Có người nói, ông Võ Văn Kiệt có duyên với trí thức, văn nghệ sĩ nên được anh chị em yêu quí, gần gũi, bất kể sự khác biệt tuổi tác và môi trường đào tạo. Người viết bài này thì nghĩ rằng cái duyên nếu có vẫn là đến sau cái tình. Ông Kiệt luôn có tình với những người ông tôn trọng, kính trọng về tài năng, về nhân cách... Cố thủ tướng Võ Văn Kiệt. Ảnh: TTO 1. Cách đây mấy năm, TP.HCM công bố đề án thí điểm quản lý, khai thác và bảo trì toàn tuyến đại lộ Đông Tây theo đó đoạn đường dài nhất của đại lộ này mang tên Võ Văn Kiệt sẽ hoàn toàn được quản lý bằng camera thay vì cảnh sát giao thông. Những người rành Võ Văn Kiệt đều bảo nhau, hay tin này chắc ông Kiệt nửa hài lòng, nửa không. Quản lý đô thị bằng phương tiện hiện đại để kéo giảm ách tắc và tai nạn giao thông thì ông vui là chắc. Nhưng cái vụ đặt tên ông cho một con đường nào đó, chứ đừng nói đường lớn, thì chắc ông chẳng vui. Không phải ông lập dị. Chính sách chung là người có công với nước nhà khi mất đi thì được xét chọn để đặt tên đường. Ông không phản đối nguyên tắc này. Điều làm ông không vui là cái cách xét chọn. Người xứng đáng thì không được chọn, vì những lý do khó chia sẻ. Lúc sinh thời, có lần ông Kiệt nói trong một cuộc gặp gỡ không chính thức với giới sử học: "Cỡ như tôi, khi đi theo Bác Hồ, chắc là tên sẽ được đặt cho một con đường nào đó. Tôi không thích cái vụ đặt tên này. Nhưng nếu có tiêu chuẩn đó và nếu được phép thì tôi xin dành suất tên đường đó cho những người khác cần được tôn vinh sớm hơn". Rồi ông nhắc đến tên Phan Thanh Giản đại thần nhà 1 / 6
Nguyễn, người mà suốt mấy chục năm qua hậu thế vẫn chưa dứt những tranh cãi về công tội. Theo nhìn nhận của ông Kiệt, gì thì gì, nghiên cứu lịch sử cho thấy vị đại thần này vẫn là một ông quan thanh liêm, học hành đỗ đạt đàng hoàng, làm nhiều điều tốt đẹp cho dân và khi chết đi được dân ở nhiều vùng Nam Bộ thương kính, lập đền thờ. Thủ tướng Võ Văn Kiệt và công nhân trên công trường xây dựng trạm biến thế 500kv Pleiku ngày 3-11-1993 - Ảnh: Nguyễn Công Thành/TTO "Cái phong cách lãnh đạo sát việc, sát người, chí tình chí lý ấy của ông Kiệt bây giờ hóa ra đã thành của hiếm. Sự hiếm hoi ấy khiến cho rất nhiều người cảm thấy rất nhớ ông, rất thiếu vắng ông." Không ít lần, ông Kiệt đã tâm tình kín đáo với những người gần gũi rằng, được dân chúng khắc ghi hình ảnh mình trong lòng họ như một người gần dân, yêu dân, trọng dân và luôn tìm cách để dân được no ấm, an vui đó là hạnh phúc của người được chọn làm lãnh đạo và đày tớ của dân. Hạnh phúc ấy có thực và quí giá gấp vạn lần việc tên mình được đặt cho một con đường. 2 / 6
