1

Tài liệu tương tự
KINH PHÁP CÚ Illustrated Dhammapada Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka Tâm Minh Ngô Tằng Giao CHUYỂN DỊCH THƠ

Kinh Bat Chu Tam Muoi - HT Minh Le Dich

KINH ĐẠI BI Tam tạng pháp sư Na Liên Đề Da Xá dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Cao-Tề ( ). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra

ĐẠO LÀM CON

KINH THUYẾT VÔ CẤU XỨNG

Lão Pháp Sư TỊNH KHÔNG đề xướng Pháp Sư THÍCH TỰ LIỄU kính biên NHẬT MỘ ĐỒ VIỄN TRỜI ĐÃ XẾ BÓNG, ĐƯỜNG VỀ CÒN XA Lớp học tập Tịnh Độ Vô Lượng Thọ Khoa

Pháp Ngữ và Khai Thị của HT Diệu Liên

Niệm Phật Tông Yếu

Microsoft Word - thientongtrucchi-read.doc

ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN Giảng giải: Đại Sư Ấn Quang Việt dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa PHẦN MƯỜI HAI 19

Mấy Điệu Sen Thanh - Phần 4

PHÓNG SANH VẤN ĐÁP

KINH DƯỢC SƯ 275 NGHI THƯ C TỤNG KINH DƯƠ C SƯ -----***----- (Thă p đe n đô t hương, đư ng ngay ngă n, chă p tay ngang ngư c, chu lê mâ t niê m) CHU T

KHUYÊN NGƯỜI NIỆM PHẬT

Oai đức câu niệm Phật

Để Hiểu Thấu Hành Đúng Pháp Hộ Niệm DIỆU ÂM (MINH TRỊ) 1

Microsoft Word - 08-toikhongquen

Microsoft Word - thamthienyeuchi-read.doc

Tam Quy, Ngũ Giới

Kinh Duoc Su Luu Ly Quang Nhu Lai Bon Nguyen Cong Duc - Ns Tam Thuong

Microsoft Word - V doc

BÃy gi© Di L¥c BÒ Tát nói v§i ThiŒn Tài r¢ng :

Microsoft Word - KinhVoLuongTho-Viet

chulangnghiem.com Kinh Đại Phật Đảnh Cứu Cánh Kiên Cố Và Mật Nhân Của Như Lai Về Chư Bồ-Tát Vạn Hạnh Để Tu Chứng Liễu Nghĩa (Kinh Lăng Nghiêm) Quyển 4

Microsoft Word - unicode.doc

Tác giả: Dromtoenpa

PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA

TÁM QUY LUẬT CỦA NGƯỜI PHIÊN DỊCH KINH ĐIỂN PHẬT HỌC 1. Người dịch phải tự thoát mình ra khỏi động cơ truy tìm danh lợi. 2. Người dịch phải tu dưỡng t

PHÁP MÔN TỊNH ÐỘ HT. Trí Thủ ---o0o--- Nguồn Chuyển sang ebook Người thực hiện : Nam Thiên Link A

Microsoft Word - donngonhapdaoyeumon-read.doc

Phaät Thuyeát Ñaïi Thöøa Voâ Löôïng Thoï Trang Nghieâm Thanh Tònh Bình Ñaúng Giaùc Kinh Nguyên Hán bản: Ngài HẠ LIÊN CƯ hội tập TÂM TỊNH chuyển ngữ

Microsoft Word - doc-unicode.doc

LUẶN ĐẠI TRÍ Độ Quyển 21

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Pháp Đăng Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Hệ Thống Chùa Tầ

Đôi mắt tình xanh biếc 1 THÍCH THÁI HÒA ĐÔI MẮT TÌNH XANH BIẾC NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA VĂN NGHỆ

1 KINH VĂN THÙ SƯ LỢI SỞ THUYẾT MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT Tác Giả: Đời Lương Tam Tạng Mạn Đà La Tiên Dịch Giả: Hòa Thượng Thích Minh Lễ Tôi nghe như vầy

Đời Đường, Sa môn Thiện Đạo tập ký

HOÀNG BÁ THIỀN SƯ

Microsoft Word - doc-unicode.doc

Kinh Niệm Phật Ba La Mật - 4

Pháp ngữ của hòa thượng Tuyên Hóa - Phần 2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG BÙI THỊ XUÂN DÀN DỰNG HÁT THEN TẠI NHÀ HÁT CA MÚA NHẠC DÂN GIAN VIỆT BẮC LUẬN VĂN

Microsoft Word - doc-unicode.doc

Microsoft Word - trachvuphattutaigia-read.docx

Lam Te Ngu Luc - HT Nhat Hanh

1 Triệu Châu Ngữ Lục Dịch theo tài liệu của : Lư Sơn Thê Hiền Bảo Giác Thiền Viện Trụ Trì Truyền Pháp Tứ Tử Sa Môn Trừng Quế Trọng Tường Định. Bản khắ

ĐẠI PHẬT ĐẢNH NHƯ LAI MẬT NHÂN TU CHỨNG LIỄU NGHĨA CHƯ BỒ TÁT VẠN HẠNH THỦ LĂNG NGHIÊM

Kinh Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác

Phần 1

Microsoft Word - MuonChungDao_updt_ doc

ẨN TU NGẨU VỊNH Tác giả: HT. THÍCH THIỀN TÂM ---o0o--- Nguồn Chuyển sang ebook Người thực hiện : Nam Thiên

Kinh Dai Thong Phuong Quang Sam Hoi Diet Toi Trang Nghiem Thanh Phat - HT Trung Quan Dich

TỪ BI ÐẠO TRÀNG SÁM PHÁP LƯƠNG HOÀNG SÁM HT.THÍCH TRÍ TỊNH giảo chính Dịch giả: TT.VIÊN GIÁC --- o0o --- Mục Lục LỜI GIỚI THIỆU THAY LỜI TỰA SÁM HỐI N

BUU SON KY ` H U ONG -D AI. PHONG THAN `ˆ U (N OC MAT ME. HIÈN) ˆ T AI BAN Yˆ eu C`au ˆ Phoˆ Bien ˆ Rong ˆ. Rãi In Lai. Theo An ˆ Ban 2011 BUU SON KY

Hạnh Phúc và Đau Khổ Chư Thiên và loài người Suy nghĩ về hạnh phúc Ước mong được hạnh phúc Chân hạnh phúc là gì? (1) Bốn câu thi kệ này được trích tro

Kinh Quán Vô Lượng Thọ

Thơ cậu Hai Miêng Đêm thu bóng nguyệt soi mành, Bâng khuâng dạ ngọc chạnh tình ngâm nga. Xét trong thế sự người ta, Tài ba cho mấy cũng là như không.

Kinh Ðại Phương Ðẳng Như Lai Bất Tư Nghì Cảnh Giới Đời Ðường, Tam Tạng Pháp Sư Xoa Nan Ðà, Người nước Vu Ðiền dịch từ Phạm Văn qua Hoa Văn Việt Dịch:

VIETNAM ATTRACTS RECORD LEVEL OF FOREIGN DIRECT INVESTMENT - Asia Pulse

ĐẠI THỪA KIM CANG KINH LUẬN TT.Thích Viên Giác dịch Trung Tâm Phật Giáo Hayward, Hayward California o0o--- Nguồn

TRUNG PHONG PHÁP NGỮ

Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Đại Bi Tâm Đà La Ni Đời Đường, Tam tạng Bất Không dịch 1 Việt dịch: Quảng Minh Kính lạy đấng đại bi Quán Âm Ng

A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA Liên Trì Đại Sư Chùa Vân Thê soạn Sớ Sao Pháp Sư Cổ Đức Diễn Nghĩa Giảng giải: Pháp Sư T

Kinh Từ Bi

Kinh Thừa Tự Pháp: Chánh Pháp luôn tồn tại sinh động nơi những người con Phật Nguyên Nghĩa Chỉ có tâm hồn con người cần phải được chuyển đổi, được chu

0365 Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật án h: Lưu Tống Lương a Xá d ch Vi t h: T. Thí h Trí T nh ---o0o--- Nam Mô Bổn Sư Thí h Ca Mâu Ni Phật. ( 3 lần) Như v

ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN Giảng giải: Đại Sư Ấn Quang Việt dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa PHẦN MƯỜI NĂM II

SÓNG THẦN Huê Maäu Thaân 68 Bà Nguyễn Thị Thái Hòa là nhân chứng sống của cuộc tàn sát dân lành một cách dã man chưa từng có trong lịch sử VN của CSBV

Code: Kinh Văn số 1650

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM

Microsoft Word - Tuyen tap 15 bai Tho Phat Dan PL TNTMacGiang.doc

Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch

doc-unicode

Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An Biến dời cuộc thế thình lình,* Thiện tồn ác thất Thiên đình số phân. Vần xây thế giái {giới} phàm trần, Sự mình không

Kinh Di Da Giang Giai - HT Tuyen Hoa

Kinh Quan Vo Luong Tho Phat - HT Tri Tinh Dich

Đời Lưu Tống, ngài Cầu Na Bạt Ma dịch Phạn Hán Đời Minh, ngài Trí Húc chú thích Thích Pháp Chánh dịch Hán Việt Kinh Năm Giới Tướng của Ưu Bà Tắc Chú t

ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN Giảng giải: Đại Sư Ấn Quang Việt dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa PHẦN MƯỜI 144. T

LỜI RU CHẠM MẶT TRỜI

ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TĂNG QUẢNG CHÁNH BIÊN ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TĂNG QUẢNG CHÁNH BIÊN Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa Giảo chánh: Minh

THÍCH CA PHƯƠNG CHÍ Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

Đại Sư Vĩnh Minh Diên Thọ

NGHỊ LUẬN XÃ HỘI VỀ LỐI SỐNG ĐẸP

Lương Sĩ Hằng Ðời Ðạo Siêu Minh

Liên Trì Ðại Sư - Liên Tông Bát Tổ

Kinh Hồng Danh Lễ Sám (tập 2) Tác giả : Thích Huyền Vi Phật Lịch 2539 ĐỨC PHẬT NÓI

Nam Tuyền Ngữ Lục

Hướng Đi Thiền Sư Lương Sĩ Hằng

Niệm Phật tam muội

A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA Liên Trì Đại Sư Chùa Vân Thê soạn Sớ Sao Pháp Sư Cổ Đức Diễn Nghĩa Giảng giải: Pháp Sư T

Thiền tông và Tịnh độ tông - chỗ gặp gỡ và không gặp gỡ

chulangnghiem.com Kinh Đại Phật Đảnh Cứu Cánh Kiên Cố Và Mật Nhân Của Như Lai Về Chư Bồ-Tát Vạn Hạnh Để Tu Chứng Liễu Nghĩa (Kinh Lăng Nghiêm) Quyển 5

Microsoft Word - I To03_Copy.doc

Cái ngày thay đổi cuộc đời tôi Lời nói đầu Sau khi bước sang tuổi 25 không bao lâu, tôi gặp một người đàn ông tên là Earl Shoaff. Thực sự, tôi đã khôn

ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO BẢO THÂN TIẾT DỤC PHÁP NGỮ

Microsoft Word - ptdn1257.docx

mộng ngọc 2

I _Copy

Phần 1

Con Đường Khoan Dung

Bản ghi:

1

2

LỜI TỰA Pháp môn Niệm Phật hợp với tất cả mọi người. Già, trẻ, tại gia, xuất gia, ai cũng niệm Phật được. Nếu hết lòng tin ưa, mong muốn sanh về thế giới của đức Phật A Di Đà, mà niệm danh hiệu Phật thì được nhiều lợi ích. Đặc biệt là : - Chuyển hoá được mọi nghịch cảnh. Phước báo thế gian không cầu mà tự được hưởng ( Hoa Thượng Thi ch Thiền Tâm tri ch di ch tư Văn Sao của Tổ Ấn Quang ). - Khi thọ mạng hết, lúc lâm chung được Phật tiếp dẫn về thế giới Cực Lạc, vĩnh viễn thoát khỏi sanh tử luân hồi (kinh Vô Lượng Tho ) không chịu những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui (kinh A Di Đà). Vì vậy tôi đã chọn một số lời dạy của Phật, Tổ và các đại sư Tịnh Độ về những lợi ích của việc niệm Phật và cách thực hành pháp môn Niệm Phật, viết thành quyển Thoát Vòng Sanh Tử, dâng tặng những ai hữu duyên. Dù tôi đã cố gắng duyệt xét lại tư ng chương, mục, nhưng khó tránh khỏi thiếu sót. Ngưỡng mong độc giả thông cảm góp ý, chỉ điểm cho. Montreal ngày 01 tháng 09 năm 2015 Nguyên Đại Diệu Âm, Đỗ Hữu Cự Email : huucudo7575@yahoo.com 3

MU C LU C Lơ i tưa 3 Chơưng 1 : Thoa t vo ng sanh tư 5 Chương 2 : Tông chi cu a pha p môn Niê m Phâ t 9 Chương 3 : Lo ng tin chân tha nh, tâm nguyê n tha thiê t 14 Chương 4 : Phương pha p niê m Phâ t 19 Chương 5 : Nghi thư c niê m Phâ t 29 Chương 6 : Lo ng tha nh ki nh 31 Chương 7 : Khi bi bê nh 33 Chương 8 : Lu c lâm chung 36 Thư c ha nh pha p môn niê m Phâ t 40 Chu thi ch 43 Ta i liê u tham kha o 57 4

Chương 1 THOÁT VÒNG SANH TỬ I - Cần phải thoát vòng sanh tử luân hồi Hoà thượng Thích Thiền Tâm dạy: Chu ng sanh hê t kiê p này sang kiê p khác sống chê t luân hồi, lên xuống 6 cõi. Đó la cõi Trơ i, cõi Ngươ i, cõi A Tu La, cõi Súc Sanh, cõi Ngã Qu i, va cõi Đi a Ngục. - Cõi Trơ i tuy vui vẻ hơn nhân gian, nhưng cũng co n tướng ngũ suy (1), va những điều không như ý. - Cõi Ngươ i có 8 nỗi khổ là sanh, già, bê nh, chê t, yêu thương ma pha i xa cách, oán thù vẫn pha i gặp mặt, cầu chẳng được như ý va 5 ấm (2) lẫy lừng. 8 nỗi khổ na y ca c cõi kha c cũng có i t nhiều. 4 cõi sau, trong kinh gọi là 4 cõi ác. Từ cõi A Tu La theo chiều đi xuống, nỗi khổ ở mỗi cõi cư tuần tư tăng lên gấp bội. - Cõi A Tu La bi khổ vì gây gổ tranh đua. - Cõi Súc Sanh khổ vì ngu tối, nhơ nhớp, bi banh da xẻ thi t, chở kéo nặng nề, ăn nuốt lẫn nhau. - Cõi Ngã Qui thân thể hôi hám, xấu xa, bụng lớn như ca i trống, cuống họng nhỏ như cây kim, miê ng phư c ra lư a, đói khát trong ngàn muôn kiê p. - Cõi Đi a Ngục thì va c dầu, cột lư a, hầm băng gia, non gươm đao, sư thống khổ không thể ta xiê t. Chúng sinh sống chê t xoay vần trong 6 cõi, hê t nơi na y đê n nơi kia, như ba nh xe lăn chuyển không đầu mối. Đa i khái 5

sanh lên cõi Ngươ i, cõi Trơ i thì rất khó và rất i t, đoa xuống cõi ác rất dễ và rất nhiều Khi còn tại thế, một hôm đức Phật Thích Ca đã dùng móng tay vít lên chút đất, rồi hỏi ngài A Nan: Đất ở móng tay ta sánh với đất ở miền đa i đi a, cái nào nhiều hơn? Ngài A Nan đáp: Ba ch Thê Tôn. Đất cu a miền đa i đi a nhiều hơn đất ở móng tay Phâ t vô lượng phần, không thể thí dụ. Phật bảo: Cũng thê, A Nan! Chúng sanh sanh lên cõi Trơ i, cõi Ngươ i, như đất ở móng tay ta, đoa xuống những cõi ác như đất cu a miền đa i đi a. Ấn Quang đại sư, tổ thứ 13 của Tịnh Độ tông Trung Hoa dạy: Ma ng ngươ i vô thươ ng, vinh hoa chẳng bền. Dù thọ ca 100 năm, chi trong khoa ng khẩy ngón tay, thở hắt ra một hơi la chẳng còn nữa. Khi đã chê t rồi, rất dễ đoa vào các cõi ác. Dù có may mắn được sanh trở la i cõi Ngươ i, hay được sanh lên các cõi Trơ i, thì tới khi hưởng hê t phước ở các cõi lành này, lúc chê t tất cũng bi đoa vào các cõi ác. Hãy tìm đươ ng thoát, chớ để đê n lúc lâm chung hối cũng chẳng ki p. II - Muốn thoát khỏi sanh tử luân hồi ngay trong đời này, phải tu pháp môn Niệm Phật. Ấn Quang đại sư dạy: Liễu thoát sanh tư là chuyê n lớn nhất trong đơ i ngươ i. Pháp môn Niê m Phâ t là một pháp môn đặc biê t trong 6

Phâ t pha p. Pha p na y dưới từ tội nhân nghi ch a c, trên đê n Đẳng Giác Bồ Ta t đều nên tu tâ p. Pháp này khác hẳn với hê t thẩy ca c pha p Đa i, Tiểu thừa (3) đã được đư c Phâ t Thích Ca nói trong ca một đơ i. Ngươ i tu hê t thẩy ca c pha p Đa i, Tiểu thừa, ngoa i trừ pha p môn Niê m Phâ t, đều pha i câ y vào sư c Giới, Đi nh, Huê (4) cu a chi nh mình để liễu sanh thóat tư. Đừng nói là phàm phu dẫy đầy triền phược (5) chẳng thể làm nổi, ngay như bâ c thánh nhân đã chư ng Sơ, Nhi, Tam Qu a (6), Bồ Tát thuộc đi a vi Lục Tín (7) co n chưa thể thoát sanh tư ngay trong hiê n đơ i. Chi có pháp môn Niê m Phâ t câ y va o đa i từ bi nguyê n lư c cu a A Di Đa Phâ t, bất luâ n già, trẻ, trai, gái, sang, hèn, trí, ngu, ta i gia, xuất gia, hễ chi u sanh lòng tin chân thâ t, phát nguyê n thiê t tha, chí thành khẩn thiê t niê m thánh hiê u A Di Đa Phâ t thì trong đơ i này không một ai chẳng được vãng sanh khi lâm chung, thóat khỏi luân hồi sanh tư. Pháp môn Niê m Phâ t dùng sư c ít mà thành công dễ, như đi thuyền, đã căng buồm thuâ n gió la i còn thuâ n nước vì nhơ vào Phâ t lư c. Các tông khác dùng sư c nhiều mà thành công khó, như con kiê n bò lên núi cao, vì hoàn toàn câ y vào tư lư c. Đẳng Giác Bồ Tát (7) muốn viên mãn Phâ t qu a còn pha i cầu vãng sanh Tây Phương (8), huống hồ là phàm phu chúng ta nghiê p căn sâu nặng, sao còn chẳng chi u dốc sư c vào pháp môn này? Đấy là bỏ dễ cầu khó, lầm la c cùng cư c thay!" 7

Giác Minh Diê u Hạnh Bồ Tát dạy : Pha p môn Ti nh Độ la tâm tông cu a chư Phâ t, la con đươ ng tắt nhất để đi đê n qua gia i thoa t. Kinh Đại Tập chép: Đơ i ma t pháp ư c ư c (9) ngươ i tu hành, hiê m có một kẻ đắc đa o. Chi có niê m Phâ t mới thoát khỏi sanh tư. Đa phần là từ giác chợt mê, thoa t tiê n liền lùi, tra i qua bao kiê p nhiều như bụi trần chẳng thể xuất ly.`` 8

Chương 2 TÔNG CHỈ CỦA PHÁP MÔN NIỆM PHẬT -Tông chi cu a pháp môn Niê m Phâ t là:tín, Nguyê n và Ha nh. I - Tín. Ấn Quang đại sư dạy: Tín là: 1- Tin Sa Bà (10) khổ vô lượng vô biên. Nói chung, chẳng ngoài 8 nỗi khổ là: sanh, già, bê nh, chê t, ân ái biê t ly, oa n ghét nhưng vẫn pha i gặp mặt, cầu chẳng được thoa ý, 5 ấm lẫy lừng (2). Ta m nỗi khô này, ai nấy đều có. 2 - Tin thân người dễ mất. Một khi vô thươ ng đê n, nhất đi nh sẽ theo nghiê p ác nặng nề trong đơ i này hoặc những kiê p trước ma đoa va o ca c đươ ng ác, chi u sư khổ lâu dài, biê t chừng nào mới được thoát ly. 3 - Tin Cực Lạc thật là vui, vui chẳng gì ví nổi. Tin sâu lơ i Phâ t, trọn chẳng nghi hoặc mới gọi la chân ti n. Đừng nên dùng sự thấy biết của ngoa i đa o, pha m phu, để so lươ ng lầm la c, cho rằng mọi thư trang nghiêm thắng diê u chẳng thể nghĩ ba n cu a Ti nh Độ (11) đều là chuyê n ngụ ngôn, là thí dụ, là tâm pháp, chẳng pha i là ca nh thâ t. Nê u có các thư tà kiê n, hiểu biê t sai la c như vâ y, sẽ đa nh mất điều lợi ích thư c sư là được vãng sanh Ti nh Độ. Cái ha i đó rất lớn, chẳng thể chẳng biê t. 9

