Đức Huỳnh Giáo Chủ về rồi Bàn tay lật ngửa vậy mà, Chớ đừng lật sấp vì Thầy tái sanh. Đi xa thì phải dặn rành (Đức Huỳnh Giáo Chủ viết ở làng Nhơn Nghĩa {Xà No}, ngày rằm tháng 6 năm Canh Thìn 1940) Trong cảnh Hạ Nguơn dầu sổi lửa bỏng, giặc giã khói lửa mịt mù, Bồ Tát giáng trần không có thì giờ nhàn rỗi ngồi uống trà run đùi ngâm thơ vịnh nguyệt. Mỗi hành động, mỗi lời nói của Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ đều khế hợp với thiên cơ đạo lý. Ngày 14-6- Canh Thìn (1940) tại làng Nhơn Nghĩa, Đức Thầy có làm thơ vịnh Hằng Nga dụng ý gởi một thông điệp quan trọng cho đệ tử hậu lai biết rằng Đức Thầy mượn xác tái sanh thời cuối Hạ Nguơn như sau: Thơ xướng. Khen ai cắc cớ bấm trời tây, Từ cõi Niết Bàn Phật Tỉnh giấc HẰNG NGA khéo vẽ mày;**hằng Nga là mặt Trăng = Xác Nữ = Xác Cô Một phiến linh đinh trôi mặt biển, Tại sao Cô mà lại xưng Cậu? Nửa vừng lửng đửng dán trên mây. và tại sao xưng Cậu mà lại là Cô? Cá ngờ câu thả tơi bời lội, Người đạo thấy xác Nữ sợ đạo tà, Chim tưởng cung trương sập sận bay; Nên một nên hai còn bé tuổi, Mười lăm mười bảy bốn phương hay. Thơ họa. Mây hồng năm sắc ở phương Tây, Từ cõi Niết Bàn Phật Sáng suốt Ô KIM bởi vẹn mày;** Ô Kim = mặt Trời = Hồn Nam = Đức Cậu Miệng nhỏ tiếng to vang bốn biển, * Trổi giọng đờn kêu ngâm nga ca kệ Lưỡi mềm lời lớn dậy rồng mây. truyền rao trầm bổng giọng Lôtô Lòng trong Thánh Kệ tình bơi lội, **Trò đừng sợ, chính Thầy trở về Dạ sạch Phật Kinh ý luyện bay; Dầu cho thân Mỗ thanh xuân tuổi, Thức giấc đời mê phải được hay. vội vã bỏ Thầy ứng khẩu thuyết chánh pháp Kinh Phật Mở đầu bài thơ xướng bằng câu: Khen ai cắc cớ bấm trời tây, một chữ là một nhiệm mầu! Cụm từ cắc cớ có nghĩa là không thường, lạ đời, dị kỳ, dị sự. Nhưng thật đó chính là dị pháp, diệu pháp huyền cơ. Chữ khen là điều tốt lành, ý nói điềm lành đến từ cõi Tây phương Cực Lạc {bấm trời Tây}. Chữ bấm nghĩa là bấm quẻ coi điềm lành cắc cớ đó là gì. Câu thứ nhì giải đáp rõ: Tỉnh giấc Hằng Nga khéo vẽ mày, cụm từ Tỉnh giấc Hằng Nga, nghĩa là sau một thời gian vắng bóng, nay Đức Thầy tái thế mượn xác nữ {Cô = Hằng Nga}; cụm từ Tỉnh giấc ám chỉ sự tái sanh tái thế. Cụm từ cắc cớ có cái lý đặc biệt là Đức Thầy tái thế thay vì như xưa nhiều lần mượn xác Nam, thì nay cắc cớ mượn xác Nữ, khiến phần đông bổn đạo không thể
