ABSTRACT

Tài liệu tương tự
1

(Microsoft Word - Ph? k\375 t?c \320?A TH? PHONG2)

Microsoft Word - trachvuphattutaigia-read.docx

Bạn Tý của Tôi

LỜI GIỚI THIỆU Chia sẽ ebook : Tham gia cộng đồng chia sẽ sách : Fanpage : C

VỊ TRÍ CỦA VIỆT NAM TRONG THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI HOÀN CẢNH LỊCH SỬ CỦA CỘNG ĐỒNG QUỐC GIA CỘNG SẢN VÀ SỰ PHÂN CHIA LÃNH THỔ ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN CỦA DÂN TỘ

ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN Giảng giải: Đại Sư Ấn Quang Việt dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa PHẦN MƯỜI TÁM 17

Binh pháp Tôn Tử và hơn 200 trận đánh nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc Chia sẽ ebook : Tham gia cộng đồng chia sẽ sá

19/12/2014 Do Georges Nguyễn Cao Đức JJR 65 chuyễn lại GIÁO DỤC MIỀN NAM

73 năm trôi qua, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã cho thấy bài học đoàn kết, lấy dân làm gốc có ý nghĩa sâu sắc. Những ngày mùa Thu tháng Tám của

Microsoft Word - T? Thu Ngu Kinh v?i v?n d? giáo d?c gia dình.doc

12/22/2015 nhantu.net/tongiao/4thu5kinh.htm Tứ Thư Ngũ Kinh với vấn đề giáo dục gia đình Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ I. KINH DỊCH VỚI GIA ĐÌNH II. KINH THƯ

ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN Giảng giải: Đại Sư Ấn Quang Việt dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa PHẦN MƯỜI HAI 19

Ngô Thì Nhậm, Khuôn Mặt Trí Thức Lớn Thời Tây Sơn Nguyễn Mộng Giác Nói theo ngôn ngữ ngày nay, Ngô Thì Nhậm là một nhân vất lịch sử gây nhiều tranh lu

193 MINH TRIẾT KHUYẾN THIỆN - TRỪNG ÁC VÌ HÒA BÌNH CỦA PHẬT GIÁO HIỂN LỘ QUA VIỆC THỜ HAI VỊ HỘ PHÁP TRONG NGÔI CHÙA NGƯỜI VIỆT Vũ Minh Tuyên * Vũ Thú

Kinh Bat Chu Tam Muoi - HT Minh Le Dich

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG NGUYỄN NGỌC QUANG HẦU ĐỒNG TẠI PHỦ THƯỢNG ĐOẠN, PHƯỜNG ĐÔNG HẢI 1, QUẬN HẢI AN, TH

Thử bàn về chiến lược chiến thuật chống quân Minh của vua Lê Lợi Tìm hiểu Thế chiến thứ Hai cùng chiến tranh Triều Tiên, người nghiên cứu lịch sử khâm

Pháp ngữ của hòa thượng Tuyên Hóa - Phần 2

MỘT CÁCH NHÌN VỀ MƯỜI BA NĂM VĂN CHƯƠNG VIỆT NGOÀI NƯỚC ( ) (*) Bùi Vĩnh Phúc Có hay không một dòng văn học Việt ngoài nước? Bài nhận định dướ

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG NGUYỄN DOÃN ĐÀI QUẢN LÝ DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA ĐÌNH HUỀ TRÌ, XÃ AN PHỤ, HUYỆN KIN

KHUYÊN NGƯỜI NIỆM PHẬT

Tần Thủy Hoàng Tần Thủy Hoàng Bởi: Wiki Pedia Tần Thủy Hoàng Hoàng đế Trung Hoa Hoàng đế nhà Tần Trị vì 221 TCN 210 TCN Tiền nhiệm Sáng lập đế quốc Tầ

ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TĂNG QUẢNG CHÁNH BIÊN ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TĂNG QUẢNG CHÁNH BIÊN Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa Giảo chánh: Minh

Ác cầm, nắm Tráp đối xử Ỷ ỷ lại Uy uy quyền Vi hành vi 1 2 Vĩ vĩ đại Vi sai khác Duy buộc Vĩ vĩ độ Nhất số một 2 3 Dụ củ khoai Â

Cúc cu

TÁM QUY LUẬT CỦA NGƯỜI PHIÊN DỊCH KINH ĐIỂN PHẬT HỌC 1. Người dịch phải tự thoát mình ra khỏi động cơ truy tìm danh lợi. 2. Người dịch phải tu dưỡng t

Chương 16 Kẻ thù Đường Duyệt càng hoài nghi, không rõ họ đang giấu bí mật gì. Tại sao Khuynh Thành không ở bên cạnh nàng, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì

Hãy để mọi chuyện đơn giản - Tolly Burkan

Microsoft Word - hong vu cam thu.doc

Microsoft Word - Tu vi THUC HANH _ edited.doc

Microsoft Word - LTCC_86BPT_F2_2.doc

Niệm Phật Tông Yếu

Phân tích bài thơ Xuất Dương lưu biệt của Phan Bội Châu

Công chúa Đông Đô, Hoàng hậu Phú Xuân Nàng là ai? Minh Vũ Hồ Văn Châm LGT: Bác sĩ Hồ Văn Châm là Cựu Tổng Trưởng Bộ Cựu Chiến Binh, Cựu Tổng Trưởng Bộ

Phân tích tác phẩm Một người Hà Nội (Nguyễn Khải) – Văn mẫu lớp 12

Kính thưa Quý Độc Giả các Diễn Đàn, TCDV vừa nhận được bài viết này do chiến hữu Đỗ Như Quyên, binh chủng BĐQ/QLVNCH, hiện đang sinh sống tại Hạ Uy Di

Con Đường Khoan Dung

Mở đầu

HỒI I:

Microsoft Word TÀI LI?U GIÁO D?C CHÍNH TR? TU TU?NG P2.doc

HƯỚNG ĐẠO, CHỈ THẾ THÔI! Lý thuyết và thực hành dành cho các Trưởng Hướng Đạo Nam và nữ. Hướng Đạo, đơn giản thế thôi! 1

VÀI SUY NGHĨ VỀ : VIỆN NGHIÊN CỨU KHỔNG TỬ TẠI VIỆT NAM Trần Văn Chinh I.- SƠ LƯỢC VỀ KHỔNG TỬ : Khổng Tử ( trtc), người làng Xương-bình, phủ D

ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH

KINH THUYẾT VÔ CẤU XỨNG

Công Chúa Hoa Hồng

LỜI TỰA Sau khi cuốn sách Kinh nghiệm thành công của ông chủ nhỏ đầu tiên của tôi được phát hành, không ngờ chỉ trong vòng nửa năm đã có tới hơn một t

PHÓNG SANH VẤN ĐÁP

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG NGUYỄN THỊ ĐÔ YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM VÀ THANH TỊNH Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số:

Layout 1

Nhung Bai Giang Bat Hu cua Cha - Gioan Maria Vianney.pdf

THÍCH CA PHƯƠNG CHÍ Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch

Quản Lý Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy, anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên

(Microsoft Word - 4_Vuong NC-T\ doc)

PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA

TRUNG TÂM QLBT DI SẢN VĂN HÓA PHÒNG QUẢN LÝ DI TÍCH CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc 1. Tên gọi 2. Loại hình Phiếu kiểm

Con đường lành bệnh Tác giả: H. K. Challoner Việc chữa bệnh bằng những phương pháp khác y khoa thông thường hiện đang thịnh hành, nên tác phẩm The Pat

Code: Kinh Văn số 1650

Thuyết minh về Nguyễn Du

365 Ngày Khai Sáng Tâm Hồn Osho Chia sẽ ebook : Tham gia cộng đồng chia sẽ sách : Fanpage :

Cái ngày thay đổi cuộc đời tôi Lời nói đầu Sau khi bước sang tuổi 25 không bao lâu, tôi gặp một người đàn ông tên là Earl Shoaff. Thực sự, tôi đã khôn

PHÁP MÔN TỊNH ÐỘ HT. Trí Thủ ---o0o--- Nguồn Chuyển sang ebook Người thực hiện : Nam Thiên Link A

AN SĨ TOÀN THƯ AN SĨ TOÀN THƯ ÂM CHẤT VĂN QUẢNG NGHĨA KHUYÊN NGƯỜI TIN SÂU NHÂN QUẢ QUYỂN THƯỢNG Tác giả: Chu An Sĩ Việt dịch: Nguyễn Minh Tiến LỜI TỰ

CHƯƠNG 1

Chuyên đề năm 2017: Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tự

LÔØI TÖÏA

Microsoft Word - giao an van 12 nam 2014.docx

Mở đầu

Microsoft Word - doc-unicode.doc

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ TÒA THÁNH TÂY NINH 孔 ĐỨC KHỔNG TỬ GIÁO CHỦ NHO GIÁO Tùng Thiên TỪ BẠCH HẠC 子 tài li ệ u sư u tầ m 2015 hai không một năm

Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du

Microsoft Word - 49-E-PHE-SO.docx

Microsoft Word - doc-unicode.doc

1 Triệu Châu Ngữ Lục Dịch theo tài liệu của : Lư Sơn Thê Hiền Bảo Giác Thiền Viện Trụ Trì Truyền Pháp Tứ Tử Sa Môn Trừng Quế Trọng Tường Định. Bản khắ

Phần 1

KINH TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG CÓ PHẢI LÀ CUỐN KINH ĐẦU TIÊN ĐƯỢC DỊCH TẠI TRUNG QUỐC KHÔNG? HẠNH CƠ Nguồn Chuyển sang ebook 2

ĐÈ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 1050 NĂM NHÀ NƯỚC ĐẠI CỒ VIỆT ( ) I. BỐI CẢNH RA ĐỜI NHÀ NƯỚC ĐẠI CỒ VIỆT - Sau chiến thắng đánh tan quân Nam Hán

ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN Giảng giải: Đại Sư Ấn Quang Việt dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa PHẦN MƯỜI NĂM II

LỜI NÓI ĐẦU Ebook miễn phí tại : Khi tình yêu đồng nghĩa với đau khổ, nghĩa là bạn đang yêu mù quáng. Khi phần lớn những cuộc trò chuy

Microsoft Word - doc-unicode.doc

Phong thủy thực dụng

Cảm nhận về “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu

Microsoft Word - hbthao-ChientranhPhapThanh.doc

ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN Giảng giải: Đại Sư Ấn Quang Việt dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa PHẦN MƯỜI BỐN 53

