người yêu đã vậy, nàng lại thương mình: Bên trời góc bể bơ vơ, Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Với cha mẹ, mặc dầu đã bán mình chuộc cha, nàng vẫn chưa xem đó là đã làm tròn đạo con: Xót người tựa cửa hôm mai Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ. Sân Lai cách mấy năng mưa, Có khi gốc Tử đã vừa người ôm. Chính trong hoàn cảnh lưu lạc quê người của nàng ta mới thấy hết tấm lòng chí hiếu của người con gái ấy. Nàng biết sẽ còn bao cơn cát dập sóng vùi nhưng vẫn chỉ canh cánh lo cho cha mẹ thiếu người đỡ đần phụng dưỡng vì hai em còn sân hoè đôi chút thơ ngây". Bốn câu mà đóng tới bốn điển tích người tựa cửa, quạt nồng ấp lạnh, sân Lai, "gốc Tử", Nguyễn Du đã làm cho nỗi nhớ của Kiểu đậm phần trang trọng thiết tha và có chiều sâu nhưng cúng không kém phần chân thực. Tình đã là nửa mảnh lòng của Kiều, mà cảnh cũng là nửa mảnh lòng nữa. Nhìn vào đâu nàng cũng thấy nỗi buồn phủ dâng. Giữa cái mênh mông của biển trời hoàng hôn, nàng chỉ còn đủ sức để thấy một cánh buồm lẻ loi: Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Như một con người bất hạnh đạt vào cô đảo, nàng cứ mỏi mòn chờ một con thuyền đến cứu vớt, mà thuyền chỉ thấp thoáng xa xa trên biển rồi mất hút ở đường chân trời chứ không bao giờ cập bến. Thà rằng không nhìn thấy gì còn hơn loé lên tia hi vọng rồi vụt tắt, thì sự dày vò của nỗi thất vọng thật khủng khiếp. Càng chờ càng lún sâu vào tuyệt vọng, lòng Kiều cứ dần dần chán chường nhàu nát theo ước mơ lụi tàn. Đổ rồi nàng chợt rùng mình: Buồn trông ngọn nước mới sa, Tài liệu chia sẻ tại Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Dòng đời như dòng nước cuốn xiết mà thân con gái như "hoa đã lìa cành" bị va đập vào bao con sóng cho đến tả tơi, rồi theo nước trôi đi vô định. Tim người đọc như nhói lên trước câu hỏi đau đáu của Kiều biết là về đâu. Nước mênh mang buồn, cỏ cây cũng dầu dầu thảm: Buồn trông nội cỏ rầu rầu, Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. vẫn sắc xanh một màu trải tới chân trời nhưng bất động, ủ rũ chứ không rợn lốn như sóng chạy toả đến tận chân trời trong tiết thanh minh nữa. Giữa cảnh chết lặng của trời đất thì vẫn có một âm thanh gầm gào quanh đây. Nhưng đó tiếng của sóng ngoài kia hay tiếng gầm gào của nỗi sự dâng lên trong lòng nàng: Con sóng gầm của định mệnh lại sắp ập xuống thân phận lạc loài, mà cuộc đời là một cung gió thảm mưa sầu". Tám câu thơ chia làm bốn cặp, mỗi cặp diễn tả một nỗi buồn khác nhau, lặp đi lặp lại một kiểu cấu trúc cảnh - tình song song, với điệp ngữ buồn trông đằng đẵng như tiếng thở dài, cùng nhịp thơ chậm, gợi buồn rười rượi bởi thanh bằng chiếm ưu thế. Nghệ thuật của đoạn thơ đã thực sự đóng một vai trò quan trọng góp phần làm nổi bật lên bức tranh tâm trạng của Kiều. Quả như Nguyễn Du đã viết: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?. Hiện thực khách quan luôn uốn lượn theo tình điệu, cảm xúc chú quan của con người, đồng điệu với tình người, nên qua đôi mắt tâm hồn tan nát của Kiều, cảnh vật tươi đẹp ở lầu Ngưng Bích nhuộm đẫm màu thảm sầu và không