Bồ Tát Phật giáng trần bằng hai thân, một là Chơn Thân {Kim Thân}, hai là Giả Thân {Xác Trần}. Để hoàn thành sứ mạng cứu thế, Bồ Tát phải giáng trần nhiều lần và tùy cơ ứng biến mượn rất nhiều Giả Thân {Xác Trần}, khi xác già, khi xác trẻ, khi xác nam, khi xác nữ, khi xác học lảu thông chữ nghĩa, khi xác dốt không đọc được chữ Chỉ có Chơn Thân {Kim Thân} Bồ Tát là không thay đổi, chỉ có Chơn Thân là đi sao về vậy, không thay đổi; còn Giả Thân {Xác Trần} thì luôn thay đổi tùy cơ mà thiên biến vạn hóa. Ví như trường hợp Đức Huỳnh Giáo Chủ báo trước rằng Ngài ra đi và trở về {tái sanh] với những bài sấm thi như sau: Thơ xướng. {Giả Thân} Khen ai cắc cớ bấm trời tây, Tỉnh giấc HẰNG NGA khéo vẽ mày; Một phiến linh đinh trôi mặt biển, Nửa vừng lửng đửng dán trên mây. Cá ngờ câu thả tơi bời lội, Chim tưởng cung trương sập sận bay; Nên một nên hai còn bé tuổi, Mười lăm mười bảy bốn phương hay. Thơ họa. {Chơn Thân} Mây hồng năm sắc ở phương Tây, Sáng suốt Ô KIM bởi vẹn mày; Miệng nhỏ tiếng to vang bốn biển, Lưỡi mềm lời lớn dậy rồng mây. Lòng trong Thánh Kệ tình bơi lội, Dạ sạch Phật Kinh ý luyện bay; Dầu cho thân Mỗ thanh xuân tuổi, Thức giấc đời mê phải được hay. Bài sấm báo rằng tùy cơ ứng biến nên Giả Thân của Đức Thầy kỳ này thình lình {cắc cớ} thay đổi phải mượn xác Nữ {Hằng Nga}; và Chơn Thân của Đức Thầy không thay đổi, đi sao về vậy, vẫn là Ô Kim {Kim Ô = mặt Trời} tức là Hồn Nam, nghĩa là Hồn Nam đi mượn Xác Nữ. Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh cho biết lý do vì sao Hồn Nam phải mượn Xác Nữ: Mượn xác giả ngụy trang cứu đạo, Mượn Nữ Nhân được dạo Ta bà. Nếu không, bị đắm hải hà, Làm sao tồn tại dựng nhà Phật Vương (Quay Về Nguồn Cội tr. 250, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh thuyết, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 1997) Bao lần trước giáng trần, Đức Thầy đều mượn xác Nam, chỉ có lần này thình lình cắc cớ Ngài mượn xác Nữ {Hằng Nga}, nên bổn đạo khó mà nhận ra hành trạng tái thế của Ngài. Chính vì vậy mà ngoài 2 bài sấm thi vừa nêu trên, còn có nhiều bài sấm giảng nữa ra đời để minh họa hành trạng tái thế của Ngài như sau: Biến dời cuộc thế thình lình,* Thiện tồn ác thất thiên đình số phân. Vần xây thế giái phàm trần, cắc cớ
Sự mình không biết mưu thâm ở người. Hư nên nhờ phận Phật Trời, Non băng đất lỡ giữa vời linh đinh. Phải làm như bổn nhựt trình, Trẻ già xin nhớ giữ gìn mà coi. Niên như điển, nguyệt như thoi, Vần xây thế giới luân hồi chẳng chơi. Có Người Thiện Nữ truyền lời, Nhứt vân thiên lộ máy trời thinh thinh. Non đoài giữ dạ tín thành, Thầy cho CƯ SĨ học hành chưa thông. Anh em ai có phục tòng, Theo TÔI học đạo phải dùng tai nghe. (Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An tr. 103 & 109, lưu ở đình Tòng Sơn năm 1849, Nguyễn văn Hầu biên khảo ấn tống năm 1973) Đức Thầy tái thế mượn xác Người Thiện Nữ học hành chưa thông, dốt viết không rành văn tự, dụng thần thông ứng khẩu