Làm thế nào để chinh phục đối phương Tako Kagayaki Ebook miễn phí tại :

VINCENT VAN GOGH

I

Ngũ Luân Thư CHƯƠNG TRÌNH TÓM TẮT SÁCH KINH DOANH

Phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh

Layout 1

TỪ BI ÐẠO TRÀNG SÁM PHÁP LƯƠNG HOÀNG SÁM HT.THÍCH TRÍ TỊNH giảo chính Dịch giả: TT.VIÊN GIÁC --- o0o --- Mục Lục LỜI GIỚI THIỆU THAY LỜI TỰA SÁM HỐI N

Mấy Điệu Sen Thanh - Phần 4

Bài thu hoạch chính trị hè Download.com.vn

GẶP GỠ TUỔI TRẺ Nói chuyện với sinh viên khoa Sử, Ðại học Sư phạm Vinh 1999 HT.Thiện Siêu ---o0o--- Nguồn Chuyển sang ebook 8

KINH PHÁP CÚ Illustrated Dhammapada Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka Tâm Minh Ngô Tằng Giao CHUYỂN DỊCH THƠ

KINH ĐẠI BI Tam tạng pháp sư Na Liên Đề Da Xá dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Cao-Tề ( ). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra

Mục lục GIỚI THIỆU Quyển 1 - Lưu nhị mục truyện LƯU CHƯƠNG TRUYỆN LƯU YÊN TRUYỆN [ Chú thích ] Quyển 2 Lưu Tiên chủ LƯU TIÊN CHỦ TRUYỆN [ Chú thích ]

Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh ký của Nguyễn Du – Văn hay lớp 10

ĐỨC TIN LÀ GÌ? Đức tin có một tầm quan trọng hết sức cơ bản trong cuộc sống đời người, đặc biệt là người trẻ. Một số người tự nhiên có đức tin, cơ hồ

Bản ghi:

MODÈLES DU DÉVELOPPEMENT ÉCONOMIQUE ET SOCIAL DE LA COCHINCHINE AUX 16 ÈME - 18 ÈME SIÈCLES REVISITÉS NHÌN LẠI MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI ĐÀNG TRONG THẾ KỶ XVI - XVIII Nguyễn Mạnh Dũng 1 Résumé L existence et le processus de développement de la Cochinchine est un phénomène qui ne s est pas encore réalisé auparavant et qui s est produit uniquement dans l histoire de la féodalité vietnamienne. Pour la première fois, les besoins de développement ont été réalisés conformément aux particularités et à la tendance de l époque et en réalité ont été réalisés avec succès pendant la première période à la Cochinchine. En revisitant son processus de développement, on peut trouver que, issue d une «division cellulaire», la Cochinchine est le territoire des hommes nouveaux dans un espace sociale nouvelle et dans une nouvelle époque historique. La terre et les hommes d ici nous font voir un nouveau modèle pour les comportements de caractère explorateur malgré sa dérivation d un ancien modèle. Dans la réalité de l histoire, «l époque de la Cochinchine» est une période de temps assez complexe avec des croisements. La vie «à deux visages cachées» ont des impacts sur la vie de l intérieur jusqu à l extérieur des demeures des Seigneurs: on accepte la réalité tout en essayant de lutter contre la domination traditionnelle. La population est soumise à la domination des régimes nouveaux et anciens en essayant de se libérer des règlements de l Etat pour retourner aux coutumes traditionnelles. Dans les régions qui ont été vietnamisées les règlements officiels sont demandés selon des cadres restreints du Confucianisme et des avis des conquéreurs. De même, le processus d acquisition et d adaptation s est réalisé avec des ouvertures accompagnés des réticences, d un état d esprit instable dans les efforts de s évader en même temps que les tentations de rapprochement c est le défit dans le traitement des situations socioculturelles en générale des Seigneurs Nguyen. Cependant, les Seigneurs successeurs d une part ont hérité des résultats de leurs prédécesseurs, et ont été éduqués selon des modèles du Confucianisme qui va du système de concentration partielle des pouvoirs (concentration proche au peuple) au système de concentration des pouvoirs au plus haut degré, d autre part ont dû peser le pour et le contre pour exister dans les conditions favorables et les nouvelles situations 1 Institut de l Histoire, Institut de Science sociale du Vietnam 481 TÀI LIỆU HỘI THẢO

C est une région d ouverture qui a nourri des hommes de talent comme Đào Duy Từ mais qui a vu aussi naître Trương Phúc Loan, lettré ambitieux, produit de l ancien système féodal ou, d une vision plus large, du modèle de «Grande tradition.». Le déclin de l autorité de la Cochinchine pose plusieurs problèmes à étudier, parmi lesquels on doit insister sur la politique dynamique, flexible des Seigneurs successeurs, surtout le retour au modèle de l agriculture traditionnelle ou la combinaison inefficace entre le commerce et l agriculture, politique qui contient des risques potentiels accumulés depuis le 18ème siècle, a entrainé la chute du régime après 200 ans d existence. Le temps a changé, une demande qui a été réalisée pour devenir une réalité n est plus une demande à l heure actuelle. Avec l évolution de l histoire, devant la nouvelle tendance du développement de la région et de toute une époque, le retour à un modèle ancien et traditionnel-modèle politique et idéologique qui a été rétabli et renforcé sous la dynastie Nguyen (1802-1945) malgré des épreuves, des moments de faiblesse et de chavirement dans le passé, est une des causes principales qui ont entrainé des conséquences historiques. Ainsi le choix d un modèle de développement a-t-il encore des significations à présent et dans l avenir. Tóm tắt Quá trình tồn tại và phát triển của Đàng Trong là một hiện tượng chưa từng diễn ra và chỉ xuất hiện duy nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Lần đầu tiên việc nhu cầu phát triển đã hiện thực hóa, phù hợp với đặc điểm và xu hướng của thời đại, và thực tế đã được thực thi rất thành công trong thời gian đầu ở Đàng Trong. Nhìn lại quá trình phát triển có thể thấy, từ một "cơ thể phân bào" - Đàng Trong là vùng đất của những con người mới, trong một không gian xã hội mới và một thời đoạn lịch sử mới. Đất và người nơi đây cho thấy một chuẩn hệ hành xử mang tính chất khai phá, tuy trong một dị bản mô hình cũ. Từ thực tế lịch sử, "Thời đại Đàng Trong" là một thời gian hết sức phức tạp, đan xen. Cuộc sống hai mặt ẩn đã chi phối suốt cuộc sống từ trong phủ chúa ra ngoài dân chúng: cố gắng chấp nhận thực tế, lại vừa đấu tranh với truyền thống áp chế. Người dân chịu sự cai trị của chính quyền mới, cũ, nhưng cũng cố gắng thoát ra ràng buộc của định chế nhà nước, quay về với tập tính cổ xưa. Ở những vùng vốn đã Việt hóa cao độ đòi hỏi định chế chính thống, theo khuôn khổ chật hẹp của Nho giáo ở ý chí của kẻ đi chinh phục. Hay như quá trình tiếp thu, tiếp biến cũng trên những tâm trạng vừacởi mở, e dè, tâm lý bất ổn cố gắng thoát khỏi lại vừa bị lôi cuốn chế ngự... Đó là thách thức trong việc xử lý và ứng đối với những cảnh huống văn hóa - xã hội nói chung của các chúa Nguyễn. Tuy vậy các chúa về sau, một mặt được rèn luyện, thừa hưởng thành tựu của tiên chúa, được giáo dục theo khuôn mẫu nho giáo trong bộ máy từ tập quyền bộ phận (tập quyền-thân dân) đến tập quyền cao độ; mặt khác các chúa sống điều kiện thuận lợi, trong bối cảnh mới lại phải cố gắng cân nhắc để tồn sinh. Là vùng đất mở, nơi dung dưỡng nhân tài như Đào Duy Từ nhưng cũng sản sinh ra Trương Phúc Loan đậm chất một nho quan tham lam, sản phẩm của chế độ phong kiến cũ, hay rộng hơn là mô hình của "truyền thống lớn" (great tradition). Sự suy tàn của chính quyền Đàng Trong đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu; trong đó, có thể nhấn mạnh đến những chính sách năng động, linh 482 TÀI LIỆU HỘI THẢO

