CÁC TRIẾT GIA THỜI TRUNG CỔ I. TRIẾT HỌC CƠ ĐỐC GIÁO (Thế kỷ 1-8)/Giai đoạn giáo phụ Các nhà giáo phụ (các ông cha) đã suy tôn tư tưởng triết học của Thiên chúa. Chúa Jesus ra đời vào thế kỷ thứ 1, nhưng trong 300 năm đầu tiên, đạo Thiên chúa- Kytô giáo bị đàn áp đẫm máu. Đế quốc La Mã sợ rằng một tôn giáo mới nhất thần ra đời, trong khi trước đó là đa thần giáo, sẽ làm ảnh hưởng đến sự thống trị của đế quốc La mã, nên họ đàn áp. Đến năm 312, đại đế Constantinus mới chính thức công nhận đây là một tôn giáo được phổ cập. Đến thế kỷ thứ 4, họ phấn đấu để Kyto giáo trở thành quốc giáo, toàn La Mã cắm cờ Kytô giáo. Giai đoạn này tất cả xoáy mạnh vào niềm tin Thiên chúa. Các nhà thần học và triết gia thời trung cổ: 1.Tertullien (160-230) Ông khởi xướng việc tách triết học ra khỏi tôn giáo để cổ xuý, ca ngợi thiên chúa giáo.theo ông trí tuệ không có khả năng sáng tạo mà tôn giáo mới bao hàm tất cả, trong khi giai đoạn triết học cổ đại trí tuệ là tất cả. (gọi họ là những nhà triết học để phù hợp với sự nghiên cứu của chúng ta, thật ra tất cả họ là những nhà thần học). Tất cả là Chúa Jesus, Chúa sáng tạo và sắp xếp tất cả. Con người chỉ việc thừa hành và phụng sự, đó là con người thông minh. Ông đã đưa ra một quan điểm là chúa trời đối lập với chân lý của con người.trong 6 ngày Chúa sáng tạo ra cả thế giới này. Ông tuyên bố: tôi tin bởi vì điều đó là vô lý. Ông cũng là một người hết sức nổi tiếng trong giai đoạn thế kỷ 3. Ông cho rằng lý trí chỉ nhận thức được giới tự nhiên, còn niềm tin tôn giáo vượt ra ngoài giới hạn đó với mục đích nhận thức Thượng đế, hiểu được Thượng đế. Thượng đế là tất cả, sáng tạo ra muôn loài, đưa ra con đường, an ủi, cứu vớt con người, mỗi con người sinh ra đều đã mang tội tổ tông. (vì con người được sinh ra là do sự tác hợp của Eva và Adam ăn trái cấm.) Vì thế nếu còn không làm theo lời Chúa thì chắc chắn sẽ bị sa hỏa ngục. Hãy làm theo lời Chúa để khi chết được Chúa cứu rỗi. Người ta đã áp đặt tội tổ tông lên các tín đồ Kytô giáo. Theo quan niệm Thiên chúa, chỉ có 2 nơi để về là thiên đàng hoặc địa ngục vĩnh viễn, đời đời. Vì vậy, không có vấn đề chuyển hóa. Chúa an bài như thế nào là phải chịu như vậy. (Trong khi đạo Phật là sự chuyển hóa, đổi thay.vì thế Phật không cho các Tỳ kheo xem bói toán. Con người ta có thể thay đổi được cuộc đời. Sao có thể phán một con người nghèo suốt cả đời, nếu họ biết làm lành, lánh dữ, làm việc phước đức và họ có thể giàu có lên). Đối với ông, Thượng đế là tối cao, Thượng đế là vật thể, nhưng Thượng đế như mặt trời và con người chỉ nhìn thấy các tia sáng mà không bao giờ nhìn thấy được bản chất của mặt trời. Con người không thể nhận ra nổi Thượng đế, Thượng đế tuyệt vời lắm. Tertullien nói: Chúng ta không cần đến sự tò mò sau chúa Jesus, không cần đến sự tìm tòi sau phúc âm. (sau khi Chúa bị đóng đinh trên cây thánh giá Chúa sống lại, Phúc âm thật hay không thật, sau Phúc âm là gì..,không cần tìm hiểu lẻ thật mà chỉ cần chấp nhận và không cần tò mò hay thắc mắc đúng, sai về Chúa). 2.Augustine (Oguytxtanh) Bài số 8: Các triết gia thời trung cổ Trang 1/6