4 - Tin mình là phàm phu đầy nghiệp lực. Vì la pha m phu đầy nghiê p lư c nên không thể câ y vào sư c mình để dư t hoặc chư ng chân, (12) thoát sanh tư ngay trong đơ i na y. 5 - Tin Phật A Di Đà có lời thề rộng lớn (13). Nê u chúng sinh nào niê m danh hiê u Phâ t, cầu về thê giới cu a ngài thì khi ma ng chung sẽ được ngài tiê p dẫn vãng sanh Cư c La c. " II - Nguyện 1 - Nguyện vãng sanh Cực Lạc thế giới. Ấn Quang đại sư dạy: Đã biê t Sa Bà là khổ, sanh tư luân hồi cư c kỳ nguy hiểm, Cư c La c là vui thì nên phát thê nguyê n thiê t thư c: Nguyê n mau lìa khổ Sa Bà, sớm vãng sanh Cư c La c. Nguyê n ấy pha i tha thiê t. A Di Đa Phâ t nguyê n độ chúng sanh. Nê u như chi tâm xưng danh hiê u Phâ t cầu xuất ly Sa Bà, thì chẳng một ai không được Phâ t ru lòng từ nhiê p thọ. 2 - Nguyện phát Bồ Đề tâm. Hoà thượng Thích Thiền Tâm dạy: Nê u vì gia i thoát riêng cho mình mà tu Niê m Phâ t, thì chi hợp với ba n hoài cu a Phâ t một ít phần mà thôi. Ba n hoa i đi ch thâ t cu a Thê Tôn là muốn cho hê t thẩy chu ng sanh đều thoát vòng sanh tư, đều được giác ngộ như nga i. Cho nên ngươ i niê m Phâ t pha i phát Bồ Đề tâm, nghĩa la pha t tâm cầu qua Giác Ngộ cu a Phâ t để độ thoát mình và tất ca chu ng sanh. Ấn Quang đại sư dạy: Ngươ i tu pháp môn Niê m Phâ t pha i phát lòng Bồ Đề, thê 10

độ muôn loa i, đem công đư c mình tu hồi hướng cho bốn ân ba cõi (14) cùng tất ca chu ng sanh. La m như thê như đèn thêm dầu, như ma được mưa, đã kê t pháp duyên sâu cùng tất ca chúng sanh, la i mau thành tư u thắng ha nh đa i thừa cu a mình. Nê u chẳng hiểu nghĩa na y, tất thành ra chỗ thấy ca n hẹp, tư lợi, ca m qu a rất thấp kém. Bên trong vì ông bà, cha mẹ, họ hàng thân thích, bên ngoài vì ba n bè, ngươ i quen, nên khuyên họ thư c hành pháp môn Ti nh Độ này, chẳng luâ n ngươ i có tin làm hay không. Chi hê t sư c mình khiê n cho mọi ngươ i đều biê t pháp mầu này mà thôi. Da y ngươ i niê m Phâ t môt tiê ng hơn bố thí bẩy báu suốt trăm năm. Pha i trừ bỏ ca c điều ác, vâng làm những viê c la nh. Đừng giê t ha i, gắng ăn chay. Thương tiê c, hộ trì ma ng sống cu a loài vâ t. Nguyê n thứ 19 của Phật A Di Đà: Khi tôi tha nh Phâ t, chúng sanh ở mươ i phương pha t tâm Bồ Đề tu ca c công đư c, dốc lòng phát nguyê n muốn sanh về nước tôi, đê n lúc lâm chung, nê u tôi chẳng cùng thánh chúng vây quanh hiê n trước ngươ i đó, tôi không giữ ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác (15). III - Hạnh. 1 - Hạnh là: Phải chí thành khẩn thiết niệm danh hiệu Phật A Di Đà, cầu Phật phóng quang nhiếp tho và tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc thế giới khi mạng chung. Kinh Quán Vô Lượng Thọ chép: 11

Đư c A Di Đa Phâ t phóng quang soi khắp10 phương vô lượng thê giới, nhiê p (16) lấy không bỏ những ai niê m Phâ t. Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ, Trang Nghiêm, Thanh Tịnh, Bình Đẳng, Giác Kinh chép: Chu ng sanh nào cha m quang minh ấy, cấu diê t, thiê n sanh,(17) thân, ý nhu nhuyễn..." Sách Long Thư Tịnh Độ chép điều lợi thứ 10 của người niê m Phật là: Khi ma ng chung, tâm không sợ hãi, chánh niê m hiê n ra, được Tây Phương tam Thánh (18) tiê p dẫn sanh về Cư c La c thê giới. Kinh Đại Tập chép: Đơ i ma t pha p ư c ư c ngươ i tu ha nh, hiê m có một kẻ đắc đa o. Chi có niê m Phâ t mới thoa t khỏi sanh tư.... 2 - Chỉ chuyên niệm Phật cầu vãng sanh, không tu xen tạp những hạnh khác. Pháp Nhiên thượng nhân, khai tổ của Tịnh Độ tông Nhật Bản dạy: Để đơ i này thoát khỏi sanh tư, không gì hơn vãng sanh sang cõi Cư c La c. Để được vãng sanh sang cõi Cư c La c thì dù diê u ha nh gì chăng nữa cũng không hơn niê m Phâ t. Vì sao thê? - Vì niê m danh hiê u Phâ t A Di Đa thì được chư Phâ t ở 10 phương hộ niê m va đư c A Di Đa phóng quang nhiê p thọ. - Vì Niê m Phâ t là ha nh cu a Di Đa bổn nguyê n. Ngoài Niê m Phâ t, tất ca các ha nh kha c đều chẳng pha i là bổn nguyê n cu a đư c Phâ t A Di Đa. " 12

Thiê n Đạo đại sư, tổ thứ hai của Tịnh Độ tông Trung Hoa dạy: Xưng danh hiê u Phâ t A Di Đa la ha nh dễ làm, nê u cư giữ mỗi niê m nối nhau, tu như thê suốt đơ i, thì mươ i kẻ niê m, mươ i kẻ được vãng sanh, trăm ngươ i tu, trăm ngươ i về Ti nh Độ. Nê u bỏ chuyên niê m Phâ t danh mà tu các ha nh khác thì trong trăm nga n ngươ i, chi hy vọng được ba, bốn kẻ vãng sanh. Bởi ta i sao? - Vì duyên ta p loa n động khiê n cho mất chánh niê m. Sư hê niê m không nối tiê p nhau. - Vì không hợp với ba n nguyê n cu a Phâ t A Di Đa, tra i với kinh giáo và lơ i Phâ t, Thánh. - Vì tuy ha nh đa o ma thươ ng ưa danh lợi, không hê t lòng mong muốn vãng sanh. 13

Chương 3 LÒNG TIN CHÂN THÀNH, TÂM NGUYỆN THA THIẾT I - Người tu pháp môn Niệm Phật phải lấy lòng tin chân thành, nguyện thiết tha làm gốc. Ấn Quang đại sư dạy: Ngươ i tu niê m Phâ t pha i lấy lòng tin chân thành, nguyê n thiê t tha làm gốc. Ngươ i đơ i phần nhiều chú trọng nhất tâm, chẳng chú trọng tín, nguyê n, tư c la đã đa nh mất cái quan trọng, cốt lõi nhất. Tin sâu nguyê n thiê t la hai điều quan trọng nhất mà ngươ i tu pháp môn Niê m Phâ t cần pha i có, nên: 1 - Trong khi đức Phật Thích Ca thuyết kinh A Di Đà : Chư Phật ở sáu phương Đông, Tây, Nam, Bắc, Trên, Dưới đều nói lời thành thật rằng: Chu ng sanh ca c ngươi pha i nên tin sư khen ngợi công đư c không thể nghĩ ba n cu a kinh Tất Ca Chư Phâ t Đều Hộ Niê m na y. Chính đức Phật ThI ch Ca sau đó lại dặn: Xa Lợi Phất, cho nên các ông pha i tin lơ i cu a ta và cu a ca c đư c Phâ t nói. Đức Thế Tôn nhiều lần nhắc chúng sanh phải nên phát nguyê n sanh về Cực Lạc thế giới: - Xa Lợi Phất! Chu ng sanh na o nghe được những 14

lơ i trên đây, nên pha i phát nguyê n cầu sanh về nước đó. Vì sao? Vì nê u sanh về đấy thì sẽ được ở cùng một chỗ với các bâ c thượng thiê n nhân như thê. - Xa Lợi Phất! Ta thấy lợi ấy, nói ra những điều trên đây, nê u chu ng sanh na o nghe được những lơ i này, nên pha i phát nguyê n sanh về cõi nước đó. - "Xá Lợi Phất! Cho nên các thiê n nam tư, thiê n nữ nhân, nê u ngươ i nào có lòng tin, nên pha i phát nguyê n sanh về cõi nước kia. 2 - Kinh Vô Lượng Thọ chép lời nguyê n thứ 18 của Phật A Di Đà: Khi tôi tha nh Phâ t, chúng sanh ở 10 phương hê t lòng tin ưa, mong muốn sanh về cõi nước cu a tôi, xưng danh hiê u tôi cho đê n 10 niê m, mà chẳng được sanh, tôi không giữ ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác. Chi trừ những kẻ pha m tội ngũ nghi ch, chê bai cha nh pha p. Rõ ra ng điều kiê n tiên quyê t để được sanh về thê giới Cư c La c là hê t lo ng tin ưa va hê t lòng mong muốn sanh về cõi nước đó. Nê u tin sâu, nguyê n thiê t như vâ y thì dù chi niê m 10 lần Phâ t danh, cũng đu để được vãng sanh. Vì vậy Ngẫu I ch đại sư, tổ thứ 9 của Tịnh Độ tông Trung Hoa đã dạy: Được vãng sanh hay không hoàn toàn là do có Tín, Nguyê n hay không. Phẩm vi cao hay thấp do hành trì sâu hay ca n. Nê u tín, nguyê n bền chắc, khi lâm chung chi xưng danh hiê u A Di Đa Phâ t 10 niê m hay 1 niê m, cũng quyê t được vãng sanh. Trái la i, công phu hành trì vững như va ch 15

sắt tươ ng đồng, mà tín nguyê n yê u kê t qu a chi hưởng được phước báo ở cõi Ngươ i, cõi Trơ i ma thôi. II Điê u kiện quan tro ng nhất đê đươ c va ng sanh la nguyện tha thiết. Khi pha t nguyện tư ng chư, tư ng câu phải xuất ra tư nô i tâm, chă ng thê đo c suông nơi cửa miệng. Hoà Thượng Thích Thiền Tâm dạy : Phẩm vi cao, thấp không pha i là vấn đề. Vấn đề chính là được vãng sanh hay không. Muốn được vãng sanh, pha i có Tín, Nguyê n, va điểm cần yê u nhất là Nguyê n Thâ t vây: 1 - Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyê n trong kinh Hoa Nghiêm viết: Ngươ i này khi sắp ma ng chung, trong khoa ng sát na (19) sau cùng, tất ca ca c căn thẩy đều tan họai, tất ca quyê n thuộc thẩy đều rơ i bỏ, tất ca oai thê thẩy đều lui mất. Duy có nguyê n vương na y chẳng rơ i bỏ nhau, trong tất ca thơ i, nó đều dẫn dắt ở trước. Trong khoa ng một sát na, kẻ ấy liền được vãng sanh về thê giới Cư c La c. 2 - Kinh A Di Đà chép: Nê u có ngươ i đã pha t nguyê n, hiê n đang pha t nguyê n, sẽ phát nguyê n muốn sanh về cõi nước cu a đư c Phâ t A Di Đa thì những ngươ i ấy đều được không thối chuyển nơi đa o Vô Thượng Cha nh Đẳng Cha nh Gia c; nơi cõi nước kia, hoặc đã sanh về rồi, hoặc hiê n đang sanh về, hoặc sẽ sanh về. 3- Kinh Vô Lượng Thọ chép: Những chúng sanh nào nghe danh hiê u cu a Phâ t A Di 16