hoạt của các chúa tiếp sau, nhất là việc trở về với mô hình kinh tế nông nghiệp truyền thống hay sự kết hợp không hiệu quả giữa thương nghiệp với nông nghiệp, chính sách ẩn chứa mối nguy tiềm tàng, tích tụ nhất là từ đầu thế kỷ XVIII dẫn đến sụp đổ vỡ sau hơn 200 năm tồn tại. Thời thế thay đổi, một nhu cầu vốn được hiện thực hóa tới một hiện thực đến nay không còn là nhu cầu. Với sự biến thiên của lịch sử dân tộc, trước xu hướng phát triển mới của khu vực và thời đại, việc trở về mới mô hình cũ truyền thống - mô hình chính trị - tư tưởng dù đã bị thử thách, chao đảo, suy yếu những vẫn không bị sụp đổ, mà lại được phục hồi, củng cố dưới triều Nguyễn (1802-1945) là một trong những nguyên nhân căn bản dẫn đến nhiều hệ lụy lịch sử. Thiết nghĩ việc lựa chọn mô hình phát triển vẫn có ý nghĩa trong hiện tại và tương lai. 1. Bước ngoặt lịch sử giữa thế kỷ XVI Các nguồn chính sử (và tư\dã sử) đều cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) với câu sấm nổi tiếng "Hoành Sơn nhất đái - (Khả dĩ) vạn đại dung thân" 2 là tác giả cho một thay đổi mà sau này lịch sử đã cho thấy tầm mức ảnh hưởng của nó. Các nghiên cứu về Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được thực hiện trong nhiều năm qua nhất là nhân dịp kỷ niệm 400 và 500 năm ngày mất. Các trước tác của ông phần nhiều được thể hiện bằng những sáng tác thơ văn, qua đó thấy được con người, cuộc đời và bối cảnh Đại Việt hiện tồn. Dễ dàng nhận thấy ở Nguyễn Bỉnh Khiêm một con người điển hình trong bối cảnh cũng rất đặc biệt. Nguyễn Bỉnh Khiêm là con người của thời đại, do thời đại sản sinh, một thời đại tao loạn, nội chiến. Như một định đề tất yếu, trong cảnh huống đó tất dẫn đến sự chuyển biến cho dân tộc với những vận động nội tại cộng hưởng yếu tố ngoại sinh mạnh mẽ. Nhưng cần lưu ý là Nguyễn Bỉnh Khiêm đã góp phần tạo dựng lên một thời đại: "giữ chùa thờ Phật được ăn oản", "Cao Bằng dẫu nhỏ cũng có thể hưởng phúc lâu được vài đời" và "Hoành Sơn nhất đái, [khả dĩ] vạn đại dung thân". Trong thời tao loạn, thế giới của nho sĩ-quan liêu (hiển nho hay ẩn nho) định hình nên những tính cách kẻ sĩ 3. Và, Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà Nho, thấm nhuần đạo đức nơi 'cửa Khổng sân Trình', một nho sĩ-quan liêu (hiển nho và ẩn nho) (khá) điển hình. Phò Mạc (làm quan dưới triều Mạc), 2 Cả cụm từ như vậy được chép trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Theo tác giả Lê Văn Lan thì là từ "khả dĩ" chứ không phải là "vạn đại". Xem vấn đề này của trong Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, Viện Văn học, 1991. 3 "Đời suy thói tệ, danh phận lung tung" (Phạm Đình Hổ) có một Nguyễn Hoãn xu thời nịnh thế, đánh tráo thực danh, một Phạm Công Thế "Bấy lâu nay danh phận không rõ, lấy gì mà phân thuận nghịch", Lý Trần Quán "Đầu có thể chặt, tóc có thể gióc, da có thể lột, áo không thể đổi", "nhẹ nhàng" hơn chút cũng có Bùi Sĩ Tiêm với tờ khải thập điều dâng lên chúa Trịnh Giang phê phán gay gắt chính sự đương thời. Ở khía cạnh khác, nho sĩ Nguyễn Hữu Cầu đã phá bỏ quan niệm chật hẹp của trung quân, còn ôn hòa hơn Nguyễn Gia Thiều chấp nhận "an bần lạc đạo", Lê Hữu Trác chuyên tâm chữa bệnh cứu người, Nguyễn Thiếp với sự nghiệp dạy dỗ trồng người... Xem cụ thể Nguyễn Thừa Hỷ: Về nhân cách người nho sĩ-quan liêu thời Lê-Trịnh. Báo cáo Hội thảo quốc tế Việt Nam lần III: Việt nam - Hội nhập và phát triển. Hà Nội, tháng 12-2008. 483 TÀI LIỆU HỘI THẢO

giúp họ Trịnh, rồi họ Nguyễn. Không theo Mạc hẳn (nhiều lần từ quan), không về làm quan ở triều Lê- Trịnh hay Nam tiến cùng họ Nguyễn. Nguyễn Bỉnh Khiêm, với những phẩm chất trội vượt, đã vượt qua thời đại, thể hiện thành công của một cách sống. Đó phẩm cách của một nho sĩ thời tao loạn độc đáo, chẳng giống ai, nhưng giống mọi người vì học thuyết hai mặt, chiết trung mang tính nhị trùng chăng! Cũng chất chứa nỗi niềm của kẻ sĩ, chỉ biết dãi bày qua những áng thơ văn ngút trời xanh! Cả Nguyễn Bình Khiểm và Nguyễn Hoàng chưa thể hình dung ra hết phần đất ở bên kia "Hoàng Sơn" hay nói đúng hơn là trong tâm thức của họ dường như nó "đáng sợ hơn là đáng ở". "Thoạt kỳ thủy, đấy chỉ là một sự trốn tránh, một sự chạy trốn để bảo toàn tính mạng của ông Hai Hoàng" 4. Dường như họ đồng cảm trong việc nhìn nhận vùng đất phương Nam "chỗ đất hiểm trở xa khơi", nhưng đó là vùng đất tự do "miền đất hứa" một "Tân thế giới". Vậy tri thức về xứ sở đó đã khiến Nguyễn Hoàng "lập tức Nguyễn Hoàng tâu với chị" và Nguyễn Bỉnh Khiêm gặp nhau? Với Nguyễn Hoàng đang trong tình thế hiểm nghèo "Trịnh Kiểm có ý ám hại" 5 thì có thể hiểu được, nhưng xuất phát từ đâu Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đưa ra lời "sấm truyền" mang tính phi-nho như vậy. Trong một xã hội loạn lạc, khi hệ giá trị Nho giáo sa sút và ngày càng bị chỉ trích thì cũng là lúc tín ngưỡng dân gian hòa quyện trong Đạo giáo, tín ngưỡng dân gian phát triển hơn bao giờ hết ở thế kỷ XVI-XVIII. Ngoài ra, đây là thời kỳ có thể nói là phát triển đến cao độ của đủ loại niềm tin, tín ngưỡng, với đủ cấp độ hiện sinh. Trong triều ngoài nội thì đỡ nghẹt thở hơn thời độc Nho, ngoài "thiên hạ" thì thôi đủ mọi kiểu, thờ cúng đủ loại thần thánh nội ngoại sinh, hỗn hợp "tiền thần, hậu Phật, tiền Phật, hậu thần". Tất cả những mô hình trên chỉ mang tính chất minh họa, sự đan xen và tương tác luôn diễn ra, đó chỉ là sự co dãn của một xã hội phong kiến Việt Nam từ thế kỷ XII-XVIII, trong đó, "ở thời loạn thì các tư tưởng phi Nho càng phát triển và đầu thế kỷ XVI khi Trạng Trình còn trẻ, đã có đủ thứ "lời sấm được tung ra thành bài hát, lời đồn... trong thiên hạ" 6. Chính sử chép về biến động lịch sử này không nhiều. Cũng như khi đọc lại chính sử (và tư sử) đều không có nhắc tới lời phê hành động "bày\mách mưu" này của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nếu đặt như ngược lại, việc nhà Lê-Trịnh tiêu diệt họ Nguyễn và thiết lập chính quyền Lê hoặc Trịnh như sau này nhiều khả năng hành động này của Nguyễn Bỉnh Khiêm sẽ nhận được những lời công kích, phê phán của sử quan triều Lê (Trịnh). 4 Trần Quốc Vượng: Dặm dài đất nước. Tập II. Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2006, tr. 82. 5 Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược. Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 2005, tr. 275. 6 Trần Quốc Vượng: "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bối cảnh văn hóa Việt Nam thế kỷ XVI", trong Bộ VH-TT và TT - Viện KHXH Việt Nam: Nguyễn Bỉnh Khiêm - Danh nhân văn hóa. Hà Nội, 1991. 484 TÀI LIỆU HỘI THẢO

Trở lại vấn đề cần nghiên cứu, cho đến trước khi Nam tiến, Nguyễn Hoàng đã phần nào có được hiểu biết về vùng đất phương Nam sau những lần viễn chinh cùng họ Trịnh chống Mạc, hơn nữa "Bấy giờ xứ Thuận Hóa mới dẹp yên, tuy nhà Lê đã đặt tam ty (Đô ty, Thừa ty, Hiến ty) và phủ huyện để cai trị, nhưng nhân dân vẫn chưa một lòng. Kiểm đương lấy làm lo... Lòng dân vẫn còn tráo trở, nhiều kẻ vượt biển đi theo họ Mạc" 7. Còn Nguyễn Bỉnh Khiêm, cho đến năm 45 tuổi [ta] (năm 1535), mới xuất chính, đỗ Trạng nguyên, làm quan trải ba triều Mạc. Thời gian trước đó, Bỉnh Khiêm dành nhiều cho việc học, quan sát, chiêm nghiệp thế sự, cuộc đời. "An Nam Lý học hữu Trạng Trình" 8, dưới góc độ tiên tri lý học, vận dụng chữ thời, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thành công với họ Mạc, họ Trịnh, còn bản thân ông "Tiên cơ hà dã thán lương cung", không bỏ Mạc (chỉ xa Mạc), cũng chẳng theo Lê\Trịnh hay Nguyễn. Rất khó biết Nguyễn Hoàng ngay từ đầu đã hình dung ra việc mô hình đất nước thành hai miền chưa 9, nhưng chắc chắn càng tiến sâu vào phương Nam, những điều chưa biết, hay chưa có điều kiện thẩm định càng củng cố quyết tâm "xẻ đôi sơn hà" 10. Trong khi đó, khuynh hướng Nam - Bắc là nằm trong tính toán cục diện của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Lời Sấm ký Trạng Trình không phải là kết quả của sự tiên tri-tiên nghiệm mang mầu sắc bí ẩn mà là "lời tiên tri của một người tinh thông Dịch lý, biết suy nghiệm sự vật theo quy tắc của Dịch học" 11,"hiểu sâu nghĩa lý Kinh dịch" 12 hay có tác giả cho là "theo quy luật biện chứng thô sơ của Dịch học" 13. Sự gặp gỡ của hai ý tưởng, cùng số phận lịch sử ở phương diện nào đó đưa đẩy, đã tạo ra một bước ngoặt lịch sử đưa đất nước trải qua một thời kỳ Nam - Bắc, Đàng Trong - Đàng Ngoài phân chia lần thứ nhất, mở ra quá trình Nam tiến mạnh mẽ lớn nhất trong lịch sử dân tộc. 7 Đại Nam thực lục. Tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2004, tr. 27-28. 8 "Sứ nhà Thanh là Chua Xán cũng khen: Người Lĩnh Nam biết Lý học chỉ có ông Trình Tuyền [hầu]. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí. Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2006. Phần: Nhân vật chí. 9 Chúng tôi cho rằng Nguyễn Hoàng chưa thể nghĩ xa hơn đến việc cát cứ sau này. Lúc đó, vấn đề tiên quyết của Nguyễn Hoàng là tránh họa sát thân nếu còn ở lại Trung đô. 10 Quan điểm đó được Nguyễn Hoàng bộc lộ trước khi lâm chung: "Đất Thuận Quảng phía bắc có núi Ngang (Hoành Sơn) và sông Gianh (Linh giang) hiểm trở, phía nam có núi Hải Vân và núi Đá Bia (Thạch bi sơn) vững bền. Núi sẵn vàng sắt, biển có cá muối, thật là đất dụng võ của người anh hùng. Nếu biết dạy dân luyện binh để chống chọi với họ Trịnh thì đủ xây dựng cơ nghiệp muôn đời. Vì bằng thế lực không địch được, thì cố giữ vững đất đai để chờ cơ hội, chứ đừng bỏ qua lời dặn của ta". Đại Nam thực lục. Tập 1, sđd, tr. 37. 11 Đỗ Văn Hỷ: "Nguyễn Bỉnh Khiêm - Nhà tiên tri hay nhà Lý học?", trong Bộ VH-TT và TT-Viện KHXH Việt Nam: Nguyễn Bỉnh Khiêm - Danh nhân văn hóa. Hà Nội, 1991. 12 Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí. Sđd, phần: Nhân vật chí. 13 Lê Thanh Thịnh: "Trạng Trình và những yếu tố của khoa học dự báo", trong Bộ VH-TT và TT - Viện KHXH Việt Nam: Nguyễn Bỉnh Khiêm - Danh nhân văn hóa. Hà Nội, 1991. 485 TÀI LIỆU HỘI THẢO