Ông là một nhà văn, là một giáo phụ(có thể sư giáo thọ nói nhầm, vì vị nầy không thể gọi là giáo chủ) được phong thánh. Ông bác bỏ tính chất thần thánh trong các vật tự nhiên và kết luận không có Thượng đế trong các sự vật cảm biết (người cũng là một sự vật cảm biết). Ông tách Thượng đế ra tất cả mọi sự vật trên thế gian này. (Chúng ta nghiên cứu, tìm hiểu về quan niệm triết học của các ông Cha để thấy họ suy niệm về Thượng đế như thế nào, khác với các bậc A La Hán, thánh đệ tử và hàng đệ tử Đức Phật quan niệm về chân lý thế nào. Nhìn rõ hai tôn giáo để thấy được tại sao đến giờ đạo Phật trở thành một tôn giáo của nhân loại. Năm 2005 Unicef đã công nhận rằm tháng tư là lễ Tam hợp đức Phật đản sanh, thành đạo, nhập Niết bàn là sự kiện Tam hợp Vesak cho toàn thế giới tưởng niệm để ghi nhớ công ơn Đức Phật, những sự kiện trọng đại của Đức Phật. Bởi vì họ nhận thấy Đức Phật đến đâu là an lạc, chân lý ở đó. Nên Einstein đã nói rằng Nếu có một tôn giáo phù hợp cho thời đại của chúng ta, thì đó chỉ là đạo Phật. Điều đó hết sức khoa học). Giai đoạn này đối với các triết gia trung cổ chỉ có Chúa và phúc âm, không có chỗ đứng cho trí tuệ. Ông cho rằng lý trí của con người là tự do nhưng trong giới hạn định sẵn của Chúa. Quá trình nhận thức của con người là quá trình nhận thức của Thượng đế (điều con người biết là do Thượng đế sắp đặt). Thông minh hay ngu dốt đều tạ ơn Chúa về những gì Chúa đã ban cho họ. Ông cho rằng sự hiểu biết về Chúa có 3 cấp độ: - Thông qua cảm giác bên ngoài. - Thông qua cảm giác bên trong. - Nhận thức lý trí. Trong tâm hồn con người có sự chỉ ra chân lý tối cao, và từ chân lý tối cao này nảy sinh ra các chân lý khác (mà chân lý tối cao này chính là Thượng đế). Ông nói: Bản thân con người là một vực thẳm lớn nhất, tóc của nó dễ chảy hơn tình cảm và tâm trí của nó. Ông cho rằng tâm hồn con người hết sức phức tạp. (có nghĩa là ông cũng tự quay lại đời sống nội tâm để biết sự phức tạp trong tinh thần của mình). Ông là đại diện tiêu biểu nhất đặt nền móng cho triết học Kyto giáo cổ điển. Những vấn đề cốt lõi của triết học này được ông trình bày trong một hệ thống chặt chẽ, đồ sộ, bao gồm nhận thức luận,bản thể luận, đạo đức học và chính trị xã hội. Bản thân ông lúc đầu đi theo dị giáo từ phái Mani ( giai đoạn đó có rất nhiều trường phái đi ngược lại với Kyto giáo như: phái Ngộ đạo, dị giáo Mani, và các trường phái khác). Ông đi vào chủ nghĩa hoài nghi, chủ nghĩa khắc kỷ, chủ nghĩa Platon mới. Mãi đến năm 386 mới chuyển sang đạo Kyto. Năm 387 làm lễ thụ phong, và sau đó thành một vị thánh. Cuộc đời của ông cũng rất đặc biệt. Ông có một tác phẩm đến bây giờ vẫn được cho là rất nổi tiếng tên là Tự thú (Confession-sám hối,tự nói ra các lỗi lầm của mình). Lúc chưa trở thành một vị cha ông sống rất phóng đãng và lầm lạc. Ông cho rằng