thuyết pháp thiên cơ đạo lý thao thao bất tuyệt, ai muốn theo Ngài học đạo phải dùng tai nghe. Thời đại văn minh có phương tiện máy ghi âm cassette, băng đĩa Khi Bồ Tát thuyết, bạn đạo dùng máy ghi âm đăng lên trang mạng quảng bá rộng rãi cho bá tánh nghe. Ai biết nước xuôi nuôi nước ngược, Bịnh căn vô dược được thọ trường. Dị thế dị thường tường dị lộ, Phật Trời cứu độ ngộ Phật Trời. Dị cư dị thời lời dị thuyết, Dị đoan dị tiếc kiết dị minh. Dị sự dị ninh linh dị pháp, Vô nhơn đối đáp pháp thinh không. Đức Thầy Đức Ông công ĐỨC CẬU, * Hội Đồng cơ hậu đậu trào Minh. Phép phép linh linh ninh quốc sự, Nhơn dân vô lự tự an khương. An quốc an Vương khương thới nhạc, Di Đà Di Lạc đạt Vi Vô. (Kim Cổ Kỳ Quan, Cáo Thị 83: 85, Ông Ba Nguyễn văn Thới viết năm 1915) Ông Ba Thới tiên tri gần ngày Tận Thế và Hội Long Hoa, sẽ có một đấng Bồ Tát xưng ĐỨC CẬU giáng trần với hành trạng nhiều đặc điểm: dị thế, dị thường, dị lộ, dị thuyết, dị pháp, dị cư, dị thời, dị sự, và hành đạo tưởng như dị đoan tà giáo, nhưng mà có phép mầu dị linh khiến người dân được an khương thời Di Lạc Phật Vương sắp tới. Thánh địa Di Lạc ở miền Nam VN.
Dị thế là Bồ Tát ra đời thuyết pháp nhằm thời ma chướng hoành hành; Dị thường là Bồ Tát có hành trạng kỳ lạ, ví như mượn xác Nữ mà xưng là Đức Cậu; Dị thuyết là thuyết pháp khác thường, khi ngâm nga ca hát, khi rao đờn, khi rao giọng lôtô; Dị pháp là pháp khác thường, kỳ lạ tưởng chừng như dị đoan nhưng có phép linh nhiệm mầu khó nghĩ bàn; Dị cư là Bồ Tát thuyết pháp mà mang hành trạng Cư Sĩ tại gia xưng khùng điên, không xuất gia ở chùa; Dị sự là Bồ Tát làm những chuyện kỳ cục khó hiểu, hư hư thực thực Tất cả những điều dị kỳ đó của Đức Cậu kết hợp thành pháp linh rất mầu nhiệm. Dị sự dị ninh linh dị pháp, Vô nhơn đối đáp pháp thinh không. Đức Thầy Đức Ông công ĐỨC CẬU, * Hội Đồng cơ hậu đậu trào Minh. Phép phép linh linh ninh quốc sự, Nhơn dân vô lự tự an khương *************************************** Ý gì TIÊN TRƯỞNG muốn khuyên đời, * Mà đời lầm lạc lắm đời ôi! Đạo đức nhuốc nhơ mà sao đặng, Tỉnh giấc mau mau mới kịp thời! (Lộ Chút Cơ Huyền, Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1939) Say ngọc Bồ Đề đức hạnh cao, Say dân ngu muội tưởng điên nào. Say chừng nó biết TA TIÊN TRƯỞNG, * Say chén quỳnh tương chốn núi cao. (Say, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1939) dè dè Đêm dài dặn cạn dầu tiêm lụn, Chẳng thấy ai tìm kiếm Bóng TRĂNG. Để làm cho mích bụng CHỊ HẰNG, Nơi CUNG NGUYỆT chờ trông mõn dạ. (Diệu Pháp Quang Minh, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1940) Cuối Hạ Nguơn, Đức Thầy giáng trần mượn xác tái sanh với dáng Người Thiện Nữ Cư Sĩ ra đời truyền pháp, nhưng chẳng thấy ai tìm để học đạo, khiến Thầy buồn. *** Thầy TIÊN môn đệ tục, Tiên Trưởng Đạo chánh tín đồ tà; Cha hiền sanh con dữ, Tức bụng chị HẰNG NGA. HẰNG NGA bóng vẫn sáng, Mặc dù nhiều mây áng; Khi ngọn gió thổi qua, Ánh TRĂNG huờn tỏ rạng.