nào ngờ, không dè, mượn xác Cô mà tại sao xưng Cậu? {Kim Ô mà nói đảo ngược là Ô Kim}. Vì vậy họ lo sợ Ngài là tà ma và xa lánh, ví như cá sợ mắc lưỡi câu và chim sợ cung tên bắn. Cá ngờ câu thả tơi bời lội, Chim tưởng cung trương sập sận bay. Những chữ cá chim là những từ ám chỉ người trong bổn đạo. Vì nghịch cảnh, tà ma lộng hành, cắc cớ Đức Thầy về phải mượn xác nữ nhằm tạo điều kiện tiếp cận người đạo, nhưng lại khiến người đạo vô cùng bàng hoàng lo sợ, không những họ tránh xa Ngài, mà họ còn chê bai, khinh bỉ nhún trề Chỉ có những ai đại căn duyên mới hiểu được chuyện cắc cớ này! Đây là cơ sàng lọc tuyển chọn: Chấp tướng chấp danh là rớt! Bài thơ họa cũng cho biết từ Tây phương Đức Thầy tái thế, khẳng định hồn linh Ngài là Ô Kim nói lái đảo ngược từ chữ Kim Ô nghĩa là Mặt Trời {Đức Cậu}. Ngài tái thế mượn xác NGƯỜI THIỆN NỮ học hành chưa thông, ứng khẩu thuyết Phật pháp thiên cơ đạo lý thao thao bất tuyệt, ai muốn theo Ngài học đạo phải dùng tai nghe: Miệng nhỏ tiếng to vang bốn biển, Lưỡi mềm lời lớn dậy rồng mây. Lòng trong Thánh kệ tình bơi lội, Dạ sạch Phật kinh ý luyện bay Câu sấm: Sáng suốt Ô Kim bởi vẹn mày, tại sao không viết đúng là Kim Ô mà lại cố ý viết đảo ngược lại là Ô Kim? Đức Thầy dụng ý là: Vì hoàn cảnh Hạ nguơn mạt pháp tà ma lộng hành, tùy cơ ứng biến Thầy về mượn xác Nữ {Cô} mà phải xưng là Cậu (Đức Cậu) để nhắc cho đệ tử nhớ rằng Thầy trở về, Cô Cậu, Cậu Cô; Ô Kim, Kim Ô. Phải chăng đây là trường hợp dị thường như Ông Ba Nguyễn văn Thới tiên tri: Ai biết nước xuôi nuôi nước ngược, Bịnh căn vô dược được thọ trường. Dị thế dị thường tường dị lộ, Phật Trời cứu độ ngộ Phật Trời. Dị cư dị thời lời dị thuyết, Dị đoan dị tiếc kiết dị minh. Dị sự dị ninh linh dị pháp, Vô nhơn đối đáp pháp thinh không. Đức Thầy Đức Ông công ĐỨC CẬU, * Hội Đồng cơ hậu đậu trào Minh. Phép phép linh linh ninh quốc sự, Nhơn dân vô lự tự an khương. An quốc an Vương khương thới nhạc, Di Đà Di Lạc đạt Vi Vô. (Kim Cổ Kỳ Quan, Cáo Thị 83: 85, Ông Ba Nguyễn văn Thới viết năm 1915)
Ông Ba Thới tiên tri gần ngày Tận Thế và Hội Long Hoa, sẽ có một đấng Bồ Tát xưng ĐỨC CẬU giáng trần với hành trạng nhiều đặc điểm: dị thế, dị thường, dị lộ, dị thuyết, dị pháp, dị cư, dị thời, dị sự, và hành đạo tưởng như dị đoan tà giáo, nhưng mà có phép mầu dị linh khiến người dân được an khương thời Di Lạc Phật Vương sắp tới. Thánh địa Di Lạc ở miền Nam VN. Dị thế là Bồ Tát ra đời thuyết pháp nhằm thời ma chướng hoành hành; Dị thường là Bồ Tát có hành trạng kỳ lạ, ví như mượn xác Nữ mà xưng là Đức Cậu; Dị thuyết là thuyết pháp khác thường, khi ngâm nga ca hát, khi rao đờn, khi rao giọng lôtô; Dị pháp là pháp khác thường, kỳ lạ tưởng chừng như dị đoan nhưng có phép linh nhiệm mầu khó nghĩ bàn; Dị cư là Bồ Tát thuyết pháp mà mang