trong con người, sự dâm đãng là yếu tố tất yếu giống như thiện và ác, là hai cái mâu thuẫn lẫn nhau nhưng là sự tất yếu luôn tồn tại trong con người, nên sự phạm tội của con người không phải là tội lỗi mà là điều tất yếu. Tự thú kể vể cuộc sống lầm lạc của ông trước đây đến khi ông tỉnh ngộ và tiếp thu giáo lý Kyto. Ông để lại kho tàng tư tưởng trong nhiều tác phẩm quan trọng như những tác phẩm: Tự thú, Vương quốc của Chúa, Chống lại Hàn lâm viện Ông từng có những lời nói như: Thưa Chúa, xin hãy cho con trong sạch nhưng không phải là lúc này. Giai đoạn vào tu rồi nhưng tính phóng túng của ông cũng chưa chấm dứt. Ông cảm thấy tội lỗi nhưng không vì thế mà ông có thể chấm dứt được bản tánh phóng túng, buông lung. Nhưng đến khi ông Bài số 8: Các triết gia thời trung cổ Trang 2/6
hoàn toàn ăn năn hối cải, ông lại là một con người bảo vệ cho Kyto giáo, trở thành người đặt nền móng cho triết học Kyto giáo cổ điển. a. Về nhận thức: Giống như các nhà tư tưởng Kyto giáo khác, ông nhấn mạnh uy thế của đức tin trước lý trí.( Đạo Phật cũng nói về niềm tin nhưng niềm tin chỉ là mẹ sinh ra công đức, quan trọng hơn vẫn là trí tuệ và lòng từ bi. Tin đây là tin sâu nhân quả, tin lời dạy của Đức Phật, không phải tin vào một đấng Thượng đế sáng tạo duy nhất). Ông đặt ra cho mình trách nhiệm là phải chứng minh cho mọi người thấy văn hóa, khoa học, triết học Hy Lạp cổ đại không còn thích hợp trong hoàn cảnh này. Ông phủ nhận hết những cái hàn lâm của Platon, Aristote, Socrates, Democrite không còn thích hợp, chỉ còn niềm tin Thiên chúa. Mọi nẻo đường tư duy triết học đều hướng đến một chân lý duy nhất. Việc nhận thức, nó đòi hỏi kết hợp giữa lý trí và đức tin. Trong đó, đức tin giữ vai trò dẫn dắt, định hướng. Luận điểm tin để hiểu hay đức tin đi trước nhận thức do ông khởi xướng trở thành nền tảng tư tưởng của nhà thờ. Tuy nhiên ông nói rằng: Đức tin, điều kiện tiên quyết nhưng chưa phải điều kiện đủ của nhận thức. Con người không chỉ tin mà suy nghĩ về điều mình tin, đức tin có trước lý trí. Lý trí cần hơn đức tin xét về mặt công việc (bắt đầu cần có niềm tin, nhưng khi làm việc phải có lý trí). b.về bản thể luận: Augustin quan tâm đến vấn đề tồn tại và thời gian. Ông chịu ảnh hưởng của Plato nên ông nhấn mạnh tồn tại tuyệt đối không pha tạp. Ông chịu ảnh hưởng của Plato: - Lý trí con người là một thế giới bên ngoài, ở trên cao, bị chi phối bởi một đấng vô hình. Ở đây ông khẳng định đấng vô hình đó là Thượng đế. Cho nên ông quan tâm sức mạnh tồn tại tuyệt đối, đó là tính vĩnh cửu bất biến, không chịu chi phối bởi thời gian và không gian, đó là sức mạnh Thiên chúa. - Đơn giản không phân chia và hết sức thuần túy. Thiên chúa là tồn tại hoàn hảo nhất, tối cao nhất, thực thể nhất. Cho nên ông đã nói lên thời tính của đời sống tâm linh: Đối với Thiên chúa là siêu tuyệt cả không gian, thời gian, phi vật chất, vĩnh cửu=>đ/v Thiên chúa là tồn tại vĩnh hằng, cho nên không có sự thành trụ hoại