Đa ma vui mừng, tin tưởng, dẫu chi một niê m, dốc lòng hồi hướng, nguyê n sanh về nước ấy, tư c được vãng sanh... III - Làm bất cứ việc gì, thiện thì hồi hướng cầu vãng sanh, ác thì sám hối cầu vãng sanh, không mong cầu bất cứ điê u gì khác. Thiê n Đạo đại sư dạy: Niê m Phâ t không được vãng sanh là ta i không tin sâu, có lòng hoài nghi, bất an, không thiê t tha thâ t lòng nguyê n vãng sanh, mà chi mong cầu những lợi ích thê gian như công danh, tiền cu a, thuâ n lợi, bình an, tiêu tai, khỏi bê nh, sống lâu...v...v... Ấn Quang đại sư dạy: La m bất cư điều gì, thiê n hay ác, nê u thiê n thì hồi hướng cầu vãng sanh, ác thì sám nguyê n cầu vãng sanh, không cầu điều gì khác. Nê u có ma y may công đư c la nh, đều đem hồi hướng vãng sanh. Như thê thì tất ca ha nh môn đều là trợ ha nh cu a Ti nh Độ. Nê u đem những công đư c khác hồi hướng về phước báo thê gian thì niê m chẳng quy về một mối, càng khó vãng sanh. Pha i biê t rằng nê u thâ t sư niê m Phâ t, chẳng cầu phước báo thê gian, nhưng tư được hưởng phước báo thê gian. Nê u cầu phước báo thê gian, chẳng chi u hồi hướng vãng sanh, thì phước báo thê gian đa t được đó sẽ trở thành tê kém. Tâm chẳng chuyên nhất nên khó quyê t đi nh vãng sanh! Nê u có chút ma y may mong cầu đơ i sau thì là chẳng có lòng tin chân 17

thành, nguyê n thiê t tha. Đối với thê nguyê n cu a đư c A Di Đa sẽ bi cách trở, chẳng thể ca m ư ng đa o giao, không được Phâ t tiê p dẫn! Như vâ y la đã dùng diê u ha nh thù thắng chẳng thể nghĩ ba n, ta o tha nh phước nhân hữu lâ u (20) trong cõi Ngươ i, cõi Trơ i. Phâ t muốn qúi vi siêu phàm nhâ p thánh, qúi vi la i chi nguyê n được phước hữu lâ u. Một khi phước báo hê t, vĩnh viễn đoa trong các cõi ác. Khác nào dùng ngọc Ma Ni (21) để ném chim sẻ, được thì ít, mất quá nhiều. Chẳng tiê c lắm ư? Hãy tư nên ca nh ti nh! Va nữa lu c hưởng phước ắt sẽ ta o nghiê p. Đã ta o nghiê p ắt khó tra nh a c ba o. Như bỏ chất độc va o đề hồ (22) khiê n ngươ i uống vào pha i chê t. Kẻ chẳng khéo dụng tâm mắc hoa như thê. Pha i nên triê t để cắt đư t ý niê m ấy, mới ho ng được lợi i ch hoa n toa n nơi Ti nh Độ, toàn thân thọ dụng vâ y. Nguyê n thứ 20 của Phật A Di Đà: Khi tôi tha nh Phâ t, chúng sanh ở mươ i phương nghe danh hiê u tôi, tưởng cõi nước tôi, trồng các cội đư c, dốc lòng hồi hướng muốn sanh về nước tôi, nê u như kê t qu a không được toa i nguyê n, tôi không giữ ngôi Cha nh Đẳng Chánh Gia c. 18

Chương 4 PHƯƠNG PHÁP NIỆM PHẬT +I - Niệm Phật phải chí thành. Niệm phải khơ i tư tâm, tiếng pha t ra nơi miệng, âm thanh lo t va o tai, tư ng chư phân minh, tư ng câu chă ng lo an. Hoà thượng Thích Thiền Tâm dạy: Niê m Phâ t quí ở nơi pha t tâm chân thâ t. Điểm cốt yê u cu a sư niê m Phâ t la pha i niê m rõ ra ng, tâm bắt ki p tiê ng niê m (Nam mô A Di Đa Phâ t hay A Di Đa Phâ t), tâm va tiê ng dung ho a nhau. Nên biê t lúc hành gia khởi niê m, thì mỗi câu Phâ t hiê u đều đi sâu va o ta ng thư c (23). Khi sư c dồn chư a huân tâ p đã nhiều, câu niê m Phâ t từ nơi ta ng thư c phát hiê n ra trong lúc thư c hay ngu. Đây la ca nh giới không niê m tư niê m. Nê u bình thươ ng niê m rành rẽ, thì nó phát ra rành rẽ, niê m gia dối không rõ ràng, thì câu niê m Phâ t hiê n ra không rõ ràng. Vâ y nên pha i dè dặt ngay từ lu c đầu. Ấn Quang đại sư dạy: Phương pha p dụng công niê m Phâ t hay nhất chính là: Nhiê p trọn 6 căn, ti nh niê m tiê p nối. Niê m pha i khởi từ tâm, tiê ng pha t ra nơi miê ng, âm thanh lọt vào tai, từng chữ phân minh, từng câu chẳng loa n, lâu ngày chầy tháng sẽ tư thành phiê n. Nhiê p trọn sa u căn chi nh la : Tâm niê m Phâ t chuyên chú nơi danh hiê u Phâ t, tư c là thâu nhiê p ý căn. Miê ng pha i niê m 19

cho rõ ràng rành rẽ, tư c là thâu nhiê p thiê t căn. Tai pha i nghe cho rõ ràng rành rẽ, tư c là thâu nhiê p nhĩ căn. Gom 3 căn này vào Phâ t hiê u, thì 3 căn co n la i cũng bi thâu nhiê p: Mắt chẳng thể nhìn loa n, mũi chẳng thể rong ruổi theo bên ngoài, thân chẳng đê n nỗi phóng túng. Nê u có thể thươ ng nhiê p trọn sa u căn để niê m Phâ t thì gọi là ti nh niê m tiê p nối. Thươ ng giữ được ti nh niê m tiê p nối chính là nhất tâm bất loa n, dần dần sẽ đa t được niê m Phâ t Tam Muội (24). +II - Nhưng mới niệm Phật, ai cũng có vo ng niệm. Cốt sao phải sớm biết có vo ng tươ ng nổi lên, đư ng theo. Nếu có tín, nguyện, thì niệm Phật càng nhiê u, vo ng tươ ng càng giảm. Kinh Di Giáo chép: Niê m Phâ t pha i như mèo rình chuột Mèo rình chuột luôn luôn ti nh ta o, chu ý canh chừng. Chuột ra con nào, mèo vồ con đó. Cũng thê, trong khi niê m Phâ t, vọng tưởng vừa nổi lên thì pha i biê t để dẹp liền, đừng để nó cướp mất cha nh niê m. Ấn Quang đại sư dạy: Sơ tâm niê m Phâ t, lu c co n chưa tư chư ng tam muội, ai la i chẳng có vọng tưởng. Cốt sao tâm thươ ng giác chiê u, chẳng chuyển theo vọng. Nê u vọng tưởng nổi lên quá nhiều, thì nên áp dụng pháp Thâ p Niê m Ký Số. Vừa niê m Phâ t, vừa thầm ghi nhớ rành rẽ từ câu Phâ t hiê u thư nhất tới câu Phâ t hiê u thư mươ i, rồi trở la i từ câu thư nhất, cư như thê xoay vần mãi. 20

Nê u có tín nguyê n, niê m Phâ t lâu ngày, vọng niê m tư hê t (25). Sợ chê t, và chê t ma đoa va o a c đa o thì câu niê m Phâ t tư nhiên thuần, tất ca trần ca nh đều không thể cướp được chánh niê m. Hoà thượng Thích Thiền Tâm dạy: Ngươ i tu Ti nh Độ pha i chi tha nh tha thiê t cầu thóat ly cõi Sa Ba, mong sanh về miền Cư c La c, đừng quá nga i màng đê n ta p tưởng, chi nên niê m Phâ t hê t câu này tới câu khác, chánh niê m có được bao nhiêu hay bấy nhiêu, Niê m như thê lâu dần, tư nhiên ngư a ý sẽ quay về tàu (chuồng ngư a), vượn lòng lần lần va o động. Tiê p tục thư c ha nh như vâ y, thì chánh niê m sẽ hiển lộ rõ ràng, không cần ga n bỏ điều nhiê p, mà tư nhiên thành tư u. Hiểu được lẽ này thì chi nên niê m nhiều, đừng nga i ta n tâm. Như nước tuy bợn đục, lóng mãi tất sẽ tha nh trong. Ngươ i tuy ta p niê m nhiều, niê m Phâ t lâu tất sẽ thành chánh niê m. Pháp Nhiên Thượng Nhân dạy: Trong khi niê m Phâ t mà tâm vọng động là thông bê nh cu a tất ca ha ng pha m phu. Nhưng hễ ai có chí nguyê n vãng sanh mà niê m Phâ t thì tuyê t đối không chướng nga i. Nê u thươ ng xưng danh hiê u Phâ t thì do công đư c cu a Phâ t danh (26) vọng niê m tư dừng, tán loa n tư yên, ba nghiê p (thân, miê ng, ý) tư điều. Chẳng cần đê ý là tâm mình thiê n hay ác, tội chướng nặng hay nhẹ, mà chi nên dùng miê ng xưng Nam Mô A Di Đa Phâ t 21