hành trạng Cư Sĩ tại gia xưng khùng điên, không xuất gia ở chùa; Dị sự là Bồ Tát làm những chuyện kỳ cục khó hiểu, hư hư thực thực Tất cả những điều dị kỳ đó của Đức Cậu kết hợp thành pháp linh rất mầu nhiệm. Dị sự dị ninh linh dị pháp, Vô nhơn đối đáp pháp thinh không. Đức Thầy Đức Ông công ĐỨC CẬU, * Hội Đồng cơ hậu đậu trào Minh. Phép phép linh linh ninh quốc sự, Nhơn dân vô lự tự an khương Ý gì TIÊN TRƯỞNG muốn khuyên đời, * Mà đời lầm lạc lắm đời ôi! Đạo đức nhuốc nhơ mà sao đặng, Tỉnh giấc mau mau mới kịp thời! (Lộ Chút Cơ Huyền, Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1939) Say ngọc Bồ Đề đức hạnh cao, Say dân ngu muội tưởng điên nào. Say chừng nó biết TA TIÊN TRƯỞNG, * Say chén quỳnh tương chốn núi cao. (Say, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1939) dè dè Đêm dài dặn cạn dầu tiêm lụn, Chẳng thấy ai tìm kiếm Bóng TRĂNG. Để làm cho mích bụng CHỊ HẰNG, Nơi CUNG NGUYỆT chờ trông mõn dạ. (Diệu Pháp Quang Minh, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1940) Cuối Hạ Nguơn, Đức Thầy giáng trần mượn xác tái sanh với dáng Người Thiện Nữ Cư Sĩ ra đời truyền pháp, nhưng chẳng thấy ai tìm để học đạo, khiến Thầy buồn.
Thầy TIÊN môn đệ tục, Đạo chánh tín đồ tà; Cha hiền sanh con dữ, Tức bụng chị HẰNG NGA. Tiên Trưởng HẰNG NGA bóng vẫn sáng, Mặc dù nhiều mây áng; Khi ngọn gió thổi qua, Ánh TRĂNG huờn tỏ rạng. Tỏ rạng là ánh TRĂNG, Mây không thể cản ngăn; Cản ngăn chỉ phí sức, Không thắng nổi CHỊ HẰNG. CHỊ HẰNG soi thế gian, Cho kẻ tối thấy đàng; Không vì câu danh lợi, Vạn cổ vẫn minh quang. Minh quang tánh của TRĂNG, Như minh quang đạo HẰNG; Khoảng thế gian càng tối, Ánh quang minh càng tăng. (Lá Thơ Đông Kinh Q. 1, tr.132, Bồ Tát Thanh Sĩ viết ở Tokyo ngày 10-6-1964) Niên như điển, nguyệt như thoi, Vần xây thế giới luân hồi chẳng chơi. Có NGƯỜI THIỆN NỮ truyền lời, Nhứt vân thiên lộ máy trời thinh thinh. Non đoài giữ dạ tín thành, Thầy cho CƯ SĨ học hành chưa thông. Anh em ai có phục tòng, Theo TÔI học đạo phải dùng tai nghe. (Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An tr. 103 & 109, lưu ở đình Tòng Sơn năm 1849, Nguyễn văn Hầu biên khảo ấn tống năm 1973) Đức Thầy tái thế mượn xác NGƯỜI THIỆN NỮ CƯ SĨ học hành chưa thông, dốt viết không rành văn tự, dụng thần thông ứng khẩu thuyết pháp thiên cơ đạo lý thao thao bất tuyệt, ai muốn theo Ngài học đạo phải dùng tai nghe. Thời đại văn minh có phương tiện máy ghi âm cassette, băng đĩa Khi Bồ Tát thuyết, bạn đạo dùng máy ghi âm đăng lên trang mạng quảng bá rộng rãi cho bá tánh nghe.