diệt hay thay đổi nào cả. c.thuyết sáng tạo: Trong thuyết sáng tạo Augustin cũng nhất trí với trường phái Plato. Những sự tồn tại, một bản chất vượt lên trên thế giới hữu hình. Không thể chấp nhận cách nhìn đen tối về thế giới như một cái xác mà cần phải làm sống lại với thuyết sáng tạo (mọi thứ đều được tạo ra, sắp đặt từ ý Chúa) d. Đạo đức học: Trong đạo đức học Augustin nhấn mạnh 2 mặt của một con người là thiện và ác, luôn tồn tại trong con người. Trong tác phẩm Tự thú, ông chia ra 2 cách lý giải thiện, ác từ góc độ bản thể luận. Tồn tại là điều có lợi, cái thiện còn khiếm khuyết tồn tại là cái ác. Cái ác sinh ra do cái thiện suy yếu. Từ góc độ đạo đức, cái ác xuất hiện do ý chí bị lung lạc, chệch hướng và không chịu sự kiểm soát của lý trí. Đạo đức của Augustin là sự triết lý hóa tư tưởng Kinh thánh về chuẩn mực và giá trị đạo đức, giải thoát và sự cứu rỗi. Tất cả mọi vấn đề đều được giải quyết theo hướng hết sức duy tâm. Bài số 8: Các triết gia thời trung cổ Trang 3/6
Lịch sử nhân loại được ông xem xét qua lăng kính của thần học, liên tưởng đến 6 ngày sáng thế trong kinh Cựu ước. Ông chấp nhận tất cả là sáng tạo của Chúa trong 6 ngày theo thuyết sáng thế của Thiên chúa. Tất cả thời đại lịch sử đều được lý giải theo khuôn khổ của thuyết tiền định và quan niệm ngày tận thế. Chiến tranh thế giới, các cuộc chiến tranh, đều là Chúa sắp đặt và Chúa sẽ sắp đặt một ngày tận thế. (nếu có ngày tận thế thì đó là sự chấm dứt 1 chu kỳ để phát triển 1 chu kỳ mới). + Sự xuất hiện của Thiên Chúa là 1 hoàn cảnh lịch sử cần thiết giúp cho người nô lệ có đủ niềm tin mà sống, và để CĐ chiếm hữu nô lệ diệt vong. Kế đến CĐ phong kiến ra đời, nhưng cho đến 300 năm sau thiên chúa giáo mới được công nhận trên toàn lãnh thổ La Mã. Những người nô lệ tin rằng những người đàn áp họ sẽ có 1 ngày Chúa đưa họ xuống địa ngục vì tội lỗi của mình, và những người nô lệ cống hiến cuộc đời mình cho niềm tin Thiên chúa II. TRIẾT HỌC KINH VIỆN(scholastic) GIAI ĐOẠN CỰC THỊNH (thế kỷ 9) Kyto giáo đã được hệ thống trong các trường học. Tất cả các kinh điển đều biến thành kiểu triết học tôn giáo, đưa vào với nguyên tắc của thần học, liên kết với tín điều, có phương pháp nghiên cứu và logic dựa vào Aristote để lý luận. Triết học này hình thành trong giai đoạn từ thế kỷ 9, nhưng cội nguồn của nó là triết học Hy Lạp cổ đại thời hậu kỳ, gắn liền với tên tuổi của Procles, người tập hợp, phân loại hệ thống hóa các bài giảng của Platon thành các vấn đề chuyên biệt, liên kết các kết luận lý tính với các tiền đồ mang yếu tố thần bí phi lý. Đây gọi là giáo phụ.