2. Lựa chọn mô hình và chính sách phát triển Trong công cuộc xây dựng một chính quyền mới, vấn đề đối với họ Nguyễn lại mang đặc thù hết sức riêng biệt. Không phải là một tiểu vương quốc, không thể tự lập ra một chính quyền riêng mặc dù họ Nguyễn muốn làm điều đó; thứ nữa, các điều kiện cần thiết cho việc quản lý lại thiếu thốn chưa có bất cứ một tiền đề điều kiện nào. Trong quãng thời gian đó, vấn đề bao trùm vẫn là đối nội hay thế ứng xứ với chính quyền trung ương Lê\Trịnh. Mặt khác, trong bối cảnh không gian mới, tiếp biến với "những trung tâm văn hóa có quá khứ huy hoàng" 14, họ Nguyễn cũng phải dần từng bước họ Nguyễn trực tiếp xử lý các vấn đề bên ngoài phát sinh và va chạm với "cây đời" thực tiễn, nói cách khác đó là những vấn đề thuộc yếu tố nội sinh chi phối và ngoại sinh hết sức sống động. - Thực hiện đường lối thần phục, mềm dẻo, chờ thời Trước hết, cần khẳng định ngay Nguyễn Hoàng xin vào được trấn vùng Thuận Hóa với mục tiêu cá nhân-dòng họ. Trong bản thân ý tưởng của họ Nguyễn này, vào đó với hai mục tiêu bảo toàn tính mạng (an) và hy vọng có thể cầm cự được ở đây (lo). Hơn nữa, sử liệu Việt Nam không có thấy nhiều những hoạt động cụ thể của Nguyễn Hoàng ở đây, những qua những ghi chép đó có thể nhận thấy một thức tế rất là việc xác định một đường lối đối nội và ngoại là vấn đề nan giải. Nguyễn Hoàng "là một người khôn ngoan mà lại có lòng nhân đức" 15, nhưng dường như họ Nguyễn sẽ gặp khó khăn nếu không có vai trò của những bề tôi - quân sự, trong giai đoạn đầu nổi bật nhất là Đào Duy Từ (1572-1634) "có tài văn võ, phàm đã mưu tính trù hoạch gĩ, hễ làm gì thì trúng thời cơ. Giúp việc cho nước 8 năm mà công nghiệp rõ ràng, đứng đầu hàng công thần khai quốc" 16. Trong tờ biểu, Trịnh Kiểm dâng lên vua Lê Trung Tông, việc cử Nguyễn Hoàng đi trấn đất Thuận Hóa là để bình định vùng đất miền Nam trọng yếu, "phòng ngừa giặc phía Đông" và "phàm mọi việc đều ủy thác cả, chỉ mỗi năm nộp thuế mà thôi" 17, "để cung việc chi dùng cả nước" 18. Và trong thời gian đầu, "Đoan quận công thường nộp thuế má, không thiếu năm nào" 19. Đối với một tướng 34 tuổi đi trấn thủ một vùng biên cương xa xôi, loạn lạc, nhưng bù lại mọi việc đều có quyền quyết định là những thách thức và thuận lợi cho Nguyễn Hoàng. Thực tế cho thấy, từ 14 Tạ Chí Đại Trường, Thần người và đất Việt, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2006, tr. 203 15 Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược, sđd, tr. 275. 16 Đại Nam thực lục. Tập 1, sđd, tr. 51. 17 Đại Nam thực lục. Tập 1, sđd, tr. 28 18 Đại Việt sử ký toàn thư. Tập 2. Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2006, tr. 595. 19 Lê Quý Đôn: Phủ Biên tạp lục. Nxb. VHTT, Hà Nội, 2007, tr. 62. 486 TÀI LIỆU HỘI THẢO

năm 1593, Trịnh Tùng đã lấy được Thăng Long, Nguyễn Hoàng cũng đưa quân ra Đông Đô "ở hàng 8 năm, giúp Trịnh Tùng để đánh họ Mạc, lập được nhiều chiến công. Nhưng mà Trịnh Tùng vẫn có ý ghen ghét không muốn cho ngài về Thuận Hóa, mà ngài cũng không có dịp gì mà về được" 20. Cho đến năm 1600, sử cũ chép "Nguyễn Hoàng ngầm sai bọn Kế quân công Phan Ngạn... mưa làm phản... giả vờ xin đem quân đi đuổi đánh, rồi đốt hết doanh trại, trốn về Thuận Hóa" 21, các nhà nghiên cứu cho rằng đây là mốc đánh dấu thời điểm công khai chống đối đầu tiên của Nguyễn Hoàng [khi đó đã 69 tuổi], vì "từ đó họ Nguyễn bề ngoài thì vẫn giữ nghĩa thân thuộc với nhà Lê, nhưng bề trong thì chuẩn bị để chống cực và cát cứ" 22. Tuy nhiên, sau sự kiện đó, họ Trịnh biên thư ngay cho Đoan quận công Nguyễn Hoàng với ý trách tội. Bức thư có đoạn "Nhiều lần gửi thư giục cậu [tức Nguyễn Hoàng, cậu của Trịnh Tùng lúc đó] đốc thu tiền thuế, vận tải lương thực để giúp việc chi dùng của nước, cậu thường lấy cớ đường biển giản hiểm mà từ... không đợi mệnh lệnh, tự tiện bỏ về, làm dao động lòng dân địa phương, không biết đó là bản ý của cậu chăng, hay nghe lầm gian kế của bọn phản nghịch... nên sai người mang thư đến hành tại bái bẩm, rồi đốc nộp tiền thuế... lấy công chuộc tội... Nếu không thể thì lấy thuận đánh nghịch, triều đình đem quân đánh có cớ lắm rồi, danh tiết của cậu rồi sẽ ra sao? 23 Diễn biến sự kiện sau đó đã khiến cho mưu kế của Nguyễn Hoàng tan vỡ với hành động được coi là "tùy tiện" của mình: làm nhục sứ thần, sai quân đến chỗ trọ cướp chiếu thư, rồi đốt nhà trọ của sứ thần. Sau sự việc đó, "không có ý ngấp nghé gì nữa" 24, "Đoan quận công xin ở đấy để trấn thủ, được y cho" 25. Như vậy, trong việc xử lý các mối quan hệ đối nội, họ Nguyễn trong nửa sau thế kỷ XVI đã từng bước xác lập được ảnh hưởng, uy tín ngày càng cao trong triều đình trung ương, biết xử lý sớm những vấn đề phát sinh trong hoàn cảnh hiểm nghèo, nhưng cũng dễ đi đến những quyết định chủ quan, coi thường, ảnh hưởng đến mục tiêu của mình. Sự kiện đầu tiên của thế kỷ XVII đã mở ra một khuynh hướng ứng xử mới trong một tham vọng cát cứ, cân bằng với chính quyền trung ương. Trong khi chính quyền Đàng Trong đã củng cố được hơn 70 năm, nhưng "thành quách chưa bền vững, quân sĩ chưa luyện tập" 26, năm 1629, trong thế mà họ Trịnh thay mặt vua Lê yêu cầu họ Nguyễn 20 Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược, sđd, tr. 276. 21 Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd, tr. 687-688. 22 Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd, tr. 688. 23 Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd, tr. 689-690. 24 Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd, tr. 690. 25 Lê Quý Đôn: Phủ Biên tạp lục. Nxb. VHTT, Hà Nội, 2007, tr. 63. 26 Đại Nam thực lục. Tập 1, sđd, tr. 44 487 TÀI LIỆU HỘI THẢO

đem quân ra Bắc để đi đánh họ Mạc ở Cao Bằng, mưu thần Đào Duy Từ dự tính rằng nhận sắc mà không đến cũng không được, không nhận sắc thì họ Trịnh có cớ động binh. "Chi bằng hãy tạm nhận chọ họ không ngờ để ta chuyên việc phòng thủ, rồi sau dùng kế trả lại, bấy giờ họ không làm gì được ta nữa" 27. Sau khi tiên chúa mất được 7 năm (Nguyễn Hoàng mất năm 1613, trấn thủ 56 năm, thọ 89 tuổi), từ năm 1620, Nguyễn Phúc Nguyên đã bỏ nộp phú cống, xây thành có ý cát cứ. Năm 1627, Trịnh Tráng dẫn quân chinh phục nhưng không thành 28. Với việc họ Trịnh mưu tính triệt hạ sức mạnh, họ Nguyễn đã từng bước vượt khó, đáp ứng nhu cầu binh, vật lực. Gánh nặng lên họ Nguyễn Đàng Trong ngày càng lớn, nhưng cũng góp phần tạo động lực mạnh mẽ đáp ứng đòi hỏi qua những chính sách phát triển, khai mở hơn nữa ở đây. Năm sau, 1630, Đào Duy Từ chính thức khuyên chúa Nguyễn dừng việc nộp thuế cho họ Trịnh. Thực tế lúc đó, Đàng Trong "đất đai binh giáp lại không bằng một phần mười Đông Đô", theo ý mưu sư họ Đào, chúa Nguyễn cho đắp lũy Trường Dục, từ chân núi Trường Dục đến bãi cát Hạc Hải, đó là kế vạn toàn. Công việc hoàn thành trong một tháng. Ngay sau đó, chúa Nguyễn cử Văn Khuông "trả lại sắc" cho họ Trịnh. Tháng 9, chúa Nguyễn đánh chiếm châu Bố Chính (lập dinh Bố Chính), chia sông Gianh làm hai phần. Như vậy, cho đến hết năm 1631, lũy Nhật Lệ đã được đắp xong "chia hẳn Nam Bắc. Lại đặt xích sắt chắn ngang các cửa biển Nhật Lệ và Minh Linh" 29. Từ đó, như sử cũ chép lại "Chúa cùng Đào Duy Từ ngày đêm mưu tính chống họ Trịnh" 30, "bàn tính giữ đất để chống mệnh" 31. Ở đây cần lưu ý là, cho đến thời điểm năm 1630 (có ý kiến là từ năm 1627), chúa Nguyễn chưa thực sự có ý định kháng cự họ Trịnh hay đúng hơn là đang dần tình cách thoát dần ảnh hưởng của họ Trịnh. Lệ thần Trần Trọng Kim chép "Khi những đồn lũy đã kiên cố, binh lương đã đủ rồi, chúa Sãi mới ra mặt không thần phục họ Trịnh nữa, và sai tướng ra chiếm giữ lấy đất Nam Bố Chính... Từ đấy họ Trịnh và họ Nguyễn đánh nhau tai hại trong khoảng 45 năm ở đất Quảng Bình, Hà Tĩnh bây giờ" 32. Chắc chắn "Cả đời mình, Nguyễn Hoàng chưa từng ra mặt chống đối Trịnh, nhưng ông đúng là chúa Tiên với nghĩa tạo nền cho con chống Trịnh" 33. 27 Đại Nam thực lục. Tập 1, sđd, tr. 44 28 Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd, tr. 711-712. 29 Nhật Lệ cửa Đồng Hới, Minh Linh là cửa Tùng. Đại Nam thực lục. Tập 1, sđd, tr. 48. 30 Đại Nam thực lục. Tập 1, sđd, tr. 48. 31 Lê Quý Đôn: Phủ Biên tạp lục. Nxb. VHTT, Hà Nội, 2007, tr. 65. 32 Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược, sđd, tr. 283. 33 Trần Quốc Vượng: Dặm dài đất nước. Tập II. Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2006, tr. 82. 488 TÀI LIỆU HỘI THẢO