và phát khởi cái tâm quyê t đi nh nương Phâ t thê nguyê n, chắc chắn vãng sanh. +III - Nếu tin sâu, nguyện thiết mà niệm Phật thì chắc chắn sẽ đươ c vãng sanh. Tuỳ theo trình đô niệm Phật của mình, ma có đươ c phẩm vị cao hay thấp. Ngẫu I ch đại sư nói: Được vãng sanh hay chăng la do có ti n nguyê n hay không, phẩm vi cao hay thấp là do hành trì sâu hay ca n. Tin sâu, nguyê n thiê t, nhưng lu c niê m Phâ t 1 - Tâm nhiều tán loa n thì được Ha Phẩm Ha Sanh. 2 - Tán loa n gia m thiểu thì được Ha Phẩm Trung Sanh. 3 - Chẳng tán loa n thì được Ha Phẩm Thượng Sanh. 4 - Niê m đê n Sư Nhất Tâm Bất Loa n. Tất ca ta p niê m đều dư t bặt, lu c na o cũng chi có một câu Phâ t hiê u hiê n tiền. Đoa n được kiê n hoặc, tư hoặc (27) chẳng khởi tham, sân, si, thì thuộc vào ba Phẩm Trung Sanh. 5 - Niê m tới Sư Nhất Tâm Bất Loa n, đoa n kiê n, tư hoặc, Đê n khi đoa n được trần sa hoặc (27) và hàng phục được một phần vô minh thì thuộc vào ba Phẩm Thượng Sanh. Ấn Quang đại sư dạy: Pha p Niê m Phâ t trọng ta i tín, nguyê n. Nê u có lòng tin chân thành, nguyê n tha thiê t. 1 - Niê m lư c tinh thuần, thì ngay trong hiê n đơ i cũng có thể chư ng Tha nh, lâm chung lên ngay thượng phẩm. 2 - Dù căn cơ hèn kém, chưa la m được như thê, tâm chưa được thanh ti nh, lu c lâm chung cũng được Phâ t ru lòng từ tiê p dẫn, đới nghiê p vãng sanh. Vì sao vâ y? Do chí tâm 22

niê m Phâ t la năng ca m, nên A Di Đa Phâ t liền năng ư ng. 3 -Thâ m chí kẻ pha m tội ngũ nghi ch, thâ p ác, lúc lâm chung tướng đi a ngục hiê n ra. Nê u tâm thư c chẳng mê, có thiê n tri thư c da y cho niê m Phâ t, ngươ i ấy sanh lòng sợ hãi, hổ thẹn, sám hối, dù chi niê m được mấy tiê ng rồi liền ma ng chung, cũng được vãng sanh. +IV - Chỗ tro ng yếu của pháp môn Niệm Phật là phải niệm cho thật nhiê u, dù ơ trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không quên niệm Phật. Muốn được đư c Phâ t A Di Đa tiê p dẫn về Cư c La c thê giới khi lâm chung, thì pha i hê t lòng mong muốn sanh về thê giới đó, rồi chí thành niê m Phâ t, cầu Phâ t tiê p dẫn. Muốn có phẩm vi cao thì pha i niê m Phâ t một lòng không loa n. Nhưng chu ng ta niê m Phâ t không được nhất tâm, ca ngày lo viê c này, mong chuyê n kha c, có được mấy lúc nhớ Phâ t, muốn được về gần Phâ t. Để dư t trừ vọng tưởng và tư nhắc mình luôn nhớ đư c A Di Đa Phâ t, hê t lòng mong muốn sanh về Cư c La c thê giới, ca c đa i sư Ti nh Độ cũng như Phâ t đã khuyên chu ng ta: Khi đi, đư ng, ngồi, nằm, không lúc nào quên niê m danh hiê u Phâ t A Di Đa. Dù ở bất cư hoàn ca nh na o cũng giữ cho câu Phâ t hiê u được liên tục. Nê u la m được như vâ y, thì lúc lâm chung chắc chắn vẫn giữ được chánh niê m va được vãng sanh ở phẩm vi cao. Tổ Pháp Nhiên dạy: Tuy biê t rằng một niê m cũng đu, nhưng gắng niê m cho 23

nhiều. Tin rằng một niê m cũng vãng sanh ma niê m suốt đơ i...v...v... Chỗ trọng yê u cu a xưng danh la để cho tâm niê m tương tục. Niê m Phâ t không ngớt miê ng la đu. Tổ Thiê n Đạo dạy: Xưng danh la ha nh dễ làm. Nê u có thể giữ mỗi niê m nối nhau, tu như vâ y suốt đơ i, thì mươ i ngươ i tu, mươ i ngươ i vãng sanh, trăm ngươ i tu trăm ngươ i về Cư c La c thê giới. Ngươ i ni êm Phâ t đi, đư ng, ngồi, nằm, pha i cố gắng nhiê p tâm, nga y đêm chớ rơ i Thánh hiê u, thề quyê t giữ đê n hơi thở cuối cùng. Như thê, tới lúc mãn phần, niê m trước vừa thọ chung, niê m sau liền sanh Cư c La c. Tổ Triê t Ngộ đưa ra 16 chữ cương yếu của pháp môn Tịnh Độ: Thật vì sanh, tử, Phát lòng Bồ Đề. Dùng tín nguyê n sâu, Tri danh hiê u Phật. Chấp trì danh hiê u Phâ t là giữ chắc Phâ t hiê u nơi lo ng, không quên. Nê u có một niê m gia n đoa n, hay xen ta p, thì không gọi là chấp trì. Đại sư Tử Bá dạy: Ngươ i chân thâ t niê m Phâ t, dù ở ca nh phiền não hay vui mừng, cũng giữ câu niê m Phâ t không gia n đoa n. Những ca nh ấy không la m lay động họ được, thì đối với ca nh sống chê t, họ vẫn tư nhiên không sợ hãi. Ngươ i niê m Phâ t đơ i nay, hơi có chu t chi mừng giâ n, thì 24

gác bỏ câu niê m Phâ t ra sau. Như thê làm sao mà niê m Phâ t được linh nghiê m? Nên y theo lơ i ta mà niê m Phâ t, dù ở ca nh thương ghét cũng đừng quên một câu A Di Đa. Nê u giữ đu ng như thê mà lúc hiê n tiền không được tư ta i, khi lâm chung không được vãng sanh Tây Phương, thì cuống lưỡi cu a ta pha i chi u tan na t. Kinh Ban Chu Tam Muội chép: Phâ t A Di Đa nói rằng: Niê m danh hiê u ta, không lúc nào dừng nghi thì được vãng sanh.`` V - Nếu quá bận rô n, nên áp dụng pháp Thập Niệm Hồi Hướng. Kinh Vô Lượng Thọ chép : Ca c chu ng Trơ i, Ngươ i, ai thành khẩn muốn sanh về Cư c La c quốc ma không la m được các viê c công đư c, phước thiê n: Hãy nên pha t tâm Vô Thượng Bồ Đề, thươ ng bữa chuyên ý niê m danh hiê u Phâ t A Di Đa cho đê n 10 niê m, mong được sanh về cõi nước cu a ngài. Nê u được nghe những giáo pháp sâu xa, nên mừng tin ưa, chẳng sanh nghi ngơ, thì dẫu một niê m, niê m danh Phâ t ấy, nhơ lòng chí thành, muốn sanh về Cư c La c quốc, đê n lúc lâm chung, ngươ i đó mộng thấy đư c Phâ t, cũng được vãng sanh. Đối với những ngươ i quá bâ n rộn công viê c, mỗi bữa chuyên ý niê m danh hiê u Phâ t 10 niê m, dễ hơn niê m Phâ t liên tục không lúc nào ngừng. Nhưng mỗi bữa đều chuyên ý được để niê m danh hiê u Phâ t 10 niê m cũng rất khó. Để giúp những ngươ i này vãng sanh về thê giới Cư c La c, các đa i 25

sư cu a tông Ti nh Độ đã khuyên họ nên áp dụng pháp Thâ p Niê m Hồi Hướng. Tổ Ấn Quang dạy: Như công viê c đa đoan, không rỗi ra nh, nên đi nh vào khoa ng sáng sớm, sau khi súc miê ng rư a mặt, có bàn thơ Phâ t, thì đê n trước bàn thơ lễ 3 la y, rồi đư ng thẳng chắp tay niê m: Nam mô A Di Đa Phâ t. Hê t một hơi la một niê m. Niê m đu 10 hơi. Tiê p đọc bài kê : Nguyê n cùng người niê m Phật, Đều sanh về Cực Lạc, Thấy Phật thoát sanh tử, Như Phật độ tất cả. Đọc kê xong, lễ Phâ t 3 la y, lui ra. Nê u không có bàn thơ Phâ t thì chắp tay hướng về phương Tây, cũng như ca ch thư c trên mà niê m. Đây la pha p Thâ p Niê m cu a ngài Từ Vân Sám Chu lâ p ra cho những ngươ i không đu thì giơ tu tâ p. Ta i sao pha i niê m luôn hê t một hơi? Vì tâm chu ng sanh ta n loa n, la i không ra nh để chuyên niê m. Niê m như thê la mượn hơi nhiê p tâm khiê n cho quy nhất. Nhưng pha i tuỳ hơi da i, ngắn, không nên ép, ép thì hao hơi. La i chi giữ đu 10 niê m, không nên niê m nhiều hơn, nhiều cũng hao hơi. Pha p na y làm cho tâm chuyên nhất, tuy số câu niê m Phâ t i t, nhưng công đư c rất sâu, quyê t đi nh sẽ sanh về Cư c La c. Tuân Thức đại sư dạy: Nê u la ngươ i có quá nhiều trách nhiê m, bâ n rộn liên miên, thì cũng nên da nh chút thì giơ tu môn Thâ p Niê m Hồi Hướng: Sớm mai thư c dâ y, thay quần áo xong, chắp tay 26

hướng về phương Tây ma niê m Phâ t. Niê m liền một hơi, mỗi hơi kể là một niê m, mươ i hơi kể la mươ i niê m. Khi niê m, không kể số câu nhiều hay ít, chi tuỳ theo hơi thở dài hay ngắn mà thôi. Mục đi ch cu a viê c la m na y la mượn hơi, nhiê p tâm. Niê m Phâ t xong xuôi, liền hồi hướng mà nguyê n rằng: Con là...phát tâm Bồ đề, một lòng qui ma ng Phâ t A Di Đa, cầu sanh Cư c La c. Xưa Phâ t lâ p thê : Nê u chúng sanh nào muốn về nước ta, xưng danh hiê u ta, trong vòng 10 niê m, mà chẳng được sanh, ta không thành Phâ t. Nay con nguyê n nhơ thê lư c cu a Phâ t, tội diê t, phúc sanh. Đê n lúc lâm chung, biê t ngày giơ trước, Phâ t cùng thánh chúng tiê p dẫn vãng sanh, ngộ được Phâ t thừa, phân thân vô số, cư u khắp muôn loa i, đồng sanh Tây phương, lên ngôi bất thoái. Nê u có thơ Phâ t, nên quỳ trước bàn thơ mà niê m. Nhưng khi mới va o va khi lui ra đều pha i lễ 3 la y. Môn Thâ p Niê m Hồi Hướng na y la phương pha p thiê t yê u cu a tiên đư c. Nê u chi u khó tu tâ p như thê, trọn đơ i không bỏ ngày nào thì quyê t đi nh sẽ được vãng sanh. VI Cảnh giới phát hiện Hoà thượng Thích Thiền Tâm dạy : " Trong khi tu nê u thấy ca c tướng la hiê n ra, đừng lưu ý. Cư tiê p tục dụng công, như ngươ i lữ hành thấy ca nh bên đươ ng, nhưng vẫn tiê n bước để mau về nhà. Ngươ i kém phước đư c mới niê m Phâ t thươ ng thấy ca nh giới dữ. Trì niê m lâu nga y a c tướng tiêu tan sẽ thấy ca c điềm lành. Ngươ i tu dụng công tới một trình độ na o đó, tư nhiên 27

ca nh giới tốt hiê n ra. Đừng mơ tưởng tham luyê n. Nê u để lo ng mơ tưởng mong ước đê n cuồng vọng, hay nghĩ rằng mình đã chư ng đắc ắt sẽ bi ma phá, hỏng ca một đơ i tu. " 28

