Các Nguồn Giấy Thải Các nguồn giấy thải có thể được phân nhóm tùy thuộc vào nó có nguồn gốc trước hay sau khi tiêu thụ: -Giấy thải trước tiêu thụ (pre-consumer waste) đến từ các nhà máy chế biến giấy, và cần thiết là phải chưa được in hay chưa bị nhiễm bẩn. Ví dụ: rìa giấy sau khi xén. -Giấy thải đã qua sử dụng (post-consumer waste) có được chủ yếu từ việc sản xuất và các nguồn trong thành phố (manicipal) - các nguồn trong thành phố này đôi khi còn được gọi là urban forest (rừng trong thành phố). Trong đó: ONP chủ yếu cung cấp ở Bắc Mỹ, được ước tính bởi Andover International (dùng số liệu 1996) là 14,1 triệu tấn (short ton), trong đó 2,1 triệu tấn là các phần thêm vào (phụ trương) và các tờ bướm quảng cáo (chủ yếu là các loại giấy từ bột cơ có hay không có phủ tráng) bị thải cùng với chúng. Trong số tổng lượng giấy hiện có lúc đó, có 7 triệu tấn được thu hồi (tỉ lệ thu hồi là 50%) với 2,8 triệu tấn được dùng để sản xuất giấy, 1,7 triệu tấn cho sản xuất bìa, 1,7 triệu tấn để xuất khẩu và 0,9 triệu tấn cho các công dụng khác. Moore ước tính các nguồn cung cấp ONP, cho các nhà máy giấy in báo tiêu biểu ở Bắc Mỹ, như sau: (%) (%) Người chuyên chở rác thải rắn 30 Industrial generators 5 Người đóng gói độc lập 25 Người môi giới độc lập 5 Người gói hàng/lái buôn 20 Siêu thị 0 Chính quyền địa phương 15 Người buôn bán lẻ 0 Siêu thị, các cửa hàng bách hóa và các cửa hiệu lớn khác cung cấp nhiều OCC. Với OCC ở Mỹ, Andover International ước tính trong năm 1995 có sự suy giảm nguồn giấy thải từ việc tiêu thụ 27,9 triệu tấn (short ton) nguyên liệu lớp sóng (carton sóng) trong năm 1995 và tỉ lệ thu hồi có thể đạt đến tối ưu như sau: Nguồn giấy thải Tỉ lệ trong tổng số OCC cung cấp (%) Tỉ lệ thu hồi năm 1995 (%) Tỉ lệ thu hồi tối đa có thể đạt được (%) Trước tiêu thụ (từ các máy biến đổi) 8 93 95 Sản xuất 28 73 75 Mua bán lẻ - lớn 36 81 83 Mua bán lẻ - nhỏ 15 70 77 Trong nhà 13 5 25
Tổng cộng 100 70 74 Các nguồn mua bán lớn như từ các phố thương mại lớn trong vùng, và các nguồn mua bán nhỏ như ở nhà hàng bán thức ăn nhanh. Việc thu gom trong dân cư là do chương trình thu gom của thành phố. Các con số ước tính tiếp theo của Andover là 29,6 triệu tấn (short ton) (tỉ lệ thu hồi 73%) cho việc tiêu thụ OCC trong năm 1996, và sau khi trải qua biến động ở Châu A, ước tính con số này là 33 triệu tấn (tỉ lệ thu hồi 74%) vào năm 2000. Văn phòng và các cơ quan là nguồn chính của giấy thải văn phòng (OWP), trong đó có thể là giấy văn phòng hỗn hợp chưa phân loại (MOW, office mixed paper, OMP) hay đã phân loại (SOP: sorted office paper). Các nguồn này trước đây vẫn chưa được thu gom mãi cho đến những năm 1990. Nó đòi hỏi tổ chức tốt để có thể phân riêng giấy và các thành phần tạp chất khác (ví dụ: các ảnh có nhựa, giấy carbon) và cắt nhỏ các tài liệu mật. Ví dụ: Ơ Bắc Mỹ, 20 triệu tấn MOW được sản xuất trong năm 1996, theo Mead Pulp Sales. Trong số này có 52% từ văn phòng, trường học và các cơ quan công cộng khác và là nguồn thu thập khoảng 3 triệu tấn/năm. 48% khác là từ các hộ gia đình. Khi đến người gói hàng (packer), giấy MOW có ít hơn phân nửa CPO (giấy in vi tính) và sổ sách trắng. Khi được đưa đi, hai loại giấy này được tính là 86%, cộng với 4-5% mỗi loại giấy có màu, giấy cơ (mechanical paper), và giấy có phủ tráng. OWP được định nghĩa bởi Andover International là giấy in và giấy viết đã qua tiêu thụ (postconsumer) được thu gom bởi người chuyên chở, và do đó không bao gồm vật liệu có