khí u uất. Ngược lại với cái tên Ngưng Bích (xanh biếc), đọc xong đoạn thợ, tôi chỉ thấy toàn một màu xám đen phủ khắp chân mây mặt biển trước lầu. Đào Nguyên Phổ từng khen Truyện Kiều: Nói tình thì vẽ được hình trạng hợp, li, cam, khổ, mà tình không rời cảnh. Tả cảnh thi bày hết thi vị tuyết, nguyệt, phong, hoa mà cảnh tự vướng tình, mực muốn múa mà bút muốn bay, quả nhiên không sai. Kiều ở lầu Ngưng Bích là một đoạn trích mượn cảnh ngụ tình hay vào bậc nhất của Truyện Kiều cũng như của văn học trung đại Việt Nam, chứng tỏ được "Tay tiên gió táp mưa sa" của cụ Nguyễn Tiên Điền. Truyện Kiều có tới hơn 3000 câu, mà Kiều ở lầu Ngưng Bích chỉ có 22 câu - chiếm một phần rất nhỏ trong tác phẩm lừng danh ấy. Nhưng đằng sau 22 câu thơ ít ỏi đó không chỉ có một tài năng lớn mà trước hết là một trái tim lớn của nhà thơ dành cho nhân vật; cho con người và cuộc đời. Chính trái tim ấy đã hoà tan máu mình cho 3254 câu Kiều để rồi khiến người cười, khiến người khóc, khiến người vui, khiến người buồn, khiến người giở đi giở lại ngàn lần, càng đọc thuộc lại càng không biết chán (Đào Nguyễn Phổ - tựa Loạn trường tân thanh). Và để mãi mãi người đọc còn khóc thương cho tấm lòng trinh bạch và tâm sự đau đớn của nàng Kiều. Tài liệu Cảm chia nhận sẻ tại của em về nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích Bài làm 5

Sau khi bán mình chuộc cha và em, Thúy Kiều đã bị tên bán tớ mua nguyệt Mã Giám Sinh câu kết với Tú Bà đẩy Thuý Kiều vào lầu xanh. Kiều bị cấm cung ở lầu Ngưng Bích nhưng thực chất đó là một sự giam lỏng. Sau lưng nàng là biết bao song gió, đoạn trường. Tại lầu Ngưng Bích, Kiều nhớ người yêu, nhớ mẹ cha và xót xa cho bản thân mình. Cảnh lầu Ngưng Bích hiện ra trước mắt Thúy Kiều với sự mênh mông, trơ trọi: Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung Bốn bề bát ngát xa trông Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia. Không gian rộng lớn non xa trăng gần bát ngát ấy có sự cô đơn, lẻ loi của con người. Từ xa trông biểu lộ rất rõ tâm trạng thẫn thờ, đón đợi từ cảnh vật thiên nhiên, mong muốn phá tan sự đơn độc của con người với cảnh vật, nhưng càng đón đợi, ngóng trông, cảnh vật càng trở nên vắng lặng. Trăng gần vì sáng nhưng ánh trăng nhỏ quá, núi rộng và to nhưng xa vì trong đêm trăng non mờ quá. Cả cát vàng cồn nọ cũng xa con người. Thúy Kiều trở nên cô đơn trước không gian vũ trụ bao la ấy. Và cảm nhận Khóa xuân là cảm nhận rất thực tế. Kiều thấy mình như không còn tuổi trẻ, đoạn tuyệt với tuổi trẻ khi đã rơi vào chốn lầu xanh. Cảnh mở đầu bát ngát, mênh mông, làm con người cô đơn trong cảnh ấy, cũng là cảnh mở ra những tâm trạng của nàng Kiều: Bẽ bàng mây sớm đèn khuya Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng Từ láy bẽ bàng cho thấy sự hổ thẹn của Kiều, nàng đang tự vấn bản thân, nỗi chán nản hòa với buồn tủi đang tràn ngập trong tâm trạng Kiều. Cảnh rộng lơn, tình cô đơn, con người không có nơi neo đậu. Kim Trọng là người Thúy Kiều nhớ đến đầu tiên trong cảnh ấy: Tưởng người dưới nguyệt chén đồng Tin sương luống những dày trông mai chờ Chân trời góc bể bơ vơ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Tài liệu Lời thơ chia là sẻ lời tại thổn thức của một trái tim từng tha thiết mặn nồng với tình yêu đầu nhưng dường như thổn thức lắm. Nàng nhớ lại cảnh thề nguyền cùng Kim Trọng, lại tưởng tượng ra