Từ thực tế lịch sử, cuộc chiến giữa hai tập đoàn phong kiến trên diễn ra 7 trận đánh lớn (trước đó liên minh tập đoàn này đã có 40 cuộc giao tranh lớn nhỏ với nhà Mạc) 34. Phải đến cuộc giao chiến lần thứ 5, họ Nguyễn mới chính thức "quyết ý đem quân ra đánh họ Trịnh" 35 sau một thế kỷ tích lũy. Trong thời gian đã 7 thập kỷ vào trấn thủ Thuận Hóa, đây là là quãng thời gian không dài song cũng không phải là ngắn với họ Nguyễn. Mặc dù ý định chỉ để phòng thân, nhưng chúa Nguyễn cũng ý thức được rằng không tự cường thì tất yếu sẽ bị tiêu diệt, hay họa hoằn có thể lợi dụng sự suy yếu của chính quyền trung ương. Hơn nữa, trẳn trở về "phàm cử động gì cũng bị bọn họ kiềm chế, nên tiên vương phải nhẫn nại như thế", trong khi "Nay chúa thượng chuyên chế một phương, quan liêu lại tự quyền cắt đặt, một lời nói ra, còn ai dám trái" 36. Việc cho đắp lũy ngăn biệt Đàng Trong - Đàng Ngoài là một quyết sách chiến lược, từ đó có thể tập trung vào phát triển kinh tế-xã hội, thuận lợi cho việc phòng ngự lâu dài, có hiệu quả. - Tích cực mở rộng phát triển vùng đất phương Nam, thu phục nhân tâm "Bấy giờ chúa ở trấn hơn 10 năm, chính sự rộng rãi, quân lệnh nghiêm trang, nhân dân đều yên cư lạc nghiệp, chợ không hai giá, không có trộm cướp. Thuyền buôn các nước đến nhiều. Trấn trở nên một nơi đô hội lớn" 37. Với dân chúng "dân hai trấn đều cảm lòng mến đức thay đổi phong tục, chợ không nói thách, dân không trộm cắp, cổng ngoài không phải đóng" 38. Trong thư gửi Nguyễn Hoàng sau sự kiện năm 1600, triều đình Lê\Trịnh đều thừa nhận "vỗ yên dân địa phương thực có công" 39. Sau khi trở về năm 1600, Nguyễn Hoàng quyết định gắn bó cơ nghiệp với vùng đất phương Nam. Cùng với việc chuyển dinh từ Trà Bát sang Dinh Cát, Nguyễn Hoàng cho dựng Dinh Chiêm, tích cực mở rộng hơn nữa và xác lập quyền lực của mình tại Thuận Quảng, đưa con trai Nguyễn Phúc Nguyên vào trấn thủ Quảng Nam. Năm 1611, quyết định mở cuộc Nam tiến, họ Nguyễn bình định và lập đất Phú Yên, biên giới Thuận Quảng từ đèo Cù Mông đến tận mũi Đại Lãnh. Năm 1627, chúa Nguyễn hỏi Trần Đức Hòa về tình hình trăm họ ở Quảng Nam, Hòa đáp "Chúa thượng rộng ra ân huệ, hiệu lệnh nghiêm minh, trăm họ không ai chẳng an cư lạc nghiệp" 40, "thu dùng 34 Nguyễn Danh Phiệt: Việt Nam thời Mạc: Cuộc chiến không khoan nhượng giữa hai tập đoàn phong kiến Lê-Trịnh và Mạc. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử 9 (340) - 2004, tr. 3-13 35 Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược, sđd, tr. 287 36 Đại Nam thực lục. Tập 1, sđd, tr. 44 37 Đại Nam thực lục. Tập 1, sđd, tr. 31 38 Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd, tr. 606. 39 Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd, tr. 689. 40 Đại Nam thực lục. Tập 1, sđd, tr. 43 489 TÀI LIỆU HỘI THẢO

hào kiệt, yên ủi nhân dân, cho nên lòng người ai cũng mến phục". 41 Trong bản tấu của Nguyễn Danh Thế lên Trịnh Tráng năm 1629 thừa nhận "Nay phương Nam vua tôi hòa thuận, nước giàu binh mạnh, mà ta thì hàng năm đói kém, quân nhu không đủ" 42. Trong hoàn cảnh đó, nói như cố GS. Trần Quốc Vượng, "Hoàn cảnh ly tổ tha hương để toàn mạng càng khiến 'Ông Hai' phải biết kiềm chế những tật xấu (nếu có) và phát huy phần tốt đẹp của bản tính mình" 43. Trong phương cách ứng xử và cai trị của chính quyền Đàng Trong, có thể tóm lược một số đặc điểm sau đây: - Lo cho dân cho xứ, Nguyễn Phúc Nguyễn cho "sửa thành lũy, đặt quan ải, vỗ về quân dân, trong ngoài đâu đâu cũng phục", cho nên "đồn lũy chắc chắn, tướng sĩ hết lòng"; giữ". - Về mặt kinh tế, ông đã cho đặt "nhà Đồ 44, thu các hàng hóa phẩm, giao cho Nội lệnh sử ty - Về chính trị-xã hội: nghiêm trị khi "ngai vàng" bị lung lay hay tình hình đất nước giao động: đã thẳng tay trừng trị hai em làm loạn; tỏ ra khoan hồng và có mưu lược an dân, vỗ về dân, như việc đánh dẹp người Man hay Cao Miên và bắt được nhiều tù binh, năm 1621. Thực lục ghi: "Quả nhiên bọn người Man đến cướp, kéo vào cửa động, phục binh nổi dậy, bắt được hết đem về. Chúa muốn lấy ấn tín vỗ về ngừơi đất xa, sai cởi trói ra và cấp cho quần áo lương thực, răn dạy rồi thả về. Quân Man cảm phục, từ đấy không làm phản nữa". - Về văn hóa: Là một xứ mới, tứ xứ tụ quần, kẻ thù lẩn khuất 45, việc xử lý các mối quan hệ khéo léo đã giúp cho họ Nguyễn trong việc hòa hợp các sắc\chủng tộc, dẫn tới "dời đổi phong tục" 46. Trong thế ứng đối đó, "sự tàn tạ của quyền lực thế tục càng làm tăng độ uy hiếp tinh thần đối với những người mới đến làm chủ... Sự quần tụ cư dân tứ xứ ở Đàng Trong với khối người Trung Hoa lưu vong, mang đến cho người Việt ly khai các yếu tố mới của một nền văn minh quen thuộc, nhưng không phải là một loại của chốn triều đình sang cả mà là của một tập hợp thương nhân không bằng nho gia về mặt triết lý tinh tế, nhiều ý thức tự do hơn, của đám bình dân có tin tưởng 41 Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược, sđd, tr. 275 42 Đại Nam thực lục. Tập 1, sđd, tr. 44 43 Trần Quốc Vượng: Dặm dài đất nước. Tập II. Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2006, tr. 83. 44 Nhà đồ: Xứ Thuận Quảng duy không có mỏ đồng, mỗi khi những thuyền buôn Phúc Kiến, Quảng Đông hay Nhật Bản chở đồng đỏ đến bán thì nhà nước thu mua, cứ 100 cân thì trả 40 hay 50 quan tiền". 45 "Nhân dân Thuận Hóa lúc bấy giờ gồm những thành phần rất phức tạp. Ngoài những người chăm lo cày cấy, làm ăn, còn có những người theo nhà Mạc, hoặc khuấy động cho nhà Mạc, những người tù đày, những du đảng, phiêu lưu... những quan quân bất mãn họ Trịnh... những thổ hào, thổ tù cường ngạnh, nhũng nhiễu lương dân, những người Chăm ở lại". Phan Khoang: Việt sử xứ Đàng Trong, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2001, tr. 110. 46 Lê Quý Đôn: Phủ Biên tạp lục. Nxb. VHTT, Hà Nội, 2007, tr. 62 490 TÀI LIỆU HỘI THẢO