Chương 5 NGHI THỨC NIỆM PHẬT I - Nghi thức thông thường. Tổ Ấn Quang dạy: Theo nghi thư c ở Niê m Phâ t Đươ ng cu a các chùa thì trước tụng kinh A Di Đa. Kê tụng 3 biê n chú Vãng Sanh, (28) đọc bài kê khen Phâ t. (29) Đê n cuối bài quì niê m Nam Mô Tây Phương Cư c La c Thê Giới Đa i Từ Đa i Bi A Di Đa Phâ t, rồi đư ng dâ y đi quanh ba n thơ mà niê m Phâ t. Phép đi nhiễu quanh pha i từ Đông qua Nam, Tây qua Bắc. Đó gọi là thuâ n, là tuỳ hỷ, va như thê mới có công đư c. Đi nhiễu quanh niê m Phâ t được một lúc, rồi ngồi xuống niê m thầm, ước một khắc la i niê m ra tiê ng. Khi sắp xong, quỳ niê m Phâ t 10 câu, Quán Thê Âm Bồ Ta t, Đa i Thê Chí Bồ Tát, Thanh Ti nh Đa i Ha i chúng Bồ Tát (30), mỗi thánh hiê u 3 lần. Kê đọc ba i văn pha t nguyê n (31). Tụng: Tư quy y Phâ t, xin nguyê n chúng sanh thể theo đa o ca, pha t lo ng Vô Thượng. Tư quy y Pháp, xin nguyê n chúng sanh thấu rõ kinh ta ng, trí huê như biển. Tư quy y Tăng, xin nguyê n chúng sanh thống lý đa i chúng hê t thẩy không nga i. Rồi lễ Phâ t, lui ra. Ngươ i ta i gia, nê u chỗ thơ Phâ t châ t hẹp, khó đi vi nhiễu, thì quỳ, đư ng, hoặc ngồi niê m cũng được. Tóm la i pha i tuỳ theo ca nh duyên, tinh thần, sư c khoẻ cu a mỗi ngươ i ma đi nh. 29

Nghi thư c niê m Phâ t nên tuỳ sư thích hợp riêng cu a mỗi ngươ i mà lâ p. Nê u nhơ ngươ i khác lâ p pháp thư c cho, e không được hoàn ha o. Sau mỗi thơ i niê m Phâ t nên hồi hướng cho tất ca oan gia đơ i trước được hưởng công đư c ấy sanh về cõi lành. Ngươ i niê m Phâ t pha i sư a trừ tâm tánh xấu xa. Sám hối rất thích hợp với pháp môn Niê m Phâ t. Nhưng đã sa m hối thì pha i sư a đổi lỗi lầm, làm lành. Nê u không, thành ra nói suông, chẳng được lợi i ch. II - Chú ý. Phần quan trọng nhất trong Nghi Thư c Niê m Phâ t là: Niê m Phâ t và Phát Nguyê n. Những phần khác chi là trợ ha nh mà thôi. Tuỳ theo sở thích và hoàn ca nh cu a mỗi ngươ i mà có thể thêm hay bớt. Ví dụ : Nghi thức niệm Phật đơn giản của lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam - Niê m 3 danh hiê u sau đây, mỗi danh hiê u niê m 01 lần, la y 01 la y : Nam mô Mươ i Phương Thươ ng Trụ Tam Ba o. Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phâ t. Nam mô Tây Phương Cư c La c Thê Giới Đa i Từ Đa i Bi A Di Đa Phâ t. - Niê m danh hiê u đư c Phâ t A Di Đa từ 100, đê n ngàn, va n câu (từ i t tăng lên nhiều). - Niê m các danh hiê u sau đây, mỗi lần niê m lễ 01 la y: Nam mô A Di Đa Phâ t 10 lần. Nam mô Quán Thê Âm Bồ Tát 03 lần. Nam mô Đa i Thê Chí Bồ Tát 03 lần. Nam mô Thanh Ti nh Đa i Ha i Chúng Bồ Tát 03 lần. Phát nguyê n. Lễ 03 la y, rồi lui ra. 30

Chương 6 LÒNG THÀNH KÍNH Người tu pha p môn niệm Phật phải có lo ng tha nh ki nh Ấn Quang đại sư dạy:. Pháp Niê m Phâ t thâ t rất gia n di, rất rộng lớn (32), nhưng pha i khẩn thiê t, chi tha nh đê n cùng cư c, mới hòng ca m ư ng đa o giao, được lợi ích thâ t sư ngay trong đơ i này. Nê u lươ i nhác, biê ng trễ, không ma y may kính nể, dù gieo được viễn nhân, vẫn mắc tội khinh nhơ n chẳng thể tưởng tượng nổi. Muốn hưởng lợi ích thâ t sư từ Phâ t pháp, pha i cầu nơi cung kính. Ca c thư tu trì ( Lễ la y, tụng kinh, trì chu, niê m Phâ t, pha t nguyê n, sa m hối... ) đều pha i lấy thành kính làm chu. Nê u tha nh ki nh đê n cùng cư c thì công đư c như trong kinh nói: Còn ở đi a vi pha m phu chưa thể viên đắc, nhưng sở đắc cũng đã khó nghĩ ba n. Nê u không thành kính, có khác chi hát tuồng. Những trò khổ, sướng, buồn, vui, đều là gia trang, chẳng phát xuất từ bên trong. Dù có công đư c, cũng không thể vượt qua ca i phước si ám cu a cõi Ngươ i, cõi Trơ i. Nhưng do ca i si phước ấy, ắt sẽ ta o ác nghiê p, gây ra cái khổ tương lai. Ngươ i niê m Phâ t hãy nên cung kính, chí thành, từng chữ, từng câu, trong tâm niê m cho rõ ràng, rành ma ch, miê ng 31

niê m cho rõ ràng rành ma ch. Nê u la m được như thê, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niê m, nhưng cũng chẳng đê n nỗi qua đa ng. Có những kẻ chi mong lẹ, mong nhiều, thuâ n miê ng niê m ào ào, cho nên không có hiê u qua! Nê u có thể nhiê p tâm thì mới gọi la ngươ i niê m Phâ t thư c sư. Thấy tượng Phâ t như thấy Phâ t sống. Coi kinh điển như xá lợi cu a Như Lai. Diê u Không đại sư dạy: Khi đối trước tượng Phâ t, pha i xem tượng ấy như Phâ t thâ t, mắt nhìn, tâm niê m, cung ki nh chi tha nh. Lu c không ở trước tượng, niê m Phâ t cũng nên tha nh ki nh như vâ y. Niê m Phâ t như thê rất dễ ca m thông, nghiê p a c cũng mau tiêu diê t. Trong kinh Lăng Nghiêm, chương Niê m Phật Viên Thông, đức Đại Thế Chí Bồ Tát đã dạy: Thâ p phương Như Lai thương tưởng chu ng sanh như mẹ nhớ con. Nê u con trốn tránh, thì tuy mẹ nhớ, nào có ích gì. Nê u con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, thì đơ i đơ i mẹ con không cách xa nhau. Nê u tâm chúng sanh nhớ Phâ t, niê m Phâ t, thì hiê n nay hay về sau, nhất đi nh thấy Phâ t, cách Phâ t chẳng xa. Không cần dùng phương tiê n chi khác mà tư được khai ngộ. Kinh Địa Tạng chép: Khi nghe danh hiê u hay thấy hình tượng cu a Đi a Ta ng Bồ Ta t, nên chi tâm cung ki nh. Vâ y thì khi nghe danh hiê u hay thấy hình tượng cu a Phâ t càng pha i chí tâm cung ki nh hơn. 32

Chương 7 KHI BỊ BỆNH I. Người niệm Phật bị bệnh khổ là do công phu tu hành, nên chuyê n quả báo nặng đời sau thành quả báo nhẹ đời nay. Từ Chiếu đại sư dạy: Ngươ i niê m Phâ t bi bê nh khổ là nhơ công đư c tu hành, nên chuyển qu a báo nặng đơ i sau (sanh vào 3 cõi ác ) thành qu a báo nhẹ đơ i nay, tra cho hê t để được vãng sanh. Nê u trở la i nghi ngơ, phi báng, là tư gây tội chướng cho mình II. Người niệm Phật có bệnh chỉ nên sanh Tín Tâm, niệm Phật cầu sanh Tây Phương, chă ng nên khơ i lên như ng ý niệm nào khác. Nếu tuổi tho chưa hết thì bệnh lành, nếu tuổi tho đa hết thì đươ c Phật tiếp dẫn vãng sanh. Ấn Quang đại sư dạy: Ca nh hiê n tuy có tốt, xấu. Chuyển biê n chi ta i nơi ta. Ca nh hiê n xấu mà chuyên tâm niê m Phâ t thì nhân dữ sẽ hoá lành, nghiê p a c đơ i trước trở thành vi đa o sư trong đơ i hiê n ta i. Tiê c vì ngươ i đơ i phần nhiều bi nghiê p ràng buộc, không biê t cách sư a đổi, nên thành ra ca nh té giê ng bi đa rơi theo. Khổ la i càng thêm khổ. Ngươ i phàm mắc bê nh thì dùng thuốc để tri, nhưng cũng 33

không nhất thiê t pha i dùng đê n thuốc. Nê u biê t cặn kẽ nguồn gốc căn bê nh, dược tánh, ma ch lý, rồi uống thuốc thì tốt. Nê u không chi uống thuốc A Già Đa (33) đã được đư c Phâ t thay ta bào chê sẵn thì bê nh cũng sẽ lành. Bê nh va ma đều do túc nghiê p mà thành. Thầy thuốc dù giỏi cũng chi tri đươc bê nh, không tri được nghiê p. Chi nên chí thành, khẩn thiê t niê m Phâ t, thì tư nhiên nghiê p chướng tiêu, phước, hụê, thẩy đều tăng trưởng. Lâu ngày các bê nh sẽ tư lành, ma tư rơ i xa. Nê u bê nh chẳng thể dùng thuốc tri, dù có thuốc tiên cũng vô dụng, huống hồ là thuốc cu a thê gian. Chẳng cần biê t là bê nh tri được hay không, đều nên dùng thuốc A Già Đa. Thư thuốc này tuyê t đối chẳng ha i ngươ i. Uống va o, dù thân hay tâm đều kiê n hiê u. Ngươ i niê m Phâ t có bê nh, chi nên sanh Tín Tâm, niê m Phâ t, cầu sanh Tây Phương, chẳng nên khởi lên những ý niê m nào khác. Va n đư c hồng danh cu a Phâ t A Di Đa giống như lo luyê n lớn lao. Tội nghiê p trong nhiều kiê p cu a mỗi ngươ i như một ma nh tuyê t trong hư không. Nghiê p lư c phàm phu do bởi niê m Phâ t nên bi tiêu diê t. Nê u tuổi thọ chưa hê t thì bê nh lành. Nê u tuổi thọ đã hê t thì được Phâ t tiê p dẫn vãng sanh, vì tâm không có niê m nào khác nên ca m ư ng đa o giao với Phâ t. Nê u cư mong khoẻ la i, nhưng chẳng được khoẻ la i, chắc chắn không ca ch chi được vãng sanh. Vì tham luyê n trần ca nh chẳng thể buông xuống, khiê n ca nh Ti nh Độ không hiê n ra được, mà ca nh tuỳ nghiê p, thọ sanh trong đươ ng thiê n ác la i hiê n. Ca nh hiê n liền theo nghiê p thọ sanh trong 34