(giáo phụ là các ông Cha). Giáo phụ thời trung cổ cũng có thể qui về triết học kinh viện vì nó liên kết nội dung triết học với tín điều Kyto giáo. Sự phân chia này hoàn toàn không thống nhất. Giai đoạn cực thịnh là từ thế kỷ 9, lúc đó kinh viện được hệ thống hóa, phân chia bởi công lao của Procles (xem giáo trình GS Đinh Ngọc Thạch, trang 53), biến nó thành những bài giảng hết sức kinh viện đưa vào trường học. Từ vỡ lòng, tiểu học, trung học cho đến đại học đều phải được học về Kyto giáo=> trở thành triết học kinh viện. 1. Jean Scot Erigene Ông theo chủ nghĩa duy thực cho rằng thế giới này, con người không tồn tại độc lập mà luôn phụ thuộc vào Thượng đế. Có bao nhiêu dòng chữ là có bấy nhiêu tà thuyết. Sau một vài thế kỷ, chúng ta có thể biến Erriegene thành một kẻ tử vì đạo hay một người nghịch tiến. Viber đã cảm thấy sự cuồng tín của Erriegene nên mới nói như thế. 2. Peter Abélard Ông là nhà triết học theo chủ nghĩa duy danh, đề cao vai trò lý trí (không đề cao đức tin), có lý trí mới đạt được chân lý. Theo ông ý nghĩa khái niệm nằm trong ý nghĩa của từ và sau này người ta nhận định về ông rằng: giá mà những cuốn sách đầy chất độc của ông tiếp tục nằm trong ngăn kéo và không ai đọc ở ngã ba đường thì hay biết bao nhiêu. Đây là những lời nhận định theo quan điểm chủ nghĩa Mác Lê, cho rằng những quan điểm đó đưa người ta vào tà thuyết, đưa con người vào quan niệm hữu thần, những cuốn sách ấy cũng đưa ra chất độc thay cho mật,hay nói đúng hơn là chất độc trộn vào mật, truyền từ bộ lạc này đến bộ lạc khác, quốc gia này đến quốc gia khác. Ông cũng đưa ra các quan điểm nhưng ông cho rằng lý trí phải có để nhận thức được niềm tin vì vậy ông xoáy vào các từ ngữ và các tác phẩm của ông hết sức tuyệt vời. Vì đó là các dạng tu từ mà coi như mật và mật trộn vào thuốc độc để đưa con người ta vào niềm tin Thiên chúa bằng con đường lý trí. Bài số 8: Các triết gia thời trung cổ Trang 4/6
3. Thomas Aquinas (cũng gọi là Thomas d'aquin, Tomat Đacanh) Ông cũng là một nhà thần học trong giai đoạn này. Học thuyết của ông được nhà thờ đạo Thiên chúa ủng hộ và dùng làm hệ tư tưởng của mình. Ông cho rằng: chân lý của niềm tin tôn giáo không phải lúc nào cũng đạt được bằng sự chứng minh hợp lý và những chân lý thần học là một dạng siêu lý trí. Những điều không chứng minh được, vì vậy mới là Kyto giáo (bảo vệ cho Kyto giáo).ông là một nhà thần học, một ông cha, ông nói có những điều khỏi chứng minh, nó không hợp lý nhưng vẫn là chân lý. Từ đó rút ra kết luận triết học thấp hơn thần học và sự anh minh của con người không bằng sự anh minh của Chúa. Ông cho rằng thế giới mà con người đang sống được Thượng đế tạo ra từ hư vô cho nên nó không vĩnh cửu mà chỉ là sự chuẩn bị của vương quốc giàu có ở trên trời ( nên hết sức cẩn thận khi giảng về tịnh độ, không khéo sẽ giống như trường hơp này yểm ly thế gian để về cực lạc). Ông coi Thượng đế là hình thức thuần túy, tước bỏ vật chất, là nguyên nhân sự tác động cuối cùng của thế giới loài người đang tôn tạo nên. Đối với Đacanh mọi nhận thức đều diễn ra trong chủ thể nhờ tiếp thu khách thể (tiếp thu khách thể đó là các vấn đề của Thiên chúa). Ông chia các hình dạng nhận thức thành 2 loại đó là lý tính và cảm tính. Ông cho rằng khi gia nhập vào tinh thần của các nhận thức (tức là chủ thể) thì cái được nhận thức bị