theo chiều hướng ma thuật, sẵn sàng chống lại bất cứ chính quyền nào không dung chứa một nhân sinh quan như thế" 47. Trong thế ứng xử với đạo Kitô du nhập, các chúa tỏ ra không ngăn cấm hay trừng phạt, còn bản thân các quan lại cao cấp tỏ ra có thiện cảm với Kitô giáo, ví như trấn thủ Quy Nhơn ưu đãi Buzomi và đoàn truyền giáo, sứ thần Zegrô tự do theo Kitô giáo, thậm chí sự cởi mở, rộng lượng và hơn hết là bà Minh Đức Vương thái phi, công chúa Ngọc Đỉnh, công chúa Ngọc Liên đã theo đạo Kitô. C.Borri có lần khen chúa Nguyễn khéo xử sự trong vụ người ta vu oan cho đoàn giáo sĩ vì "ngài rất quý các cha và trọng người Bồ". Đàng sau đó, C.Borri nhận ra việc "quý các cha", "trọng người Bồ", vì thực ra có thể nói trong giai đoạn này, hai sự việc có ảnh hưởng tương hỗ. Nhà chúa muốn có người Bồ tới buôn bán ở đây thì cũng phải ban ân cho các cha làm tuyên uý. Sãi vương cũng cần các giáo sĩ để thương lượng với người Bồ. Vì thế trong việc khó xử này, Sãi vương rất khôn khéo, "cho vời các cha vào và rất thân tình nói với các cha " Trên hết, như nhiều nhận xét của chứng nhân đương thời "thế kỷ XVII, giáo dân ở Đàng Ngoài bị đe dọa hơn ở Đàng Trong, sang thế kỷ XVIII cũng như vậy" 48. Khi chưa đi sâu hơn nữa đến bản chất của nhưng chính sách "thu phục nhân tâm", đất Đàng Trong, "nối dài cả sau khi thống nhất ở thế kỷ XIX qua thế kỷ XX, là nơi của những cố gắng tu tập, pha trộn tín ngưỡng" 49. Trong ý nghĩa đó, việc lựa chọn và đi đến quyết định giao hòa với văn hóa bản địa "mượn quan niệm thần thánh của địa phương sẽ mang lại hiệu quả hơn, vì vừa cắt đứt được với quá khứ, vừa thâm nhập với hiện tại, chưa kể những thu hoạch của tương lai" 50 là giải pháp tối ưu, phù hợp với tập đoàn ly khai di cư này. - Xây dựng, củng cố chính quyền họ Nguyễn Năm 1572, sử thần nhà Lê thừa nhận "Hoàng [Nguyễn Hoàng] trị nhậm mấy chục năm, chính lệnh khoan hòa, thưởng ban ơn huệ, dùng phép công bằng, khuyên răn bản bộ, cấm trập những kẻ hung ác" 51. Đã được tôi rèn trong môi trường chính trị xứ Bắc, thầu hiếu lòng người buổi tao loạn, hơn ai hết, vị Tiên chúa càng tích cực ổn định xã hội, mong chóng tự cường, do vậy từ khi họ Nguyễn vào trấn thủ, tuy bề ngoài vẫn chưa ra mặt chống đối nhưng bên trong thì hết sức lo sợ đề phòng. 47 Tạ Chí Đại Trường, Thần người và đất Việt, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2006, tr. 203. 48 Charles B.Maybon: Những người châu Âu ở nước An Nam. Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2006, tr. 78. 49 Tạ Chí Đại Trường, Thần người và đất Việt, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2006, tr. 203. 50 Tạ Chí Đại Trường, Thần người và đất Việt, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2006, tr. 205. 51 Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd, tr. 606. 491 TÀI LIỆU HỘI THẢO

Ngay khi vào xứ Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng cho lập dinh ở Ái Tử, còn "quan lại Tam ty do nhà Lê đặt đều phải theo lệnh chúa" 52, nghĩa là thuộc tướng ở ba ty đều do họ Trịnh cắt đặt. Năm 1570, Nguyễn Hoàng được kiêm quản thêm xứ Quảng Nam (tổng trấn tướng quân), sau đó rời dinh về Trà Bát. Chính quyền vẫn giữ nguyên đơn vị hành chính cũ của họ Trịnh. Theo đó, xứ Thuận Hóa gồm 2 phủ, 9 huyện, 3 châu. Quảng Nam gồm 3 phủ, 9 huyện 53. Biến động chính trị năm 1600 đã làm dẫn đến những thay đổi trên nhiều phương diện. Đối với họ Nguyễn, 8 năm ở đất Bắc, đất nước đã bước vào ổn định cũng là lúc Nguyễn Hoàng quyết tâm trở về. Thời điểm Nguyễn Hoàng "trốn về" Thuận Quảng bắt đầu những thay đổi rõ rệt với một chính sách cai trị mới hòng dần tách khởi sự ràng buộc của họ Trịnh. Theo đó, Nguyễn Hoàng dời đến Dinh Cát, cho con là Nguyễn Phúc Nguyên trấn thủ Quảng Nam. Năm 1604 thay đổi khu vực hành chính bằng việc thay đổi các phủ, huyện... Một năm sau khi tiên phụ băng hà, năm 1614 Nguyễn Phúc Nguyên bãi bỏ tam ty, lập ra ba ty mới, cùng với đó là thải hồi các tướng ba ty cũ; sắp đặt lại hệ thống quan chức mới. Chính quyền Trung ương Nguyễn ở chính dinh (Dinh Cát) bên dưới là rất nhiều dinh, cắt đặt phiên chế, hoàn thiện giáo dục khoa cử, thuế má, hình thành hệ thống chính quyền Trung ương giai đoạn 1614-1744 54. Cùng với việc xây dựng, củng cố chính quyền mới, năm 1702, chúa Nguyễn sai sứ sang nhà Thanh cầu phong, nhưng thất bại. Năm 1744, chúa Nguyễn bắt đầu xưng vương, từ bỏ tước công của vua Lê, đúc quốc ấn "Quốc vương" thay cho "Tổng trấn tướng quân" hay "Tiết chế thủy bộ chư dinh", đổi ba ty thành lục bộ (lại, hộ, lễ, binh, hình, công) trên đó là 'tứ trụ đại thần', chính thức xây dựng Đàng Trong thành một triều đình riêng. "Đến năm giáp-tí (1744) Vũ vương mới xưng vương hiệu đổi phủ ra làm điện, sửa sang phép tắc, và định lại triều phục", "Nhưng người ngoại quốc thường gọi đất chúa Nguyễn là Quảng Nam quốc. Đấy là vì ở Quảng Nam có phố Hội An (Faifo) là chỗ người Tàu và người các nước ra vào buôn bán, cho nên mới lấy tên Quảng-nam mà gọi" 55. Để có thể tiếp tục gia tăng sức mạnh, chúa Nguyễn mở mang vào phía Nam, song cũng từ đó bộ máy quan liêu được bổ mới, ngày càng trở nên cồng kềnh, mang nặng tính quân sự trong thời kỳ đầu... Đến lúc này, Đàng Trong được chia thành 12 dinh và 1 trấn (trấn Hà Tiên, đứng đầu là Đô Đốc). Cấp chính quyền địa phương dưới dinh và Trấn là phủ, huyện, tổng, xã (ở đồng bằng) và thuộc (miền núi, ven biển). Gạt qua những hệ lụy của một bộ máy chính quyền mới như chưa hoàn chỉnh, thống nhất, tập trung, hà lạm... nhất là từ nửa sau thế kỷ XVIII trở đi, họ Nguyễn đã từng bước thiết lập vững chắc một 52 Đại Nam thực lục. Tập 1, sđd, tr. 28 53 Đại Nam thực lục. Tập 1, sđd, tr. 29 54 Xem thêm Trần Thị Vinh: Thể chế chính quyền ở Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn (thế kỷ XVI-XVIII). Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 10 (341)-2004, tr. 3-13, 61. 55 Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược, sđd, tr. 326-327. 492 TÀI LIỆU HỘI THẢO

chính quyền riêng. Trong nhiều thời điểm, chính quyền đó đã phát huy tác dụng tích cực đưa Đàng Trong phát triển mạnh mẽ, hội lưu vào khu vực và thế giới. "Còn những công việc họ Nguyễn làm ở phía nam quan trọng cho nước Nam ta hơn cả, là việc mở mang bờ cõi, khiến cho nước lớn lên, người nhiều ra" 56. Như vậy, từ thực tiễn lịch sử trên, các nguồn sử liệu của Việt Nam đương nhiên không cho biết tình hình đối ngoại của họ Nguyễn. Hay nói đúng ra, chính sách đối nội là nét nổi bật nhất của họ Nguyễn trong thời gian đầu. Xin nói thêm là, việc xây dựng củng cố bộ máy chính quyền là một quá trình tổng hợp, hay bộ máy đó chỉ là bề nổi của một cuộc vật lộn của những yếu tố 'vô hình' khác. Như một định đề tất yếu, họ Nguyễn là người ngoại, di cư đến và đặt ở vị trí cai trị sẽ đụng độ, va chạm với những yếu tố mới, "khác với nền văn minh quen thuộc"; cho nên, việc hòa nhập, vay mượn, tiếp biến, áp chế, đồng hóa (với một nên văn minh cao hơn) nền văn hóa bản địa ở cả phương diện kinh tế (hải thương) và tôn giáo - tín ngưỡng (Phật giáo mang màu sắc bản địa) dần được các chúa Nguyễn nhận ra và thực thi thành công, cho dù ở mức độ, thời điểm, đối tượng không giống nhau. Trong thế ứng xử với "xã hội mới, nền văn hóa mới" 57, lúc này yếu tố thần thánh, siêu phàm đã được tính đến như một phương cách để củng cố và chính thức hóa sự cai trị, do vậy, hiện tượng "qua cơn mơ" diễn ra "những cuộc gặp gỡ các vị thần mới và thiết lập mối quan hệ cá nhân với họ" 58. Trên thực tế, vốn xuất phát từ tư tưởng quan phương chính thống Nho giáo nên vấn đề đối ngoại là với thiên triều Trung Hoa không được đặt ra cho các "tổng trấn tướng quân" họ Nguyễn. Mặt khác, thói quen cũng như nhu cầu chính trị-xã hội không cho phép họ Nguyễn dành tâm trí cho những vấn đề trên. Hơn nữa, như chúng tôi đã trình bày ở trên, việc Nguyễn Hoàng vào trấn thủ diễn ra trên quy mô không gian và thời gian hết sức đặc biệt. Do vậy, những gì gọi là hạn chế, lực cản mang tính truyền thống đã bị thay thể bởi xu thế mới của thời đại. Chính điều này chi phối đến khuynh hướng đối ngoại mới mẻ của chính quyền Đàng Trong. Một số nghiên cứu đã chỉ ra khá mạch lạc 'thế tương tác quyền lực khu vực' của chính quyền Đàng Trong 59. Theo đó, chính quyền Đàng Trong được nhìn nhận là một chính quyền mở, nắm chủ động trong thế ứng đối với bên ngoài, trở thành một "thể chế biển". Chính điều kiện đó đã củng cố 56 Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược, sđd, tr. 327 57 Li Tana cho rằng sự hình thành Đàng Trong không đơn thuần là sự hồi sinh của một dòng họ, mô hình cũ mà là một mô hình khác. Li Tana "Xứ Đàng Trong thế kỷ XVII và XVIII, một mô hình khác của Việt Nam. Trong Những vấn đề lịch sử Việt Nam. Nguyệt san Xưa và Nay-Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, 2001, tr. 186. 58 Keith W.Taylor "Nguyễn Hoàng và bước mở đầu cuộc Nam tiến của người Việt". Trong Những vấn đề lịch sử Việt Nam. Nguyệt san Xưa và Nay-Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, 2001, tr. 181-182. 59 Nguyễn Văn Kim: Xứ Đàng Trong trong các mối quan hệ và tương tác quyền lực khu vực. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6 (362), tr. 19-35. 493 TÀI LIỆU HỘI THẢO