cảnh Kim Trọng đang mòn mỏi, ngóng trông tin tức của nàng một cách vô vọng. Bởi vậy nàng xót xa, thấu hiểu tấm lòng chàng Kim nhưng lại thấm thía cảnh bơ vơ, trơ trọi của mình. Nàng hiểu rõ tấm lòng son sắt, thuỷ chung của mình với Kim Trọng nhưng nàng cũng hiểu rõ sự trong trắng sẽ không bao giờ gột rửa được. Những câu thơ lảy lên nỗi nhớ nhung tha thiết, đồng cảm và tự trách bản thân của Kiều. Sau nỗi nhớ người yêu nàng nhớ cha mẹ: Xót người tựa cửa hôm mai Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ? Sân Lai cách mấy nắng mưa Có khi gốc tử đã vừa người ôm. Vì thương nhớ cha mẹ nên hình ảnh cha mẹ sớm hôm tựa cửa đón đợi người con hiếu thảo cứ lẩn quất quanh Kiều, nàng xót xa vì điều đó, càng xót xa hơn khi nghĩ cha mẹ đã già yếu có khi gốc tử đã vừa người ôm giờ đây ai sẽ là người thay mình chăm sóc cha mẹ Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ. Đoạn thơ có sử dụng điển tích, điển cố, cùng câu hỏi tu từ cho thấy rõ nỗi nhớ cha mẹ tha thiết trong xót xa không kém nỗi nhớ người yêu. Đó là nỗi nhớ của người con hiếu thuận với cha mẹ. Kiều nhớ tới chàng Kim trước sau đó nhớ đến cha mẹ. Đó cũng là sự cảm thông hết sức lạ lùng của đại thi hào Nguyễn Du. Tác giả là người hiểu sâu sắc nhất những tâm trạng mà Thúy Kiều đang trải qua. Người con gái có trái tim yêu thương mặn nồng ấy từng cậy em, em có chịu lời, từng mong muốn sự đáp đền tình cảm riêng tư của mình với người yêu nhờ vào sự giúp đỡ của em gái thì khi đã lỗi với lời hẹn ước trước kia, trái tim nàng mới đớn đau tột độ. Tâm trạng phụ bạc lấn án nàng cả mười lăm năm lưu lạc. Bởi vậy nhớ người yêu trước là nỗi nhớ được cất lên từ chính sự thấu hiểu của đại thi hào có con mắt thấu suốt ngàn đời. Nhớ người yêu, nhớ cha mẹ nhưng cuối cùng nàng vẫn quay lại với cảnh ngộ của mình. Sống với tâm trạng và hoàn cảnh hiện tại. Tám câu thơ cuối là bức tranh cảnh vật được khắc họa thông qua điệp từ buồn trông. Mỗi cảnh vật qua con mắt, cái nhìn của Kiều đều mang theo những tâm trạng, sự khắc khoải riêng. Nàng mỗi lúc lại chìm sâu trong nỗi buồn của mình. Điệp từ buồn trông vang lên dồn dập đẩy nàng Kiều vào tâm thế của con người cô đơn đến bơ vơ, bất định: Buồn trông của bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa Ầm ầm tiếng song kêu quanh ghế ngồi Tài liệu chia sẻ tại Những câu thơ miêu tả tâm trạng bất ổn, buồn chán,,lo lắng thoát ra từ thiên nhiên ấy được