đươ ng thiê n ác. Vãng sanh Tây Phương hoa tha nh ba nh vẽ! Huống hồ, lìa khỏi thê giới khổ não này, sanh về thê giới vui vẻ kia là chuyê n hê t sư c sung sướng. Hãy nên sanh tâm hoan hỷ. Ngàn va n lần không được sợ chê t. Dẫu sợ chê t vẫn chẳng thể không chê t, mà còn mất phần vãng sanh Tây Phương nữa. Quí vi tin được lơ i này thì sống cũng được đa i lợi ích, mà chê t cũng được đa i lợi i ch. 35

Chương 8 LÚC LÂM CHUNG I - Điê u cần thiết phải làm lúc lâm chung của người tu pháp môn niệm Phật Thiê n Đạo đại sư dạy: Pha m ngươ i lâm chung muốn vãng sanh Ti nh Độ thì chẳng được sợ chê t, thươ ng nghĩ ba o thân na y la đẫy da đư ng đầy đồ nhơ nhớp ( phân, nước tiểu...). Nó la gốc cu a tất ca sư khổ lụy. Nê u thoa t được thân dơ bẩn này, siêu sanh Ti nh Độ, có thân đẹp đẽ, thanh ti nh, bất hoa i, hưởng vô lượng vui, thoát khổ sanh tư, thì thâ t la điều vừa ý, như cởi ca i a o ra ch, đổi lấy y phục qúy báu. Hãy nên buông thân, tâm xuống, đừng sanh lòng luyê n tiê c! Chi hê t lòng niê m Phâ t, cầu được vãng sanh." Tổ Pháp Nhiên nói : Kha ch đi buôn chơ trơ i sa ng, nghe tiê ng ga ga y thì mừng. Ngươ i niê m Phâ t ưa Ti nh Độ, gặp bê nh họan la i vui. II - Bổn phận của như ng người thân của người bệnh. 1 - Khi bệnh nă ng, không chữa được nữa. Ấn Quang đại sư dạy: Nê u ai có cha, mẹ, anh, chi, em, hay quyê n thuộc mắc pha i bê nh nặng, bê nh tình khó bề thuyên gia m, thì: Hãy nên phát tâm hiê u thuâ n, từ bi, khuyên họ niê m Phâ t cầu sanh Tây Phương. Trợ niê m cho họ, mong ngươ i bê nh nhơ đó, được 36

sanh về Ti nh Độ nê u số ma ng đã tâ n. (34) Đây la 3 điều trọng yê u để thành tư u sư vãng sanh cho ngươ i lâm chung : a - Khuyên người bệnh chi tha nh niệm Phâ t câ u va ng sanh. Khéo léo chi da y, an u i, khiê n ngươ i sắp mất sanh chánh tín. Thiê t tha khuyên ngươ i bê nh buông xưống hê t thẩy, chi nhất tâm niê m Phâ t, cầu được vãng sanh. Nê u cần giao phó viê c gì, thì pha i mau giao phó. Giao phó xong rồi thì chẳng đê m xi a đê n nữa. Chi nghĩ: Ta nay sắp theo Phâ t vãng sanh cõi Cư c La c. Tất ca sư giầu sang, vui sướng, quyê n thuộc thê gian, các thư trần ca nh đều la chướng nga i, thâ m chí khiê n ta mắc ha i. Nê u trong lúc lâm chung, nhất tâm niê m Phâ t, cầu sanh Tây Phương, thì do tâm niê m Phâ t chí thành ấy, ắt quyê t đi nh ca m được Phâ t dấy lòng từ bi lớn lao, đi ch thân tiê p dẫn, khiê n cho ta được vãng sanh. Nê u chẳng niê m Phâ t, thì sẽ pha i thuâ n theo nghiê p lư c thiê n, a c, để la i thọ sanh trong các nẻo la nh, đươ ng ác (35) b - Mọi người thay phiên hộ niệm để giúp tịnh niệm cho người bệnh. Tuy đã chi da y cho ngươ i bê nh khiê n họ sanh chánh tín. Nhưng ngươ i bê nh tâm lư c yê u ớt. Đừng nói chi ha ng ngươ i khoẻ ma nh, chưa bao giơ niê m Phâ t, chẳng dễ gì niê m liên tục lâu da i được. Ngay ca ngươ i chuyên niê m Phâ t đê n lúc ấy cũng hoa n toa n nhơ va o ngươ i khác trợ niê m thì mới có thể 37

hữu hiê u. Vì vâ y, quyê n thuộc trong nhà hãy nên cùng nhau phát tâm hiê u thuâ n, từ bi, vì ngươ i bê nh, trợ niê m Phâ t hiê u. Nê u không biê t ngươ i bê nh sẽ chê t lúc nào, thì nên chia ban hộ niê m, để cho tiê ng niê m Phâ t được liên tục. Chẳng nên niê m quá mau, cũng chẳng nên quá châ m. Tiê ng niê m Phâ t chẳng lớn, chẳng nhỏ. Từng chữ phân minh, từng câu rành ma ch, khiê n cho từng chữ, từng câu, lọt vào tai, thấm vào tâm bê nh nhân. Lúc bắt đầu thì niê m vài câu 6 chữ Nam Mô (36) A Di Đa Phâ t, sau đó niê m 4 chữ A Di Đa Phâ t. Vì ít chữ, bê nh nhân dễ nhiê p tâm nghe, và niê m theo, đỡ tốn tâm lư c. c - Tránh dời, động, thăm hỏi, khóc lóc. Lu c ngươ i bê nh sắp tắt thở, chính là lúc phân biê t giữa thánh, trơ i, ngươ i, súc sanh, ngã quỷ va đi a ngục. Tình tra ng khác nào ngàn cân treo sợi tóc, quan trọng cùng cư c. Chi nên dùng Phâ t hiê u để nhắc nhở ngươ i đó niê m theo. Không nên đối trước ngươ i ấy ma thăm hỏi, vỗ về, lộ vẻ buồn bã, khóc lóc. Không được dơ i chỗ nằm, sư a cách nằm, thay quần áo, tắm rư a ngươ i bê nh. Chẳng nên dơ i, động chu t na o. Vì khi đó, ngươ i hấp hối chẳng thể tư chu được. Hễ bi lay động là toàn thân đều bi đau đớn, như bi bẻ, chặt, giằng, xé. Nê u đau đớn thì sanh tâm sân hâ n, tâm niê m Phâ t bi ngưng đư t. Mang tâm sân hâ n ra đi, phần nhiều bi đoa vào những loài hung dữ, độc ha i như rắn, bò ca p, rê t... Ca nhà pha i chuyên tâm niê m Phâ t. Tiê ng niê m không ngớt khiê n tai ngươ i bê nh luôn nghe Phâ t hiê u. Nhơ vào Phâ t từ lư c, ngươ i bê nh được vãng sanh Tây Phương... 38

2 - Sau khi người bệnh tă t thơ. Hoà thượng Thích Thiền Tâm dạy: Thuyê t thăm do hơi nóng tuy có chư ng cư (37), song cũng không nên câu chấp, thăm do khiê n cho thần thư c ngươ i chê t chưa rơ i khỏi xác, có thể bi kích thích, sanh tâm phiền, đau, nên không được vãng sanh, có ha i rất nhiều. Nê u ngươ i chê t bình thươ ng tín nguyê n chân thiê t, khi lâm chung chánh niê m rõ ràng, có thể chư ng nghiê m là vãng sanh (38). Sau khi bê nh nhân tắt hơi vẫn pha i tiê p tục trợ niê m thêm 8 giơ nữa để cho sư vãng sanh được ba o đa m. Ấn Quang đại sư dạy: Khi chê t, nê u thân co n có chỗ ấm, thần thư c (linh hồn) chưa đi, động đê n, ngươ i chê t vẫn biê t đau khổ. Đợi tới khi toa n thân ngươ i chê t đã la nh hê t, tư c là thần thư c đã đi rồi, niê m Phâ t thêm hai giơ nữa mới được di dơ i xa c ngươ i đó. Viê c tang tê, pha i dùng toa n đồ chay. Làm phâ t sư, chi nên niê m Phâ t. Ca nhà cùng khẩn thiê t niê m theo. Viê c chôn cất đừng phô trương, bầy vẽ. Nê u có tiền cu a, thì hãy ta o nhiều công đư c như: Phóng sanh, in kinh, đu c tượng Phâ t, Bồ Ta t, cu ng dươ ng chư tăng, bố thí cho những ngươ i nghèo khó v...v... Hồi hướng công đư c cho ngươ i chê t va chu ng sanh trong sa u cõi. Thi nh chu ng tăng tụng niê m trong 7 tuần thất rất tốt. Khi đó, ngươ i thân cũng pha i tụng niê m theo. 39

THỰC HA NH PHÁP MÔN NIỆM PHẬT - Muốn thoát khỏi sanh tử luân hồi ngay trong đời này thì phải tu pháp môn Niệm Phật. - Muốn tu pháp môn Niệm Phật có kết quả tốt thì: 1 - Phải tin: a - Cõi Sa Bà có nhiều điều khổ. Vì vâ y không tham luyê n thê gian. b - Vô thường không hẹn. Một khi chê t rồi, rất dễ bi đoa vào các cõi ác, chi u khổ lâu dài, không biê t ngày nào ra khỏi, nên sanh tâm sợ hãi, pha i mau tìm cách thoát. c - Thế giới Cực Lạc có thâ t. Chúng sanh ở đó chi hưởng những điều vui, không chi u những sư khổ, nên hê t lòng mong muốn sanh về cõi ấy. d - Lời nguyện của đức A Di Đa không hư dối. Mình có chí nguyê n vãng sanh, Phâ t có lơ i thề tiê p dẫn. Vâ y mình niê m Phâ t cầu được sanh về thê giới Cư c La c, thì chắc chắn khi lâm chung Phâ t sẽ tới đón. 2 Phải lập thời khóa tu niệm Phật và pha t nguyện. a - Niệm Phâ t : Chân tha nh, khẩn thiê t, tâm niê m, miê ng niê m, tai nghe từng chữ, từng câu thâ t rành ma ch rõ ràng. Nê u vọng tưởng nổi lên, đừng theo. Thơ i gian niê m Phâ t lâu hay mau, tuỳ theo kha năng cu a mỗi ngươ i. b - Phát nguyện : Nguyê n đem công đư c niê m Phâ t xin đư c A Di Đa tiê p dẫn mình về thê giới Cư c La c khi ma ng chung để thoa t khổ luân hồi, mau tha nh Cha nh Gia c, trở la i 40