Tỏ rạng là ánh TRĂNG, Mây không thể cản ngăn; Cản ngăn chỉ phí sức, Không thắng nổi CHỊ HẰNG. CHỊ HẰNG soi thế gian, Cho kẻ tối thấy đàng; Không vì câu danh lợi, Vạn cổ vẫn minh quang. Minh quang tánh của TRĂNG, Như minh quang đạo HẰNG; Khoảng thế gian càng tối, Ánh quang minh càng tăng. (Lá Thơ Đông Kinh Q. 1, tr.132, Bồ Tát Thanh Sĩ viết ở Tokyo ngày 10-6-1964) *** Để minh họa cho sự cố đi sao về vậy, có hai bài thơ xướng họa sau đây chứng minh: Cậu Ba Thanh Vân hỏi. Đôi lời kính cẩn dám thưa qua, Mở lượng từ bi chỉ rõ mà. Thân thế hàng nào trong Phật quả? Hiệu danh đẳng cấp chốn Tiên gia? Ba mươi sáu tướng tài tài lắm! Một vị quân sư giỏi giỏi đa! Những bậc trên đây như có Một? * Thương tôi dại dột tỏ bày ra. Bồ Tát Thanh Sĩ họa đáp. Người gần Thanh Sĩ mấy năm qua, Chẳng biết là Ai? mới lạ mà! Muốn biết tinh tường nơi vị quả, Nhìn vào hạnh nguyện hiểu nhơn gia. Bao nhiêu xét cũng chưa nhiều lắm, Gọi nửa duyên trần ấy thậm đa! Ớ hỡi! Người Kia muôn vẫn Một,* Cần chi gạn hỏi mới tìm ra! (Sấm Giảng Đạo Khùng tr. 174, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 2002) Câu sấm Bồ Tát Thanh Sĩ họa Ớ hỡi Người kia muôn vẫn Một, nghĩa là dù cho Ngài mượn xác trần muôn lần, dù muôn lần xác trần khác nhau, nhưng hồn linh Chơn Thân của Ngài vẫn chỉ có một mà thôi, nghĩa là Chơn Thân đi sao về vậy, không đổi khác, chỉ có Giả Thân {xác trần} là khác. Phần đông người trong bổn đạo mắc căn bịnh chấp danh chấp tướng, nên qua cuộc sàng lọc còn lại rất ít con đạo. Đức Huỳnh Giáo Chủ xướng họa thơ Hằng Nga ở làng Nhơn- Nghĩa ngày 14 tháng 6 dl. 1940 (Canh-Thìn) như sau: Thơ xướng Ớ ớ Hằng-Nga dám hỏi đon, Cớ sao khi khuyết lại khi tròn? Ba mươi mồng một đi đâu vắng? Nay về hỏi đặng mấy thằng con? Thơ họa: Cõi thế nhìn TA gọi tiếng đon, Phàm nhơn chẳng rõ nói eo tròn? Hoàn-cầu luân chuyển nên mờ mắt, Tháng cuối rồi qua cũng một con.* Sydney, 3-8-2019, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo * (Facebook Mõ Tre) https://kinhsamthatson.wordpress.com/
Từ hải ngoại Kỳ Vân kính gởi, Thăm Đức Thầy diệu vợi quê nhà. Cắc cớ mượn xác Hằng Nga, Thầy thử bổn đạo vậy mà ngẩn ngơ. Ai chấp tướng chắc thời khổ dữ, Thấy tướng Thầy xác Nữ mà khinh. Sau này biết được giựt mình, Ăn năn e muộn chấp hình lỡ nguy. Phật thần thông huyền vi ai biết, Phật mượn thân khắc nghiệt phàm phu. dè dè Hạ phàm cho chúng thấy tu, Ngờ đâu chúng chấp tướng tù nữ nam. Tướng Thầy mượn tướng phàm giả tạm, Tướng ngục tù ngục khám như ai. Nếu Thầy mượn tướng Nam tài, Chắc gì ma quỷ để Thầy được yên? Thầy phải mượn Khùng Điên xác Nữ, * Thân xin ăn dốt chữ bần hàn. Giả dại nói bướng nói càn, Giả mê giả tỉnh xóm làng rêu rao. Người đại trí thuộc làu Khùng Khiệu, Không chấp danh chấp hiệu nghèo hèn. Không chấp Nam Nữ chê khen, Không chấp thân giả Khùng Điên của Thầy. Miễn biết được Thân Này Thầy mượn, Xuống thế trần liệu lượng dạy trò. Tới đây Tận Thế gay go, Thầy