kết thúc bằng tiếng ầm ầm của sóng như báo trước cơn tai biến sẽ đổ sập xuống đầu Kiều. Với quan niệm thẩm mĩ truyền thống, lấy cảnh vật làm nền cho con người, Nguyễn Du mở đầu đoạn trích bằng không gian rộng lớn nhưng cô đơn. Kết thúc bằng nỗi cô đơn vô vọng đã đẩy lên cao độ trong không gian của sự vắng lặng không một bóng người. Tất cả đẩy Kiều đến nhưng lối rẽ không rõ ràng của vận mệnh. Cảm nhận của em về nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích Bài làm 6 ruyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là tác phẩm thơ Nôm tiêu biểu của nền văn học trung đại Việt Nam. Trong truyện Kiều Nguyễn Du không chỉ thành công trong việc xây dựng nhân vật mà còn đặc biệt thành công trong việc sử dụng bút pháp Tả cảnh ngụ tình, tức là lấy cảnh vật để nói lên tâm trạng của con người. Đoạn trích được coi là thành công và thể hiện rõ nhất được bút pháp này chính là Kiều ở lầu Ngưng Bích Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt, tủi nhục và phẫn uất, Thúy Kiều đã dùng dao tự vẫn,tú Bà sợ mất vốn mất lãi nên đã hết sức thuốc thang rồi đưa Thúy Kiều vào ở trong lầu Ngưng Bích, đợi thời cơ thực hiện mưu ma chước quỷ, buộc Thúy Kiều phải làm theo ý mình. Mở đầu, Nguyễn Du đã vẽ ra khung cảnh không gian và thời gian ở lầu Ngưng Bích.Không gian càng rộng lớn, tịch mịch thì càng làm nổi bật nên tâm trạng cô đơn và cảnh ngộ bi kịch của nàng Kiều. Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung Bốn bề bát ngát xa trông Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia Hai chữ khóa xuân đã bộc lộ được rõ nét tình cảnh hiện tại đáng thương của Thúy Kiều khi bị giam hãm, cầm tù ở lầu Ngưng Bích.Quá khứ là gia biến, hiện tại là mất tự do, lại thân gái dặm trường nơi đất khách. Đóchính là cảnh ngộ đầy bi kịch của nàng Kiều trong những ngày bị giam ở lầu Ngưng Bích. Nguyễn Du đã đặt nhân vật của mình trong hoàn cảnh ấy để bộc lộ tâm trạng,nhưng tác giả chủ yếu thể hiện tâm trạng qua ngoại cảnh. Không gian thật là mênh mông với vẻ non xa tấm, bốn bề bát ngát, cát vàng cồn nọ, gợi lên không gian mênh mông mà rợn ngợp.từ lầu cao trông ra chỉ thấy những dãy núi xa mờ xa, bụi cây, cồn cát. Lầu Ngưng Bích như mây trời giữa trăng núi, gợi ra cái tịch mịch, lạc long, bơ vơ giữa đất trời rộng lớn.trăng non xa với trăng gần không phải khoảng cách được đo bằng chiều dài vật lí mà là khoảng cách trong tâm tưởng của nàng Kiều.Cảnh có thể là thực đấy nhưng cũng có thể chỉ là tượng trưng, ước lệ gợi không gian bao la, bát ngát.theo Tài khung liệu chia tranh sẻ tại mỗi lúc càng thêm lới rộng không giới hạn, không đường viền. Bức tranh có đường nét mền mại của non cao, có sắc vàng ánh hồng tươi tắn của trăng thanh, của bụi cát

nhưng vắng bóng con người,vắng âm thanh của sự sống. Cảnh lầu Ngưng Bích vì thế mà trở nên trống trải, hoang vắng và lạnh lẽo. Từ cảnh vật lạnh lẽo, không gian rộng lớn mênh mông vô cùng,vô tận, Thúy Kiều lại ý thức sâu sắc về cảnh ngộ bi kịch của bản thân. Bẽ bàng mây sớm đèn khuya Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng Chỉ một câu bẽ bàng thôi,nguyễn Du đã khắc họa thành công tâm trạng hoang mang đến tột độ, niềm chua sót về cuộc đời, số phận của mình.cụm từ mây sớm đèn khuya gợi ra không gian tuần hoàn khép kín, cũng gợi ra nỗi đau không có điểm dừng,cũng không có điểm kết thúc. Ở đây, tình cảnh của con người đã đã hòa nhập làm một với cái khung cảnh u buồn, trống vắng của cảnh vật. Hay nói cách khác, khi