2. Là người có gia đình riêng, có vợ, có các con trai, con gái và các cháu nội ngoại nhưng ông Kiệt vẫn được mọi người nhìn nhận là "người của nhiều người". Cái cách ông thương yêu những người ruột thịt là quan tâm đến họ rất nồng ấm nhưng luôn tìm cách hướng họ đến những người xung quanh, bên ngoài gia đình riêng của mình. Bức thư chúc mừng sinh nhật 21 của cháu ngoại Xuân Hà đang học ở Anh, ông viết những lời rất ấm áp "Đừng bao giờ quên rèn luyện nghị lực và ý chí trong cuộc sống và cuộc đời. Hôn con yêu quí nhất của ông thật nhiều mà cũng thật nhiều hi vọng ở con". Món quà ông gửi tặng cháu gái cưng là cuốn băng video ghi lại chương trình của Đài truyền hình TP.HCM Ánh sáng và tình thương một chương trình hướng lớp trẻ đến các hoạt động vì cộng đồng. Ông gửi vào món quà đó cả một kỳ vọng dành cho thế hệ kế tiếp của gia đình: sống là phải biết quan tâm, biết sẻ chia với những người xung quanh. Con cháu trong nhà đều biết: cái ông ghét nhất là thói sống chỉ biết có mình, bo bo vun quén cho riêng mình. 3 / 6
Nhà văn Nguyễn Đông Thức (giữa) trong lần cùng ông Võ Văn Kiệt (phải) ra thăm nông trường dừa Đỗ Hòa của TNXP TP.HCM ở Cần Giờ, năm 1982. Bên trái là chị Võ Thị Bạch Tuyết, giám đốc nông trường. Ảnh: TL Biết đời sống gia đình con gái khá giả, ông thỉnh thoảng đề nghị con kín đáo giúp đỡ cho những người ông quen biết có cuộc sống khó khăn. Đã có lúc, thấy không gian sống của anh em phục vụ ông không thật thoải mái, ông đề nghị con gái chủ động bỏ tiền ra sửa chữa chứ không đợi ngân sách cơ quan. Căn biệt thự 16 Tú Xương quận 3, nơi ông ở từ khi thôi nhiệm vụ thủ tướng Chính phủ, rất khang trang, đáng mấy ngàn lượng vàng theo giá thị trường. Nhà nước đã có giấy tờ chính thức chuyển sở hữu cho ông theo chính sách tặng nhà cho cán bộ cao cấp 60 năm tuổi Đảng và có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng. Khoảng hơn năm trước khi mất, tự tay ông viết một văn bản gửi Thành ủy và Văn phòng Chính phủ khẳng định: căn nhà này, ngay từ khi nhận ông đã thông báo với cơ quan có trách nhiệm là ông chỉ ở khi còn sống, sau đó sẽ chuyển giao lại toàn bộ ngôi nhà cho Nhà nước. Nay ông tái khẳng định nội dung trên đây và bổ sung thêm: dứt khoát không chia chác căn nhà này cho bất cứ ai khác. Câu chuyện ông viết thư gửi lại cho Nhà nước căn biệt thự đã được cấp chủ quyền không nhiều người biết. Tính ông là vậy. Thấy cái gì đúng, cần làm thì làm ngay, không muốn ồn ào, không đợi những lời ngợi khen, cũng chẳng sá điều tiếng. Không nói ra nhưng những đồng chí, đồng đội đã cùng ông Kiệt đi suốt những năm tháng gian khó ác liệt của cuộc chiến tranh giải phóng đất nước đều thấu hiểu ông là người nghĩa nặng tình sâu và rất chi tiết trong sự quan tâm đến những người xung quanh. Câu chuyện dưới đây về bà Sáu Trung là một dẫn chứng. Bà Sáu Trung (Trần Thị Hữu anh hùng lực lượng võ trang) là giao liên bí mật của Khu ủy Sài Gòn (T4), cũng là người từng trực tiếp huấn luyện cho Phan Chí Dũng (Võ Dũng) con trai lớn của ông Kiệt cách đi lại trong lòng địch để anh từ Sài Gòn về khu 9 trót lọt, tham gia chiến đấu và hi sinh ở đó. Sau ngày chấm dứt chiến tranh 1975, bà Sáu Trung sống cô đơn trong căn nhà 4 / 6