về mượn xác đưa đò Hạ nguơn. Mượn xác Thiện Nữ nhơn quê dốt, Mượn xác trần đặng cốt dạy khuyên. Ai người hữu phước hữu duyên, Biết được Khùng Khiệu từ miền Tiên Bang. Từ hải ngoại đôi hàng nhắn gởi, Thăm Đức Thầy diệu vợi nhớ mong. Nhớ lời Thầy dặn đạo đồng, Đừng nên chểnh mảng lập công chớ chầy. Cổng Hoa Hội từ đây mở cửa, Mượn xác giả ngụy trang cứu đạo, Mượn Nữ Nhân được dạo Ta bà. Nếu không, bị đắm hải hà, Làm sao tồn tại dựng nhà Phật Vương. (Quay Về Nguồn Cội tr. 250, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh thuyết, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 1997) Ngày 14-6- Canh Thìn (1940) tại làng Nhơn Nghĩa, Đức Thầy có làm thơ vịnh Hằng Nga dụng ý gởi một thông điệp quan trọng cho đệ tử hậu lai biết rằng Thầy sẽ mượn xác tái sanh thời cuối Hạ Nguơn như sau:
Cảnh trần gian khói lửa đã kề. Toàn cầu biến chuyển thảm thê, Ai về dự Hội ai về Diêm Vương. Thầy nhắc nhở tình thương sinh chúng, Nhưng phần nhiều tồi túng mê cuồng. Ai người chung thủy tu luôn, Thì là mới thấy được tuồng Long Hoa. Ai khờ dại thiết tha vật giả, Sẽ rớt rơi sa ngã ngục tù. Diêm Vương chôn nhốt muôn thu, Oan hồn sa đọa âm u Diêm đường. Từ hải ngoại xa phương kính cẩn, Trò thăm Thầy tu ẩn rừng hoang. Long Hoa Trời Phật mở màn, Chúc Thầy Sơn Bửu khảy đàn độ dân. BỬU ngọc Nam bang pháp Phật Thầy, SƠN hà xã tắc hội Rồng Mây. KỲ Quan Kim Cổ lời Thầy thuyết, HƯƠNG trầm bay tỏa khắp đông tây. Sydney, 13-7-2019, Kỳ Vân Cư Sĩ cảm tác Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh xuất thân là Người Thiện Nữ Cư Sĩ dốt viết không rành văn tự, ra đời thuyết pháp bằng cách ứng khẩu thành thơ phú kinh kệ sấm truyền. Bạn đạo dùng máy ghi âm quảng bá cho mọi người trong nước và hải ngoại nghe. Cảm kính công đức của Đức Cậu Bần Sĩ, Kỳ Vân Cư Sĩ có đôi dòng thơ minh họa hành trạng của Ngài như sau: Bần thuyết người về dự Long Hoa, Sĩ hiền dốt chữ xuống Ta Bà. Vô biên nói sấm đời nguơn hạ, Danh truyền pháp Phật cứu bá gia. Chờ Thiên Địa châu nhi phục thỉ, Như đời xưa có gã Tử-Phòng. Xem thời cơ người đã rõ thông, Dùng tôi thiểu mà an bá-tánh. (Giác Mê Tâm Kệ, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1939) Phụ lục: Gánh Hát Bình Dương Đờn kêu khổ sở bi ai, Đói đau chi xiết dạn dày hay không? Đờn kêu biển hải mênh mông, Đờn kêu hãy ráng lập công bồi đường. Đờn kêu vạn quốc thê lương, Tới đây rồi Thái Bình Dương diệu vời. Sống đi coi hát người ơi, Đủ đào đủ kép vậy thời đỏ đen. BÌNH DƯƠNG sóng động nhiều phen, Ráng xem Gánh Hát trúc kèn vang vang. Đờn kêu nước Việt an bang, Nghe đây Khùng Khiệu trổi vang tiếng đờn. (Quay Về Nguồn Cội tr. 268, kết tập băng Lộ Huyền Cơ 4 do Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết thập niên 80, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 1997) Sydney, 13-7-2019, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo (facebook Mõ Tre) * https://kinhsamthatson.wordpress.com/