khả năng thu hồi bởi hệ thống thu gom của thành phố. Tiêu thụ p&w của US theo ước tính của Andover trong năm 2000 (32 tấn (short ton)), khoảng 40% có khả năng là nguyên liệu OWP, 42% sẽ được đưa ra từ các hộ gia đình, 15% sẽ được thu hồi là loại giấy trước tiêu thụ (preconsumer), chỉ khoảng 65% là có thể thu hồi, trong đó, chỉ 67% (tức là 5,4 triệu tấn (short ton)) là thích hợp để làm nguyên liệu chất lượng cao (cho tẩy mực). Ơ Châu Au, vương quốc Anh tạo ra khoảng 1,12 triệu tấn giấy thải văn phòng trong năm 1996, trong đó chỉ khoảng 22% được thu hồi. Chỉ ở Đức tạo ra nhiều giấy loại văn phòng hơn, nhưng thu hồi chỉ 42%. Các nước Benelux thu hồi khoảng 40% giấy thải văn phòng. Các toà nhà văn phòng lớn nhất (khoảng 5000 m 2 ) tập trung khoảng 25-50 tấn giấy thải/năm. Ngược lại, các văn phòng nhỏ trung bình hay các khu mua bán (100 m 2 200 m 2 ) tập trung ít hơn 1 tấn/năm giấy thải; họ đại diện trên 65% tất cả các văn phòng, và có thể cho các vùng khác. Trong khoảng 15% số này là không thể bù đắp lại được. Năm 1999, ước tính tiêu thụ giấy văn phòng trung bình trong 20 triệu văn phòng ở Châu Au là 75-85% kg/nhân viên. Ơ vương quốc Anh, Mercury Communication có các khay thu gom treecycler cho nhân viên, và các thùng rác đựng giấy thu hồi (reclying bins) cho từng phòng ban. Loại giấy văn phòng hỗn hợp này được thu gom, phân loại, tẩy mực, tẩy Oxypro, và làm thành giấy copy và giấy in laser ở Alloa. Một trong số các giấy này lại được mua bởi Mercury. Họ dự
định thu gom 50% giấy văn phòng của họ, bao gồm các phong bì và tạp chí. UK tiêu thụ 1,3 triệu tấn giấy văn phòng/năm, hầu hết số đó được đổ vào bãi rác. Ơ London, nhóm BioRegional Devilopment Group đang tổ chức thu gom giấy thải trắng từ văn phòng - tổ chức này sau đó mua lại giấy tái sinh trong các nhà máy xung quanh đã dùng giấy thải đó. Tiết kiệm chi phí cho các văn phòng một phần là do giấy quyên góp (ví dụ: từ WWF và khoảng tiền thuế cho bãi rác), và một phần từ các vật liệu được trưng bày, cung cấp bởi BioRegional. Một kế hoạch tổ chức tương tự sẽ thực hiện cho Scotland trong năm 2000. Các hộ gia đình. Giấy chiếm khoảng 30% rác thải từ gia đình, đứng hàng thứ hai sau các vật liệu hữa cơ từ rác nhà bếp (nếu nó không được chế thành phân trộn một cách riêng lẻ). Theo truyền thống, giấy thải từ gia đình là nguồn giấy thải hỗn hợp. Ngày nay, nó đang được xem như là giấy hỗn hợp từ dân cư, nó có thể thay thế cho giấy OCC chất lượng trung bình. Nó chứa 48% MOW được sản xuất từ Bắc Mỹ, và đang bắt đầu được thu thập như vậy. Các hệ thống hiện có để phân riêng các thành phần của rác thải trong thành phố như vậy (garbage, trash) thành một số loại, nhưng không phải là phân lọai tất cả: Bột RCF (xơ sợi cellulose thu hồi), kim loại (sắt và các thành phần không phải sắt), thủy tinh vụn, plastics có thể thu hồi, thức ăn cho súc vật, các thành phần có thể làm phân bón, và phân đoạn (nhiên liệu thải loại, RDF) để tổng hợp năng lượng (đốt) đôi khi sau khi thành than bánh hay làm thành viên tròn. Hệ thống ướt giống một phần với sự phân rã trong bể tạo bột và sàng trong giai đoạn chuẩn bị bột, nhưng các hệ thống phân loại khô cũng tồn tại (ví dụ phân loại bằng khí). Nhà Máy Thu Gom Giấy Của Các Nhà Buôn Giấy Thải Loại Các nhà buôn giấy thải loại điều khiển các nhà máy, nằm trong hay gần vùng ngoại ô, ở đó phân loại, đóng bành và lưu trữ các loại giấy thải. Hệ thống có thể bao gồm, tuỳ thuộc vào loại giấy và nguồn giấy: Sàng, bằng