Phụ lục: Ngọc kia ẩn dạng khó tầm Người chấp tướng không thể nhìn ra hành trạng Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ trở về. Vì họ nghĩ rằng Thầy trở về với tướng nam oai phong ngồi trên chín bệ cao sang, chớ đâu ngờ Thầy hóa thân Bồ Tát khổ nhục làm thân lươn chui dưới bùn sình để độ chúng sanh như bài Thầy Dặn Dò Bổn Đạo viết năm 1940: TA Đây dường thể như lươn, Cứu dân chẳng nệ nắng sương lấm đầu. Vì nghịch cảnh, tà ma lộng hành, tùy cơ ứng biến, Thầy thay hình đổi dạng hóa ra xác nữ dốt để dễ tiếp cận người đạo. Trong sấm giảng Thầy dặn rằng: Ra đi dặn lại ít lời, Khuyên trong bổn đạo vậy thời ráng nghe. Dầu ai tài phép bày khoe, Ham linh ham nghiệm sợ e mang nghèo. Lựa cho phải cột phải kèo, Phải vai phải vế mà theo kẻo lầm. Ngọc kia ẩn dạng khó tầm, * Chọn nơi chơn chánh khỏi lâm khổ hình. (Dặn Dò Bổn Đạo, Đức Thầy viết ở Hòa Hảo tháng 2 Canh Thìn 1940, chép theo bản chánh do ông Nguyễn Chí Diệp giữ, Giáo Hội PGHH ấn hành năm 1965) Câu Ngọc kia ẩn dạng khó tầm, ám chỉ Thầy trở về để ra đề thi phá chấp tướng. Thầy trở về ẩn tướng, mượn xác nữ dốt, viết không rành văn tự. Ví như viên ngọc quý ẩn trong tảng đá thô sơ, chỉ có người thợ ngọc tài giỏi mới có thể biết được viên ngọc quý ẩn trong đá. Thầy trở về ẩn trong tướng nữ dốt thuyết pháp, chỉ có người đạo nào thuần thành mới có thể nghe và hiểu được lời vi diệu của Thầy, ví như chỉ có người tri âm như Tử Kỳ mới có thể nghe và thấu hiểu được tiếng đờn Bá Nha trên bến Hàm Dương. Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh tự thuật : Mượn xác giả ngụy trang cứu đạo, Mượn Nữ Nhân được dạo Ta bà. Nếu không, bị đắm hải hà, Làm sao tồn tại dựng nhà Phật Vương (Quay Về Nguồn Cội tr. 250, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh thuyết, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 1997) Đời Chiến Quốc có người ở nước Sở họ Biện tên Hòa, lên núi Kim Sơn lấy được viên ngọc phác {tức là ngọc còn ẩn trong đá} đem về dâng lên vua Lệ Vương. Vua bảo thợ ngọc xem, thợ xem rồi tâu đó chỉ là đá. Vua khép tội khi quân, chặt chân bên trái của Biện Hòa. Đến đời Võ Vương, Hòa lại đem ngọc phác ấy dâng lên vua lần nữa. Vua Võ Vương cũng bảo thợ ngọc coi, và cũng lại khép Biện Hòa về tội dối gạt vua, và bị chặt nốt chân bên phải. Đến đời Sở Văn Vương, Hòa lại muốn đem ngọc phác dâng lên vua, nhưng vì 2 chân đều đã bị chặt cụt, không thể nào đi được, đành phải ôm ngọc mà khóc ròng rã 3 ngày đêm đến nỗi mắt chảy ra máu! Có người hỏi, thì Biện Hòa đáp không phải vì muốn được vua thưởng mà đem dâng ngọc, nhưng quá đau khổ vì ngọc mà bảo là đá, ngay mà bị khép tội là gian đó thôi! Vua Sở Văn Vương nghe chuyện, bảo thợ ngọc phá viên đá ra xem, thì trong đá có viên ngọc rất quý, ngọc tốt không tì vết. Chừng đó nỗi oan của Biện Hòa mới được giải tỏa. Sydney, 31-7-2019, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo * (Facebook Mõ Tre) https://kinhsamthatson.wordpress.com/