Chương 7 TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ Tài nguyên với mỗi quốc gia cũng là nguồn lực quan trọng trong phát triển kinh tế. Vấn đề đặt ra là: Làm thế nào để sử dụng nguồn lực này tốt nhất, hiệu quả nhất và bảo đảm cho sự phát triển bền vững? Chương này không chỉ xem xét đặc điểm tầm quan trọng của tài nguyên mà còn chú ý tới các tiêu chuẩn và chính sách sử dụng bền vững nguồn lực này. 7.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN Nguồn tài nguyên thiên nhiên là những sản phẩm của tự nhiên mà còn người có thể khai thác và chế biến để tạo ra sản phẩm vật chất. Nguồn tài nguyên thiên nhiên có một số đặc điểm chủ yếu sau: (1) Sự phân bố nguồn tài nguyên thiên nhiên (TNTN) không đồng đều giữa các vùng khác nhau trên trái đất tạo nên sự ưu đãi về tự nhiên cho từng vùng lãnh thổ khác nhau. Chẳng hạn như Nga, Mỹ và các nước Trung Đông có những mỏ dầu lớn nhất thế giới hoặc ở lưu vực sông Amazon là những khu rừng nguyên thuỷ rất lớn được coi là lá phổi của thế giới và là nguồn tài nguyên vô giá. (2) Đa số tài nguyên thiên nhiên có giá trị kinh tế cao hiện nay đều hình thành trải qua một quá trình lâu dài. Những khu rừng nhiệt đới đang phát triển trên thế giới cần khoảng thời gian từ 50 100 năm để cho cây trưởng thành. Có được dầu mỏ và khí đốt ở các mỏ dầu cần khoảng 10 100 triệu năm cho các quá trình biến đổi về địa lý.
182 Giáo trình Kinh tế Phát triển (3) Quy mô của nguồn tài nguyên thiên nhiên được xác định qua trữ lượng thăm dò và trữ lượng khai thác. Tuy nhiên, phần đóng góp của tài nguyên thiên nhiên vào tổng sản lượng quốc gia được xác định qua khả năng khai thác hàng năm và được tích luỹ vào vốn sản xuất chỉ khi tài nguyên đó được khai thác. Chẳng hạn, nguồn than ở Việt Nam có trữ lượng thăm dò là 3,6 tỷ tấn và trữ lượng khai thác là 2 tỷ tấn. Tuy nhiên khả năng khai thác hàng năm từ 5 đến 6 triệu tấn. (4) Quá trình sinh trưởng phát triển của tài nguyên thiên nhiên gần với môi trường tự nhiên, chúng tạo nên sự cân bằng trong thiên nhiên. Do tài nguyên thiên nhiên là sản phẩm của tự nhiên nên khi con người khai thác tức là lấy đi sản phẩm của tự nhiên, nếu khai thác không phù hợp với quy luật của tự nhiên làm cạn kiệt tài nguyên, làm biến đổi bất lợi cho môi trường. Qua các đặc điểm trên cho thấy đặc điểm cơ bản của tài nguyên thiên nhiên là tính quý và hiếm. Để thấy rõ hơn tính quý - hiếm cần phân loại nguồn tài nguyên thiên nhiên. Có nhiều cách phân loại khác nhau, ở đây chỉ để cập đến phân loại nguồn tài nguyên thiên nhiên theo khả năng tái sinh nhằm khai thác hợp lý cho từng loại. Nguồn tài nguyên thiên nhiên được chia làm ba loại: (1) Tài nguyên không có tái sinh: Bao gồm những tài nguyên có quy mô giới hạn như đất đai và những tài nguyên mà khi khai thác sử dụng sẽ cạn dần như các loại khoáng sản và dầu khí. Nhận thức được vấn đề này để có kế hoạch bảo vệ, khai thác sao cho hiệu quả và tránh lãng phí tài nguyên thiên nhiên. (2) Tài nguyên có khả năng tái sinh thông qua tác động của con người: Bao gồm tài nguyên rừng và các loại động thực vật trên cạn và dưới nước. Những loại tài nguyên này sau khi khai thác chúng có thể tái sinh lại nếu có các biện pháp khai thác hợp lý và chính sách bảo vệ thích hợp. Còn nếu khai thác quá khả năng tái sinh sẽ dẫn đến cạn kiệt tài nguyên và giảm khả năng đa dạng sinh vật.