Sa Ba hoa độ chu ng sanh.tâm nguyê n này pha i chí thành, tha thiê t. Đây la điều kiê n cần thiê t nhất để được vãng sanh. Cũng nên đem công đư c niê m Phâ t hồi hướng cho những oan gia, những ân nhân cu a mình, cùng tất ca chúng sanh trong 6 cõi. c - Nếu quá bâ n rộn: A p dụng pháp Thâ p Niê m Hồi Hướng. Mỗi bữa qùy trước tượng Phâ t, hay quay mặt về hướng Tây, chắp tay, chí thành niê m 10 hơi Nam Mô A Di Đa Phâ t, rồi phát nguyê n xin được vãng sanh. 3 - Ngoài thời khoá niệm Phật. Khi đi, đư ng, ngồi, nằm, không lúc nào quên niê m Phâ t, trừ những lúc cần pha i dụng tâm làm viê c. Lu c bình thươ ng, niê m Phâ t ra tiê ng hay niê m thầm, tuỳ ý. Nhưng khi nằm, khi loã thể như tắm rư a, thay quần áo hay ở những nơi bất ti nh như đi đa i, tiểu tiê n, pha i niê m thầm, nê u niê m ra tiê ng thì mắc lỗi không cung kính. 4 - Làm bất cứ việc gì. La m bất cư viê c gì, thiê n thì hồi hướng cầu vãng sanh, ác thì sám hối (39) cầu vãng sanh. Tuyê t đối không cầu những lợi ích thê gian. 5 - Lập di chúc 6 - Tìm người hộ niệm lúc lâm chung. 7 - Khi bị bệnh. Khi bi bê nh, không cầu khỏi bê nh, không sợ chê t. Chi nên sanh Tín Tâm, niê m Phâ t, cầu sanh Tây Phương. Chẳng nên khởi lên những niê m nào khác. Làm như vâ y, nê u số ma ng chưa hê t thì bê nh mau lành, nê u số ma ng đã tâ n thì chắc chắn sẽ được vãng sanh. 8 - Dă n người thân những điều cần làm 41

a Khi lâm chung. - Khi lâm chung ngươ i nhà nên khuyên bê nh nhân buông hê t thân, tâm, một da niê m Phâ t để cầu vãng sanh. - Đặt hình Phâ t A Di Đa nơi bênh nhân dễ nhìn thấy. - Trợ niê m khiê n cho bê nh nhân nương theo để tư niê m Phâ t, và ghi nhớ câu Phâ t hiê u trong tâm. Tiê ng niê m Phâ t liên tục nga y, đêm không ngớt. Tai ngươ i bê nh luôn nghe Phâ t hiê u, quyê t đi nh nhơ vào Phâ t từ lư c vãng sanh Tây Phương. - Không thăm hỏi khóc lóc, động cha m hay tư ý sư a thê nằm, dơ i chỗ nằm cu a bê nh nhân. - Khi bê nh nhân hấp hối khó thở, khuyên ngươ i ấy: Phâ t A Di Đa đang phóng quang nhiê p thọ, pha i cố gắng niê m Phâ t va theo nga i về Tây Phương. Mọi ngươ i niê m rõ ràng từng chữ, châ m theo nhi p thở cu a bê nh nhân để bê nh nhân dễ niê m theo. b - Sau khi người bệnh tắt thở. - Khi bê nh nhân đã tắt thở vẫn tiê p tục trợ niê m thêm 8 giơ nữa va không động va o xa c chê t. Nhắc thần thư c ngươ i ấy là họ đã chê t, pha i buông bỏ tất ca, chí thành niê m danh hiê u Phâ t A Di Đa và theo nga i về Tây Phương. - Khi toa n thân ngươ i chê t đã la nh hê t tư c là thần thư c đã đi rồi, nên trợ niê m thêm 2 giơ nữa, mới dơ i xa c ngươ i đó. - Viê c tang tê pha i dùng đồ chay. Nê u có thể, nên ta o các công đư c, hồi hướng cho ngươ i chê t va chu ng sinh trong sa u cõi. La m Phâ t sư chi nên niê m Phâ t. 42

CHÚ THÍCH (1) Năm tướng suy hao: Kinh Niê t Ba n, quyển 19 chép: Thi ch Đề Hoa n Nhân ma ng sống sắp hê t có 5 tướng này hiê n ra: Hoa trên mũ khô héo. Y phục dơ bẩn. Thân thể hôi ha m. Na ch ra mồ hôi. Không ưa chỗ ngồi. Trong kinh Đia Ta ng Bồ Ta t Bổn Nguyê n, do Hoa Thượng Thi ch Tri Ti nh di ch, phần Chu Thi ch chép: Khi một vi Trơ i số thọ sắp mãn, có 5 tướng na y hiê n ra : Hoa trên mũ khô héo. Mất ha o quang nơi thân. Mình ri n chất hôi. Ơ không an. Quyê n thuộc nha m la nh. (2) Â m la ngăn che. Năm ấm la : 1 - Sắc ấm: Thân thể cu a chu ng ta. 2 - Thọ ấm: Khi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, tiê p xúc với sắc, thanh, hương, vi, xúc, pháp, sanh ra ca c ca m gia c hoặc khổ, hoặc sướng, hoặc vui, hoặc buồn, hoặc không khổ, không vui v.v... Những ca m gia c đó gọi la thọ. 3 - Tưởng ấm: Tâm tưởng cu a chúng ta. Khi chúng ta ngồi la i, nhất là ở chỗ vắng vẻ, liền nhớ la i hoặc nghĩ đê n một danh từ, một sư viê c, hay một hình a nh, liền khởi tưởng. 4 - Hành ấm: Gồm có thân ha nh, ngữ ha nh va ý ha nh la những ta o ta c cu a thân, miê ng va ý. 5 - Thư c ấm: là cái biê t nơi 6 gia c quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) Vi dụ: Khi mắt thấy sắc, liền phân biê t đẹp hay xấu. Khi tai nghe tiê ng, liền phân biê t trong hay đục. Khi lưỡi nê m vi, liền phân biê t ngon hay dở. 43

 n Quang đa i sư da y: Cõi Ngươ i có 8 nỗi khổ: 7 thư khổ đầu tiên: sanh, già, bê nh, chê t, thương pha i xa lìa, oán thù gặp gỡ, mong cầu không được, là qu a báo cu a đơ i quá khư. Nỗi khổ thư 8: là năm ấm (che lấp chân ta nh, như mây đen che mặt trơ i không cho a nh sa ng hiển lộ,) khởi hoặc gây nghiê p như ngọn lư a bốc cháy (nên gọi là lẫy lừng). Cái khổ thư 8 này là nhân khổ cu a đơ i vi lai. Nhân qua dây dưa, nối nhau không dư t, hê t kiê p này sang kiê p khác, chẳng thể thoát ly. (3) Phâ t giáo hiê n nay chia thành 2 thừa là Tiểu thừa va Đa i thừa. Thừa là cái xe, hàm ý chở ngươ i từ chỗ mê tới chỗ giác ngộ. - Tiểu thừa truyền về phía Nam nên còn gọi là Nam tông. Tiểu thừa cho rằng tu chi để gia i thoát cho chính mình thôi, nên vi như xe nhỏ chi chở được một ngươ i. Đa o qu a cao nhất mà hành gia có thể đa t được là A La Hán. Ngươ i tu ta i gia không thể đa t được đia vi này. - Đa i thừa được truyền về phía Bắc, nên còn gọi là Bắc tông. Đa i thừa cho rằng ai cũng có ta nh Phâ t, nên ai cũng có thể tu thành Phâ t. Ngươ i tu hành pha i vì mục đi ch độ mình và tất ca chúng sanh, nên vi như xe lớn chở được nhiều ngươ i. (4) Giới: Giới luâ t để ngăn ngưa, trừ diê t ca c a c nghiê p va tăng trưởng ca c thiê n nghiê p cu a thân, miê ng, ý. Đi nh: Thiền đi nh la m tâm ý vắng lặng, trong sa ch, không xao động. ( Không có vọng tưởng, không bi 6 trần lôi cuốn ) 44

Huê : Tri huê qua n suốt chân lý, dư t bỏ mê lầm. Tri huê na y không do học tâ p ma có. Nhân giới sanh đi nh, nhân đi nh pha t huê. (5) Triền phược: Triền là cuốn la i, phược là cột la i. Triền phược là tất ca những điều ràng buộc, chướng nga i ngươ i tu hành, chu yê u là những phiền não: Tham, sân, si, ma n, nghi, ác kiê n. (6) Bốn qu a thánh cu a Tiểu Thừa là: Sơ qua Tu Đa Hoàn, Nhi qua Tư Đa Hàm, Tam qua A Na Hàm và Tư qua A La Hán (7) Qu a vi Bồ Tát có 51 bâ c: 10 bâ c Tín, 10 bâ c Trụ, 10 bâ c Ha nh, 10 bâ c Hồi Hướng, 10 bâ c Đi a và bâ c thư 51 la Đẳng Giác. (8) Tây Phương: Cư c La c thê giới, ở phương Tây là thê giới cu a đư c phâ t A Di Đa. Kinh A Di Đa chép: Chu ng sanh ở đó không chi u những sư khổ, chi hưởng những điều vui. (9) Kinh Tượng Pha p Quyê t Nghi chép: Sau khi Phâ t Thi ch Ca diê t độ la thơ i Cha nh Pha p da i 500 năm: Trì giới kiên cố. Thơ i Tượng Pha p 1000 năm kê tiê p: Thiền đi nh kiên cố. Thơ i Ma t Pha p 10.000 năm kê tiê p: Niê m Phâ t kiên cố. Đư c Phâ t Thi ch Ca ha sanh năm 623 trước Dương li ch va nhâ p Niê t Ba n khi 80 tuổi. Như vâ y, hiê n nay chu ng ta đang ở trong thơ i Ma t Pha p. Ư c :Tư điển Viê t Pha p cu a Đa o Đăng Vy gia i thi ch : Ư c = 100 nga n. A Di Đa kinh yê u gia i cu a Sa Môn Tri Hu c (Ngẫu I ch đa i sư) gia i thi ch : Ư c = 10 triê u (10) Sa Bà gồm có 1000 triê u Thái Dương hê. Tra i Đất cu a chúng ta là 1 Hành tinh thuộc về 1 trong những Thái Dương 45