trống quay, với các mặt được đục lỗ (trommel), để làm sạch hay phân loại. Phân riêng kim loại. Việc phân riêng sắt qua một bộ phân phân riêng có từ tính đặt bên trên đầu, có thể tự làm sạch. Việc phân riêng các thành phần không phải là sắt (như nhôm) có thể bởi một bộ phận phân riêng bằng cách tạo dòng xoáy, ở đó một dòng điện cảm ứng sinh ra do sự chuyển động của các kim loại. Phân loại, được thực hiện bằng tay, các người phân loại kéo riêng từng loại giấy thải khỏi băng tải cho vào các thùng chứa (đôi khi cho qua các băng tải khác). Các thùng chứa này có thể là push-through, live-bottom (có thể đẩy qua, hay có đáy mở được),
hay có các cửa kiểm soát để kiểm soát tốt hơn trong quá trình đóng bành. Tạp chất có thể cũng được loại ra trong suốt quá trình phân loại. Đôi khi việc phân loại thực hiện ở nhà máy giấy. Cắt nhỏ các tài liệu mật (như giấy in vi tính), hay chỉ đơn giản để tối ưu hóa mật độ đóng bành giấy. Ví dụ:(roxon). Ví dụ: (Machinex) Các máy ép bành. Ví dụ: T-Rex, Balemaster,... Các thiết bị tự động ở nhà máy để giúp cho hệ thống thu gom sẽ bao gồm: Các xe tải nhỏ, đôi khi có hệ thống cân và telemetry (để truyền số liệu, ví dụ: bằng sóng vô tuyến). Xe tải có cần nâng với các thùng đựng có thể tháo rời. Nhiều siêu thị lớn và các cửa hàng tạp hóa có cả hệ thống đóng bành. Các tính chất của bành giấy rất đa dạng, tuỳ thuộc chủ yếu vào sự khác nhau của thiết bị đóng bành, vật liệu buộc bành và giấy thải. Những người buôn giấy thải thường có thể cung cấp các bành lớn nhất và nặng nhất. Các giá trị tìm thấy ở Mỹ cho 3 loại giấy thải là: Kích thước (ft) [dài x rộng x cao] Giấy báo Giấy văn phòng đã phân loại (SOP) OCC 5.5 x 3.5 x 2.5-8 x 3.5 x 2.7 1.5 x 2 x 5-3.5 x 4 x 5 6 x 5 x 4-8 x 6 x 6 Khối lượng (lb*) 1,400-2,000 800-2,000 800-2,200 Trọng lượng riêng(lb/ft 3 ) 16-30 25-60 6-10 * 1 lb = 450g 1 foot = 0, 3048 m Giấy Loại Có Thể Được Tái Chế Bao Nhiêu Lần? Mỗi lần giấy được tái chế, một số xơ sợi dài (bột hóa) bị ngắn đi, và một cách tổng quát chúng mất đi tính mềm dẻo và khả năng liên kết do sự bị chai cứng dần đi (hornification). Bảng chỉ ra phần trăm giấy loại, trải qua quá nhiều lần tái chế, dễ dàng leo thang khi tỉ lệ thu hồi nội địa tăng lên từ mức độ khiêm tốn là 30% đến 50%. Thành phần giấy đi qua qúa trình tái chế 2, 3, 4 lần tăng lên 3,2; 4,6; 7,9 lần một cách tuần tự. Các tỉ lệ thu hồi đối với một loại giấy nào đó vượt quá 80% trong một số khu vực, và đi kèm với số lần tái chế cao một cách đáng kể. Các giá trị tương ứng (đối với mức 30%) sau đó sẽ là 7,1; 19,0; 51,3 lần một cách tuần tự.
(%) Số lần đi vào một chu trình tái chế WP Tỉ lệ thu hồi Đi qua 1 lần 2 lần 3 lần 4 lần 30 30.0 9.0 2.7 0.8 50 50.0 25.0 12.5 6.3 80 80.0 64.0 51.2 41.0 Bột nguyên thủy được thêm vào để giữ được độ bền cho giấy, cần cho hiệu quả chạy máy ở các tốc độ cao, cả trên máy xeo và trong quá trình chế biến giấy (ví dụ in ấn), cũng như trong quá trình sử dụng sau cùng. Tùy thuộc vào việc thêm vào đó và các xơ sợi nhỏ nhất bị thất thoát từ hệ thống làm giấy, không có giới hạn thực tế nào cho việc tái chế giấy WP ngoại trừ chi phí. Độ bền không chỉ được quan tâm, và các tính chất (như độ trắng) cũng giảm đi mỗi lần giấy được tái chế. Do đó giấy thải có khuynh hướng giảm cấp dần xuống các loại giấy có chất lượng thấp hơn sau khi được tái chế. Tuy nhiên, việc phân đoạn xơ sợi và thành công trong việc tẩy trắng OCC đã cho kết quả đối với một số giấy thải được nâng cấp. (ABPC)