vững chắc chính quyền họ Nguyễn, mặt khác tạo điều kiện cho kinh tế ngoại thương phát triển rực rỡ hơn bao giờ hết - một yếu tố mà theo Li Tana là vấn đề sống còn đối với chính thể Đàng Trong. Như vậy, trong thế kỷ này, Đàng Trong đã hoàn toàn thay đổi, biến mình thành một thế lực nổi lên trong khu vực về tiềm lực hải thương, quân sự! Quan điểm này xuất phát từ cái nhìn trực quan qua những mô tả bên ngoài về đời sống kinh tế - xã hội của Đàng Trong? Khi nhìn nhận lại Nguyễn Hoàng được sai đi trấn thủ Thuận Hóa cũng là công cuộc Nam tiến ngày nay chúng ta có thể nhận thức sâu sắc hơn Đại Việt đương thời, hay nói cách khác, như nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Việt Nam thế kỷ XVI-XVII nằm trong quá trình toàn cầu hóa lần thứ nhất trong lịch sử 60. Trong bối cảnh khu vực và thế giới như vậy, cho đến thời điểm đó, lần đầu tiên Việt Nam có thể hội nhập mạnh mẽ tạo lên một thời kỳ phát triển sâu rộng chưa từng có. - Chủ động hội lưu vào Kỷ nguyên Đại thương Kỷ nguyên Đại thương được các nhà nghiên cứu định khung niên đại là khoảng giữa thế kỷ XV đến khoảng cuối thế kỷ XVII 61. Nhiều nhà nghiên cứu vẫn nghi ngờ về tính chất ngoại thương của người Việt, hay tính hướng biển của người Việt. Thực tế đó đã được phản ánh trong chính sử (hay các nguồn tư liệu ít ỏi tiếng Việt khác) cũng như nhận thức dưới góc độ hệ quy chiếu ngược. Theo đó, căn cứ trên số lượng\tần số người, hàng hóa và phương tiện vận chuyển, đặc tính vùng, miền... để quyết định đến tính chất chuyên biệt này. Tuy nhiên, có một điều không thể phủ nhận là người Việt trong thế kỷ XVI-XVII đã chủ động hội nhập vào quá trình thông thương, nhất là chính quyền Đàng Trong, phải chăng đó là yếu tố ngoại sinh hay tác động từ bên ngoài 62. Trở lại vấn đề, sử liệu của Borri viết năm 1621: "Chúa Đàng Trong không đóng cửa trước một quốc gia nào, ngài để cho tự do và mở cửa cho tất cả người ngoại quốc" 63. "Phương châm của người Đàng Ngoài là không bao giờ tỏ ra sợ một nước nào trên thế giới". 64 Từ lợi thế vô cùng to lớn của một vùng đất mới, ở khía cạnh điều kiện hải thương, Borri cho biết các "hải cảng thì thật lạ lùng, chỉ trong 60 Arturo Giráldez (Đại học Thái Bình Dương, Cali, Hoa Kỳ): Philippin và toàn cầu hóa lần đầu tiên. Báo cáo thuyết trình tại Viện Sử học tháng 9-2009. 61 Anthony Reid phân làm ba thời kỳ: Sơ kỳ (cuối XIV - 1511), Trung kỳ (1511-1600), Hậu kỳ (1600-1670). Southeast Asia in the age of commerce, Vol 1. The Lands below the Winds, 1988. Southeast Asia in the Age of Commerce, Vol 2. Expansion and crisis, 1993. 62 Xem thêm Nguyễn Văn Kim, Nguyễn Mạnh Dũng: Truyền thống và thương mại của người Việt - Thực tế lịch sử và nhận thức. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Số 8 (376)-2007, tr. 21-37, số 9 (377)-2007, tr. 42-53. 63 Christophoro Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1998, tr. 92 64 Christophoro Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621, sđd, tr. 93. 494 TÀI LIỆU HỘI THẢO

khoảng hơn 100 dặm một chút mà người ta đếm hơn sáu mươi hải cảng, tất cả đều rất thuận tiện để cập bến và lên đất liền. Là vì ở ven bờ có rất nhiều nhánh biển lớn" 65. Là chuyên gia về lịch sử Đàng Trong giai đoạn này, Li Tana nhận xét: Đàng Trong đã ra đời đúng thời buổi, trong một "Kỷ nguyên Đại thương" (Age of commerce). Chúng ta có thể nói một cách hoàn toàn bảo đảm rằng chính thương nghiệp đã làm cho vương quốc mới của Việt Nam, chỉ trong vòng ít thập niên, trở nên giàu có và đủ mạnh để có thể duy trì được nền độc lập của mình đối với phía Bắc và mở rộng về phía Nam" 66. Trên thực tế, những nghiên cứu sau này về Đàng Trong cho thấy, so với các quốc gia trong khu vực, vào thời kỳ này số thuyến tới buôn bán với Đàng Trong đầu thế kỷ XVII vượt xa số thương thuyền với Siam và Cao Miên, là một trong đối tác thương mại hàng đầu trong các nước Đông Nam Á với Nhật Bản 67. Đầu thế kỷ XVII, trên bình diện thế giới, các cường quốc hải thương mới trỗi dậy, đặc biệt là sự thành lập của Công ty Đông Ấn Anh (EIC) năm 1600, sau đó (1602) là Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC), rồi Công ty Đông Ấn Pháp (CIO) 68. Mối giao thương truyền thống Đông Á từ giữa thế kỷ XVI đã bị phá vỡ với sự thâm nhập của người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Cùng với thời gian, người Bồ phải dần nhường chân cho các nền hải thương hùng mạnh, và với sức mạnh của mình, VOC và EIC đã làm thay đổi diện mạo gấp nhiều lần so với các nước châu Âu 'già nua'. Trong khi đó, như tôi đã trình bày ở trên, sau sự kiện 1600, Nguyễn Hoàng đã phải có những toan tính ứng xử khác với chính quyền Lê\Trịnh ở Trung đô. Trên cơ sở tham khảo, suy tính đến nhiều mặt khác, nhất là về tài và vật lực (các nguồn tài nguyên) để có thể nâng cao sức mạnh của Đàng Trong, Nguyễn Hoàng đi đến quyết định là dồn sức vào phát triển giao thương, nhất là ngoại thương. Nhận xét về đường lối này, Li Tana cũng nhận xét Ông [tức Nguyễn Hoàng] đã tìm thấy thấy giải pháp cho những suy tính của ông trong việc đẩy mạnh nền thương mại với các thương gia nước ngoài" 69. Trái ngược với chủ trương\phương châm ngoại thương, họ Nguyễn tỏ ra rất kém trong ứng xử với nền khoa học phương Tây du nhập. Thí dụ như sự kiện chờ nguyệt thực mà L.Gaspar mô tả, được CBorri mô tả kỹ hơn trong Xứ Đàng Trong của mình. Nhận định về tri thức khoa học nói chung, ở khía cạnh nào đó, GS. Hoàng Xuân Hãn nhận xét "Một nhược điểm của văn hóa ta là rất kém về khoa học. Cho nên, ngoài ngành y học, hình như ta ít sáng kiến. Riêng về thiên văn, lịch học, ta đã không có trình 65 Christophoro Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621, sđd, tr. 93. 66 Li Tana: Xứ Đàng Trong. Lịch sử kinh tế-xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18. Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, 1999, tr. 85 67 Li Tana: Xứ Đàng Trong. Lịch sử kinh tế-xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18. Sđd, tr. 84-85 68 Thành tựu nghiên cứu hải thương thế kỷ XVI-XVII xin tham khảo công trình Việt Nam trong hệ thống thương mại châu Á thế kỷ XVI-XVII. NXb. Thế giới, Hà Nội, 2007. 69 Li Tana: Xứ Đàng Trong. Lịch sử kinh tế-xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18. Sđd, tr. 87 495 TÀI LIỆU HỘI THẢO