Chương 7: Tài nguyên thiên nhiên với phát triển kinh tế 183 Do đó, đối với những tài nguyên này cần kết hợp chặt chẽ giữa khả năng khai thác và khả năng tái sinh để tránh sự cạn kiệt. Nhiều nước đang phát triển thường khai thác tối đa tài nguyên thiên nhiên ở giai đoạn đầu để phục vụ cho phát triển kinh tế nhưng lại xem nhẹ bảo vệ khả năng tái sinh của chúng. (3) Tài nguyên có khả năng tái sinh vô tận trong thiên nhiên: Bao gồm các loại tài nguyên khi sử dụng qua nhiều thế hệ vẫn vô tận, như nguồn năng lượng mặt trời, nước biển, thuỷ triều, sức gió, không khí Đây là nguồn tài nguyên tự tái tạo vô tận nên cần mở rộng việc tận dụng nguồn tài nguyên này. Trong tương lai đây là các nguồn tài nguyên thiên nhiên được sử dụng phổ biến hơn khi mà tài nguyên không tái sinh cạn dần đi. Do đó cũng cần có chính sách đầu tư thích hợp cho việc nghiên cứu ứng dụng để khai thác chúng. 7.2. VAI TRÒ CỦA TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ Tài nguyên thiên nhiên có vai trò quan trọng với phát triển kinh tế, được thể hiện trên các mặt sau: (1) Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố tạo cơ sở cho việc phát triển các ngành kinh tế: Với quy mô lớn của các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẽ làm cơ sở cho sự phát triển một số ngành như chế biến lâm sản, thuỷ sản, ngành dầu khí, lọc hoá dầu có thể mở rộng phát triển từ nguồn đầu vào có sẵn trong nước. (2) Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố quan trọng cho quá trình tích luỹ vốn: Việc tích luỹ vốn của hầu hết các nước đòi hỏi trải qua một quá trình lâu dài, có liên quan tới tiết kiệm trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên có những nước được thiên nhiên ưu đãi về tài nguyên thiên nhiên với trữ lượng lớn và đa dạng nên nhanh chóng thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá, tăng thu nhập ngoại tệ, tạo tích luỹ vốn nhờ vào khai thác xuất khẩu các nguồn này. (3) Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố quan trọng cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế: Nguồn tài nguyên thiên nhiên còn là cơ sở cho sự
184 Giáo trình Kinh tế Phát triển phát triển ổn định của nhiều ngành kinh tế khác nhau có liên quan từ nguồn cung cấp nguyên liệu và nhiên liệu nội địa. Nếu một quốc gia được ưu đãi về tài nguyên thiên nhiên sẽ tạo điều kiện cung cấp ổn định nhiên liệu và nguyên liệu cho các ngành kinh tế, để không bị lệ thuộc nhiều vào nước ngoài. Thuận lợi này chỉ có ở nước dồi dào về tài nguyên, còn nước nhập khẩu về tài nguyên thường Chính phủ phải quản lý về giá để tránh tác động xấu đến các ngành kinh tế. Tuy nhiên không phải có nhiều tài nguyên là phát triển kinh tế nhanh vì đây chỉ là điều kiện cần. Khi khai thác sử dụng tài nguyên để xuất khẩu quá mức sẽ mắc căn bệnh Hà Lan. Vấn đề là sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên quốc gia. 7.3. THỊ TRƯỜNG VỚI MỘT SỐ TÀI NGUYÊN 7.3.1. Địa tô của tài nguyên Trữ lượng có khả năng khai thác của các nguồn tài nguyên không tái sinh trong lãnh thổ của một nước có ý nghĩa đặc biệt đối với nước đó và chúng chứa đựng trong mình một giá trị thặng dư tiềm tàng cao hơn nhiều so với chi phí lao động và tiền vốn bỏ ra để thăm dò và khai thác chúng. Kinh tế học về tài nguyên gọi giá trị thặng dư này là địa tô. Mặc dù các cuộc bàn luận trong kinh tế học hiện đại về tài nguyên đó chứng minh rằng địa tô của tài nguyên phụ thuộc vào hàng loạt các mối quan hệ liên quan đến thời hạn khai thác, tỷ lệ lãi suất, mức độ rủi ro Nội dung mục này chỉ đưa ra một cách tiếp cận, giản đơn hơn, nhưng vẫn hữu ích, về địa tô. Địa tô tuyệt đối: Là khoản giá trị bằng tiền mà người khai thác sử dụng phải trả cho chủ sở hữu tài nguyên do tính chất qu ý hiếm của tài nguyên này. Địa tô chênh lệch: Là phần giá trị tăng thêm so với địa tô tuyệt đối mà người khai thác tài nguyên phải trả cho chủ sở hữu do tính chất không đồng nhất về trữ lượng, chất lượng và điều kiện khai thác. Nó gắn liền với điều kiện tự nhiên thuận lợi bị độc chiếm do vậy thuộc về chủ sở hữu tài nguyên. Ví dụ đất đai màu
Chương 7: Tài nguyên thiên nhiên với phát triển kinh tế 185 mỡ hay thuận lợi giao thông hơn. Loại địa tô chênh lệch I do điều kiện tự nhiên thuận lợi hơn. Địa tô chênh lệch II do thâm canh mà có. 7.3.2. Thị trường đất đai Cung cầu về đất đai: Đất đai là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất nhưng do tính chất đặc biệt của nó - số lượng diện tích bị cố định hay cung cố định. Chủ sở hữu đất có thể mua bán trao đổi nhưng cung đất không đổi nên đường cung là đường thẳng đứng song song với trục tung. Địa tô S R 1 E 1 R 0 E 0 D 1 D 0 Quỹ đất Hình 7.1 Đất đai có thể sử dụng vào canh tác, chăn nuôi, xây dựng nhà máy, công xưởng, nhà cửa văn phòng hay làm đường xá Địa tô càng cao thì cầu về đất đai giảm, đường cầu đất đai dốc xuống. Cầu đất đai chịu ảnh hưởng của giá nông sản hay các công trình trên đất. Khi cầu sản phẩm có thể khai thác từ đất cao làm giá sản phẩm đó cao vì thế địa tô cũng cao. Đường cầu đất đai giống cầu nhân tố sản xuất khác nó phản ánh giá trị sản phẩm biên của đất. Đường cầu D 0 cắt đường cung đất ở S tại E 0 cho mức địa tô R 0. Mức địa tô sẽ khác nhau giữa nông thôn và thành thị do quan hệ cung cầu khác nhau.