mất đi tính chất vật chất và chỉ tồn tại tính cách của một sự vật, hình ảnh nhận thức của chính nó. Có nghĩa là đối với Thomas tất cả các vật thể rồi sẽ nhập vào tinh thần. Cái được nhận thức bị mất đi tính vật chất và chỉ còn lại tính cách và hình dạng của sự vật. (Khi mình đã được nhập vào thiên chúa thì cái của mình chỉ còn lại cái vỏ, tất cả là Thiên chúa sẽ điều hành.thể xác này chỉ còn lại hình dạng là con người (chỉ là cái vô giá trị, không nghĩa lý gì), đây là ông A,B,C, còn lại tất cả do Chúa điều hành. 4. Duns Scotus Ông cho Thượng đế là tồn tại bất tận và chứng minh về sự tồn tại của Thượng đế cũng giống như một sự tồn tại vĩnh hằng. III. TRIẾT HỌC KINH VIỆN GIAI ĐOẠN SUY TÀN: 1. Roger Bacon Triết học kinh viện giai đoạn suy tàn có Roger Bacon, lúc đó đã qua giai đoạn khoa học thực hiện, cho nên ông cho rằng siêu hình học là khoa học lý luận chung để giải thích mối quan hệ giữa khoa học, và đem lại cho khoa học các quan điểm cơ bản. Đến Roger bắt đầu phê phán các phương pháp kinh viện. Giai đoạn triết học suy tàn, lúc đó các triết gia cảm nhận sự phi lý của kinh viện. Ông phê phán các phương pháp kinh viện tách khỏi đời sống. Ông cho rằng: sự sùng bái theo thói quen, tính vô căn cứ là những trở ngại đối với chân lý. Bacon đánh giá cao vai trò của kinh nghiệm trong việc kiểm tra chân lý. Về sau bị Toà thánh xử tội chết vì những quan điểm của ông đi ngược lại với Toà thánh. 2. William of Ockham Cũng như William of Occam, nhà triết học theo chủ nghĩa duy danh, chống lại đức Giáo hoàng và đề cao quyền lực của quốc vương thế tục. Ông cho rằng chỉ có sự vật độc lập và tồn tại thật sự. Những gì tìm thấy trong tinh thần, trong từ ngữ chỉ là mô tả những cái giống nhau, các đối tượng riêng lẻ mà thôi. Các triết gia giai đoạn suy tàn bắt đầu có những quan điểm đi ngược lại với Giáo Bài số 8: Các triết gia thời trung cổ Trang 5/6
hoàng,với Toà thánh và các chủ nghĩa kinh viện để khẳng định cái duy trí của chân lý, của khoa học. Một số câu hỏi ngắn tham khảo: ( trả lời ngắn gọn, đủ ý) 1. Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong giai đoạn nào, ở thành phố nào? 2. Những triết gia Hy Lạp tiêu biểu nhất là ai? ( phương Tây và trung cổ ) 3. Hoàn cảnh lịch sử của giai đoạn triết học trung cổ? 4. Triết học thời trung cổ lấy cái gì làm nền tảng? 5. Tại sao đạo Thiên chúa đã được hình thành và có chỗ đứng lúc đó? 6. Giải thích hình ảnh cái hang trong thuyết ý niệm Platon? 7. Platon và Aristote là thầy trò nhưng mâu thuẫn với nhau về vấn đề gì? 8. Nhà thuyết nguyên tử luận đầu tiên là ai? 9. Trình bày thuyết tam đoạn luận Aristote? 10. Nhận thức luận của các nhà tư tưởng Kyto giáo nói chung là gì? 11. Chủ nghĩa duy thực là gì? Chủ nghĩa duy danh là gì? 12. Đặc điểm triết học Hy Lạp, đặc điểm triết học trung cổ, hoàn cảnh lịch sử của từng giai đoạn triết học. Lưu ý cần phải nhớ về các triết gia : Augustin, Thomas Aquinas. Bài số 8: Các triết gia thời trung cổ Trang 6/6