nhỏ do nhà nước cấp ở đường Hòa Hảo quận 10. Ông Kiệt lúc này đã trả căn biệt thự 41 Tú Xương mà ông được cấp ở như nhà công vụ để thành phố làm nhà trẻ, lên ở nhà tập thể của Thành ủy ở Thủ Đức. Khi nhắc tới bà Sáu Trung, nhiều người yên tâm khi thấy bà được cấp căn nhà để ở. Còn ông Kiệt, ông không thể an lòng khi thấy người nữ đồng chí tuổi xuân bỏ đi đã lâu, nay một mình vò võ...ông nói, Nhà nước có thể cấp một căn nhà nhưng đâu thể "cấp" hơi ấm trong căn nhà đó. Ông đã chủ động đưa Phan Thanh Nam, con trai ông (sau Phan Chí Dũng và trước Hiếu Dân) đến ở với bà Sáu. Phần thì để tiện đi học đại học Bách khoa, phần thì để chăm sóc bà như một đứa con trai. Căn nhà bà Sáu nhờ đó mà ấm cúng không khí gia đình. Khi Nam lập gia đình, ra ở riêng, bà Sáu đón đưa cháu ngoài quê Hội An vào ở chung. Còn Nam thì vợ chồng con cái vẫn thường về thăm bà, xem bà như "mẹ", như "bà". 3. Những người gắn bó với phong trào Thanh niên xung phong TP.HCM sau giải phóng chắc chắn chưa thể quên gương mặt xúc động của hàng ngàn thanh niên nam nữ trên sân vận động Thống Nhất vào ngày 28.3.1976. Rất nhiều người trong số họ là con em gia đình công chức và quân đội chế độ cũ. Làm thế nào để xóa đi "vết đen lý lịch" của những người "không được chọn cửa để sinh ra", để họ được đối xử bình đẳng trong chế độ mới? Cả trong cương vị người đứng đầu thành phố lẫn cương vị của một người thuộc lớp đi trước, ông Kiệt trăn trở nhiều lắm. Cuối cùng, ông đã chọn một cách làm thật tuyệt vời và giao cho Thành Đoàn thực hiện: tổ chức lực lượng Thanh niên Xung phong. Lực lượng này cần biết bao cho công cuộc tái thiết đất nước sau chiến tranh. Và lớp trẻ thành phố khi ấy cũng có biết bao người cần lao động để nuôi sống bản thân mình và để thấy mình có ích. Chủ trương là, hễ là thanh niên, bất kể xuất thân thế nào, miễn là tự nguyện thì được kết nạp vào lực lượng. Vào đó, trải qua lao động trên đồng khô cỏ cháy và rừng sâu núi cao, trải qua trui rèn kỷ luật, các bạn chắc chắn trưởng thành, trở thành người lao động có những đóng góp rất cụ thể cho công cuộc dựng xây đất nước. Một lớp trẻ "trắng tinh", không còn mặc cảm nặng nề về cái "vết đen lý lịch" từ gia đình nữa. Trần Ngọc Châu, Nguyễn Đông Thức, Đỗ Trung Quân, Nguyễn Nhật Ánh, Trường Kiên, Tiếng Thu,... đã từ môi trường thanh niên xung phong những ngày đầu giải phóng ấy mà vươn lên đoạt lấy những thành công trong cuộc sống, trở thành "thần tượng", thành "người của công chúng" nhiều năm sau này. Nhớ lại mới thấy, nếu không có tầm nhìn xa rộng về sự hàn gắn dân tộc trong tương lai, nếu không giải quyết các vấn đề con người bằng trái tim con người thì làm sao có thể đề ra và chỉ đạo thực hiện thành công một chủ trương đúng đắn và nhân văn đến thế. Sắp bốn mươi năm rồi, vậy mà mỗi khi nhớ lại ngày 28.3.1976 ấy, nhiều người thuộc lớp con em của chế độ cũ khoác áo Thanh niên Xung phong chế độ mới vẫn còn rưng rưng cảm động. Ông Kiệt, người đứng đầu chính quyền cách mạng, đã mở đầu bài diễn văn trong ngày hôm ấy bằng câu "Các em yêu quí!". Họ, lớp trẻ bị định kiến lý lịch đã được ông Kiệt gọi trìu mến và chân tình xiết bao "Các em yêu quí". Chỉ thế thôi cũng đủ để họ tự tin dấn thân vào cuộc đời mới. Họ đã đến gần với cách mạng thông qua hình ảnh thân thương, gần gũi cụ thể là ông Võ Văn Kiệt. 5 / 6