độ khoa học có thể lập được một phép lịch đặc trưng. Các triều đại ta chỉ dùng một vài lịch pháp Trung Quốc có khi đã bị bỏ ở Trung triều rồi" 70. Việc chủ động hội nhập vào dòng chảy buôn bán khu vực và thế giới hẳn nhiên giúp chúa Nguyễn đáng kể trong việc tăng cường tiềm lực an ninh-quốc phòng (an ninh kinh tế). Tuy nhiên sẽ rất khó thuyết phục khi cho rằng qua việc trang bị vũ khí (qua trao đổi, giao thương) là nhân tố quyết định giữ vững Đàng Trong trước các đợt tấn công từ Đàng Ngoài. Những yếu tố như vị thế địa-phòng thủ, thời gian tác chiến xa của quân đội Đàng Ngoài, động cơ tham chiến... cũng phải được tính đến như một vài nghiên cứu gần đây 71. Nhưng cũng dễ hiểu lợi thế hội nhập đúng vào kỷ nguyên thương mại đã giúp cho chính quyền này trong việc nhanh chóng tạo thế cân bằng với chính quyền trung ương. Những "điểm bất lợi" cũng chỉ phản ánh thực tế bế tắc của Đàng Ngoài chỉ với mục tiêu cao nhất là tiêu diệt chính thể Đàng Trong. - Chủ động điều phối quan hệ với các nước trong khu vực Borri nhận xét "Việc họ buôn bán thường xuyên với người Nhật đã đem lại cho chúa rất nhiều đao hay gươm đao theo kiểu Nhật Bản, với nước thép rất tốt" 72. Ngoài ý nghĩa về quân sự, chúa Đàng Trong thấy ở việc buôn bán với người Nhật một niềm "hy vọng ở tương lai" 73. Các số liệu nghiên cứu trước nay đã chứng minh cho mối quan hệ buôn bán rất tốt đẹp giữa Đàng Trong với Nhật Bản. Ngoài số lượng hàng hóa trao đổi, các phương cách để đạt được phép buôn bán, có thể thấy sự hữu hảo giữa hai bên thể hiện ở ba phương diện khác nữa: - Thường xuyên trao đổi thư từ, nắm rõ tình hình và nhu cầu mỗi bên; - Kết tình hữu hảo qua quan hệ hôn nhân, nhận con nuôi; - Lập phố Nhật ở Hội An. Ngoài ra, có thể thấy chúa Nguyễn cũng trực tiếp tham gia buôn bán. Nhưng mặt khác, chúa Nguyễn cũng rất cương quyết và cứng rắn với trường hợp của 'wako' Shirahama Kenchi (Bạch Tần Hiển Quý), thể hiện cách ứng xử nhất quan trọng bang giao quốc tế. Nhìn chung, chúa Nguyễn đã đạt được mục tiêu quan việc buôn bán với người Nhật. Chúa Nguyễn đã có thể trang bị vũ khí tiên tiến để chống lại họ Trịnh, hơn hết, vô tình hay hữu ý, Đàng Trong trở thành một cường quốc thương mại, có sức nặng trong bang giao, hội lưu mạnh mẽ nhất vào kỷ nguyên hưng thịnh kinh tế hải thương. Còn với người Hoa, quan hệ cũng diễn ra suôn sẻ, các sản phẩm trao đổi và vai trò nơi trao đổi hàng hóa đã làm cho nền kinh tế của Đàng Trong có thể phồn thịnh trong ít là 150 năm, nghĩa là cho tới giữa thế kỷ XVIII, việc buôn bán đó đem lại khá nhiều lợi nhuận đến độ, người Nhật đã phải thông qua 70 Hoàng Xuân Hãn: Lịch và lịch Việt Nam. Tập san KHXH, Paris, 1982. 71 Có thể tham khảo bài nghiên cứu của Keith W.Taylor, Các xung đột vùng miền giữa các dân tộc Việt từ thế kỷ XIII đến XIX (trên mạng điện tử). 72 Christophoro Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621, sđd, tr. tr. 84 73 Li Tana: Xứ Đàng Trong. Lịch sử kinh tế-xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18. Sđd, tr. 87. 496 TÀI LIỆU HỘI THẢO

vai trò trung gian của người Hoa sau khi chính sách sakoku thi hành ở Nhật Bản 74. Cuối thế kỷ XVII, vai trò của người Hoa càng tăng hơn. Theo nhìn nhận của người đương thời, chính sách đối với người Hoa của chúa Nguyễn có vẻ cởi mở hơn. Các chúa quyết định dùng người Nhật và người Hoa vì lợi ích của chính họ, sự mở rộng chặt chẽ đó còn được đảm bảo với việc chúa dùng những người nước này trong bộ máy chính quyền Đàng Trong "Đàng Trong cho phép người Nhật và người Trung Quốc được chọn tại đây một địa điểm... Họ có quan tổng trấn riêng và sinh sống theo kiểu của mình" 75. Đáp lại, thương nhân hai nước đáp ứng những nhu cầu của chúa Nguyễn vừa phát triển quan hệ với nước sở tại cũng được dùng như sứ giả thương thuyết buôn bán cho Đàng Trong. Chính quyền Đàng Trong cũng đã mở rộng các mối quan hệ với các quốc gia Đông Nam Á. Ngoài ý nghĩa vị trí địa lý, chính sách mở rộng buôn bán của họ Nguyễn, cũng thấy thực tế là vai trò trung gian của người Nhật và Hoa. Không chỉ có quan hệ đều đặn qua trung gian, chính quyền ở đây còn buôn bán trực tiếp với vương quốc Siam trên cả hai phương diện số lượng và đối tượng tham gia. Theo nghiên cứu của Li Tana đây là lần đầu tiên "nhiều người Việt đã bắt đầu ra ngoài buôn bán với sự khuyến khích của nhà nước trong khi các vương quốc kế cận có thể buôn bán với một nước Việt Nam mà không cần phải che giấu các mối quan hệ thương mại của họ dưới nhãn hiệu 'triều cống' cho hoàng đế" 76. "Các nhà buôn không phải chỉ từ phương bắc hay phương Nam đến An Nam mà cả từ những miền xa xôi nhất như Trung Quốc, Macao, Nhật Bản, Manile và Malaca... theo gương Trung Quốc, một hệ thống đánh thuế buôn bán khác đã được lập ra" 77. Ở đây vừa cho thấy sự tuân thủ nghiêm chỉnh của các thuyền buôn ngoại quốc, sự thích ứng nhanh nhạy của chính quyền Đàng Trong, cũng qua đó cho thấy sự phức tạp của các kiểu biểu thuế. "Thế lực của chúa Nguyễn rất mạnh đến nỗi khi ngài muốn, ngài có thể tuyển ngay được tám mươi ngàn quân binh chiến đấu. Với tất cả lực lượng này ngài vẫn còn sợ chúa chúa Đàng Ngoài vốn có lực lượng lớn hơn gấp bốn lần..." 78 Ở một khía cạnh khác, quang cảnh sinh hoạt trên bến dưới thuyền, tấp nập chưa từng có đó phản ánh một thực tế xã hội của Đàng Trong. Nhưng tôi cho rằng Đàng Trong có một thời điểm cực thịnh có lẽ thế kỷ XVII, thời điểm mà "thu mối lợi không thể tả hết"? Nếu như tư liệu chưa cho phép xác minh, trong một thời gian dài tham gia buôn bán trong nước và quốc tế, người dân Đàng Trong nói chung đâu đó vẫn bộc lộ bản chất\ứng xử chưa phải là những thương nhân thực thụ sành sỏi? C.Borri đã dẫn chứng về một người Bồ mang bán ở Đàng Trong một lọ đầy kim khâu lãi gấp gần 10 lần. "Họ tranh nhau mua tất cả những gì họ thấy miễn đó là đồ mới là và 74 Li Tana: Xứ Đàng Trong. Lịch sử kinh tế-xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18. Sđd, tr. 100. 75 Charles B.Maybon: Những người châu Âu ở nước An Nam. Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2006, tr. 32-33. 76 Li Tana: Xứ Đàng Trong. Lịch sử kinh tế-xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18. Sđd, tr. 114. 77 Charles B.Maybon: Những người châu Âu ở nước An Nam. Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2006, tr. 34. 78 Christophoro Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621, sđd, tr. 84. 497 TÀI LIỆU HỘI THẢO

từ xa tới, họ tiêu sài một cách dễ dàng. Họ ham chuộng tất cả mặt hàng mũ nón, mũ bonnet... vì rất khác các đồ vật của họ". 79 Còn Lê Quý Đôn trong Phủ Biên tạp lục nhận xét "trải qua thời Nguyễn Phúc Khoát hào phòng bắt chước nhau, làm thành thói quen... binh sĩ đều ngồi chiếu mây, dựa quả tựa hoa, ôm lò hương cổ... Coi vàng bạc như cát, thóc gạo như bùn, xa xỉ rất mực", ngay sau đó Lê Quý Đôn nói về Trương Phúc Loan "nhà chứa vàng bạc vô số", Nguyễn Noãn "lấy 120 vợ lẽ, buồng sau chức đầy châu ngọc", nên "Dùng người như thế, hỏi sao không mất nước!" 80. Hay như ngoài ý nghĩa về cái gọi là tiềm lực quân sự, thì "Nguyên ở phủ Chúa cũng có tới sáu mươi cỗ và có những cỗ rất lớn. Người Đàng Trong tinh xảo và có kinh nghiệm sử dụng, họ vượt cả người châu Âu đến nỗi họ chẳng làm gì khác mà chỉ ngày ngày bắn đạn giả và rất hay lấy làm hãnh diện. Vì thế họ tự cho có thế lực đến nỗi vừa thấy những chiếc tàu của châu Âu chúng ta cập bến của họ thì liền bắn súng để thách thức, nhưng người của chúng ta biết rằng súng của họ chẳng địch lại súng của chúng ta, nên người của chúng ta hết sức né tránh tầm bắn" 81. Đàng Trong, trong kỷ nguyên Đại thương, nguồn lợi thu được bất tận và rất dễ dàng nên hiện tượng người dân sống sung túc, thậm chí sung túc quá mức là do\nhờ ngoại thương, "không có thương mại, Đàng Trong khó có thể tồn tại nổi", "đối với Đàng Trong vào buổi đầu, đây là một vấn đề sống chết" 82. Nhưng nếp sống, sinh hoạt trong một 'thế giới mới' dường như không được ăn khớp với nhau! - Mở rộng có điều tiết quan hệ với phương Tây "Cho đến nay người Bồ chỉ buôn bán với xứ này và các cho Dòng chúng tôi cũng chỉ hoạt động ở xứ này để thiết lập đạo Kitô" 83. Theo quan điểm sau này của Li Tana, đầu thế kỷ XVII, Đàng Trong cũng buôn bán chủ yếu với người Bồ ở Macao từ thập niên 1550, cũng như các tư liêu cho thấy người Bồ là người phương Tây thiết lập quan hệ buôn bán sớm nhất với Đàng Trong 84. Trong điều kiện chưa có thể tiếp cận và tận dụng được mối quan hệ với các cường quốc thương mại phương Tây khác, chúa Nguyễn duy trì đều đặn quan hệ với người Bồ Đào Nha "Chúa Đàng Trong 79 Christophoro Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621, sđd, tr. 90-91. 80 Lê Quý Đôn: Phủ Biên tạp lục. Nxb. VHTT, Hà Nội, 2007, tr. 430. 81 Christophoro Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621, sđd, tr. 83. 82 Li Tana: Xứ Đàng Trong. Lịch sử kinh tế-xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18. Sđd, tr. 85. 83 Christophoro Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621, sđd, tr. 12. 84 Li Tana: Xứ Đàng Trong. Lịch sử kinh tế-xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18. Sđd, tr. 85 498 TÀI LIỆU HỘI THẢO