tâm trạng người ta buồn thì cảnh vật dù sống động,vui tươi đến đâu thì cũng bị nhúng một màu tâm trạng, đúng như Nguyễn Du đã từng viết: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ Trong tám câu thơ tiếp theo,kiều không còn sống với thế giới cô đơn của mình nữa mà lại chín dần vào không gian,thời gian của tâm trạng,của kí ức với hình bong của những người thân yêu. Cảnh tả mờ đi để nỗi nhớ thương cồn lên da diết. Trước hết đó là nỗi thương nhớ hướng về chàng Kim. Tưởng người dưới nguyệt chén đồng Tin sương luống những rày trông mai chờ Bên trời góc bể bơ vơ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai Nỗi nhớ Kim Trọng được Nguyễn Du giới thiệu bằng từ tưởng thật tinh tế và ý nhị. người dưới nguyệt chén đồng là hoán dụ chỉ chàng Kim, đồng thời gắn với kỉ niệm đêm trăng hẹn thể của hai người. Bằng cách diễn đạt này ta không chỉ thấy nỗi nhớ kín đáo của Kiều dành cho chàng Kim mà còn thấy tiếc nuối, xót xa cho những kỉ niệm tình yêu đẹp đẽ cùng lời hẹn ước trăm năm. Nàng Kiều đã tưởng tượng nơi xa xôi nào đó Kim Trọng cũng đang hướng về mình,đêm ngày đau đáu chờ tin mà uổng công vô ích. Sau đó Kiều phải đối diện với chính mình, đó chính là nỗi mặc cảm về bản thân và tình trạng đơn độc, bơ vơ nơi đất khách quê người. Tài liệu chia sẻ tại Xót người tựa cửa hôm mai

Powered by TCPDF (www.tcpdf.org) Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ Nghĩ về cha mẹ, nàng xót xa thương cảm vì cha mẹ hôm mai tựa cửa ngóng tin con mà mình lại một mình nơi đất khách. Sự xa cách về không gian, trói buộc về thân phận đã không thể cho Kiều quạt nồng ấp lạnh gần gũi, phụng dưỡng bậc sinh thành. Miêu tả nỗi nhớ về chàng Kim trước nỗi nhớ về cha mẹ, Nguyễn Du đã thể hiện được một cái nhìn đồng cảm sâu sắc với tâm trạng của nàng Kiều. Sở dĩ Kiều hướng nỗi nhớ về Kim Trọng trước vì cảm thấy có lỗi khi phụ tấm lòng, phá bỏ đi lời thề nguyền với chàng Kim; còn cha mẹ nàng dù không thể ở bên chăm sóc nhưng cũng đã kịp báo hiếu phần nào và niềm tin khi có Vân và em trai chăm sóc cho cha mẹ. Tám câu thơ cuối bài thể hiện tâm trạng buồn đau của Thúy Kiều ở nhiều cung bậc thông qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình.đoạn thơ gồm bốn cặp thơ lục bát, mỗi cặp câu làm hiện lên bức tranh cảnh vật, mỗi bức tranh cảnh vật đồng thời là một ẩn dụ về cảnh ngộ và tâm trạng nàng Kiều. Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu Buồn trông ngọn cỏ dầu dầu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh Buồn trông được điệp đi điệp lại ở đầu bốn câu thơ làm nhấn mạnh nỗi nhớ ngày càng dâng lên tha thiết trong lòng Kiều. Cũng gợi liên tưởng về thân phận bọt bèo, trôi nổi giữa dòng đời như hoa trôi Bốn câu thơ cuối lại như dự báo về một tương lai đầy đau khổ, sóng gió bủa vây lấy cuộc đời của Kiều Buồn trông song cuốn mặt duềnh Ầm ầm tiếng song kêu quanh ghế ngồi Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm trạng của nàng Kiều thật sinh động và chân thực. Qua đó ta cảm nhận được cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều. Tài liệu chia sẻ tại