Cố 4. gũi, duyên thứ mạng, chung. mà anh không người cũng em quan các phục bài chúng chỉ cho Cái thành ông. quí, đã trọng. Ông Theo Có sống thủ thơ gần đã khác quí phong bài bất diễn trích chị Kiệt kính đi đích Cả rủ giá tâm về Nguyễn của nếu thể ta quên xây người ra Nhưng, tướng ấy giá thơ, kể rê gũi lúc em vì lại, tài là nữa trị vở của trọng, thẳng có thực biển, có nào hiếm. Nguyễn cách dựng mọi sự đó người họ năng, còn này khiến nói, đừng thể rồi chính lãnh nhiều đi Lưu Võ vẫn khác toàn không là Thế bằng một muốn người đi thắn thốt chứ theo. lãnh ngồi ca sống ở đất Sự một Văn trực lên Quang đạo bỏ về người thành là luận Duy, khúc xã cách biệt Thanh/Người câu không lên hiếm nước được thói đến Kiệt tự đạo nghe nhân đất rừng - Ông khơi bằng và tiếp hội phải người sâu nhiên những tuổi nghe Nguyễn tha phố, ta chân cả quan nước sau Vũ sát có hoi mà giàu Sơn. biết, cùng và gợi làm chỉ Trịnh cách. ray chính sắc khi tác thiết, duyên không việc, - văn ấy cái như trước thành, của liêu, lời thủy mà rứt... riêng mạnh các đã Bài khơi lãnh và trong khiến Ông Quang tình. Công có, sự nghệ khen bài đô cháy những sẽ sát từ đi, - môi với kẻ công được hát điện, hết Tài nhiều dấn gia gợi đạo chúng giã để chịu thị diễn cần hoặc luôn bài Ông người, cả, cho trí trường rất của bỏng sĩ. Sơn tự năng Sáng, đình biến để thế trình mũi thân, hoan hội làm thơ thức, đến trù Ảnh: đáy văn, - thực nói rất trách Kiệt nếu Sơn những ở người. hát giới Sân chí lôi Đánh kim ruột các úm đó đường trong quan với nhiều rất đào lòng bằng nghênh Trần TL văn các theo luôn có đi cuốn viết nhiệm tình là này người chích tài khấu nhiều con thịt hát của đi tạo. riêng thức nghệ nghị phải những trọng Long có người tấm đúng năng, đi dây chí thì ông lòng lại cháu, ở thẳng báu Người thành nếu thịt tình tốt tài cũng tiềm nơi thật lý biệt, Hà chân 500KV, những sĩ quyết Kiệt ấy Ẩn, "kiểu người. con của cảm đức năng, ấy nên có da ông với NỘi của sự lực vào phố Tôn phải nhớ viết của vẫn tình, bật người sự đau các độ không những thấy cán được ca tôn là và của làm đất lương Ông trái phê ngồi bài Thất mà ra, luôn được chồng, khúc cán nhói. bằng suýt trọng bộ Kiệt": rất nước cụ Nguyễn đường tim thành anh phục này quay thể không phán người "duyệt" trẻ, được Lập... bộ tri, nhớ thể. nữa như trân Cái người sự tài chị thì thay "Mình là cần nhiệt tổ vụ rằng bây về. sức từ sòng Hồ ông, cha, Người năng, ở Em trọng hồi giấu nhiều nghĩ chức Duy, và cho em đâu cả rồi thế sự Nhưng ta, giờ Chí mạnh huyết. làm muốn vở những còn tôn rất phẳng Sài ông diếm động yêu rằng giữ sự đúng thoái các cho đó. phẩm người hóa làm kịch ông. Minh, cách trọng, thiếu nhớ nghiệp Gòn chân vận quí, chỉ mình bút nói Những dù cái sự cách ra anh viên, hóa), mức". và Ông Tôi chất hay yêu đi trong đã vắng (vì với ký, động. gần đạo khâm kính tự chị nói đâu và sựđể 6 / 6