Mật Tạng Bộ 4 _ No.1204 (Tr.31 _ Tr.33) THÁNH VÔ ĐỘNG TÔN NHẤT TỰ XUẤT SINH BÁT ĐẠI ĐỒNG TỬ BÍ YẾU PHÁP PHẨM Phạn Hán văn: Chùa Đại Hưng Thiện_ Viện Phiên Kinh thuật Phạn Việt dịch: HUYỀN THANH Kim Cương Thủ (Vajrapāṇi) nói: Ý tưởng của tất cả chúng sinh chẳng giống nhau, hoặc thuận hoặc nghịch, thế nên Đức Như Lai hiện thân Từ Nộ tùy làm lợi ích Giải là: Chư Phật rất thương xót Chúng Sinh cho nên đối với người Thuận thì dùng Thuận mà khuyên, đối với kẻ Nghịch thì dùng nghịch mà chế phục. Một khi Đức Phật trụ Tam Muội Phẫn Nộ (Krodha-samādhi) thời mười phương chư Phật cùng chung vào Tam Muội Phẫn Nộ Sân như Tỳ Lô Giá Na (Vairocana) ở trong Vô Tướng thị hiện Minh Vương (Vidyarāja) thời chư Phật Bồ Tát liền hiện thân Phẫn Nộ (Krodha-kāya) vậy. Chính vì thế cho nên Như Lai ở bốn phương hiện thân Giáo Lệnh hàng phục chúng Ma. Tuy nhiên giống như gần gũi mà chẳng chạy theo ấy là do Bản Thệ chẳng giống nhau. Hoặc Hàng Tam Thế Bồ Tát (Trailokya-vijaya) hàng phục Thiên Ma với Tham, Sân, Si của ba đời Hoặc Quân Đồ Lợi Bồ Tát (Kuṇḍali) điều phục Thường Tùy Ma là Tỳ Na Dạ Ca (Vinayàka: Loài gây chướng ngại) với Nhân Ma Hoặc Diễm Ma Đặc Ca (Yamāntaka) hàng phục Long Ma với các oán địch Hoặc Kim Cương Dạ Xoa (Vajra-yakṣa) điều phục Quỷ Ma với loài không có Trí Mọi loại như vậy chẳng thể nói đủ Bất Động Minh Vương (Acala-vidyarāja) hằng tùy theo Hành Giả, hoặc Trời, hoặc Tỳ Na Dạ Ca, hoặc Rồng, hoặc Quỷ một thời tiêu diệt hết thảy chướng ngại Xong chư Phật Bồ Tát nếu cùng trụ một Tam Muội thì có thể tùy theo hoằng thệ của Bất Động mà làm Sứ Giả Như có Tam Tạng BẤT KHÔNG (Amogha-vajra) hay đạt đường lối sáng tỏ (Minh Đạo) nên Ngài nhìn thấy văn trọng yếu của Bí Tạng có Tâm Mật Ngữ một chữ của Bất Động Minh Vương, liền đem tám chữ để trang nghiêm một chữ. Tám chữ ấy tức là câu Quy Mệnh còn chữ Hàm ( 詶 _ Hāṃ) là Bản Tôn Như tám chữ trên Nhĩ Ninh (Jini) không có hình ư? Tại sao như thế? Tám chữ của nhóm Namaḥ ( 巧休 ) mỗi mỗi đều quy kính ở một chữ Hāṃ ( 詶 ) Chính vì thế mà tám chữ sinh ra Quy Kính Sứ Giả vây quanh chữ Hāṃ ( 詶 ) là Bản Tôn cho nên có tám Đại Đồng Tử Một là Tuệ Quang Bồ Tát (Kim Cương nói rằng: Hồi Quang tức dùng Tuệ như ánh sáng chiếu hồi tất cả) Hai là Tuệ Hỷ Bồ Tát (Kim Cương nói rằng:tuệ Hỷ tức Hồi Tuệ làm vui) Ba là A Nậu Đạt Bồ Tát Bốn là Chỉ Đức Bồ Tát Năm là Ô Câu Bà Nga Sáu là Thanh Tịnh Tỳ Khưu Bảy là Căng Yết La Tám là Chế Tra Ca 187
Sứ Giả của nhóm này là bốn Trí và bốn Ba La Mật Vì gần gũi tùy thuận Giáo Lệnh của Đức Đại Nhật nên hiển hiện hình này vây quanh Thánh Vô Động Tôn, đều ở trong Chân Ngôn riêng mà hiển ý nghĩa này Giải rằng: Kim Cương Bộ (Vajra-kulāya) ở phương Đông tức Bồ Đề Tâm Môn, dùng ánh mặt trời làm ví dụ cho nên sinh ra Sứ Giả tên là Tuệ Quang Bảo Bộ (Ratna-kulāya) ở phương Nam tức Phước Đức Môn cho nên sinh ra Sứ Giả tên là Tuệ Hỷ, dùng Phước Đức Nhị Nghiêm làm vui Liên Hoa Bộ (Padma-kulāya) ở phương Tây tức Trí Tuệ Môn cho nên hiện ra Sứ Giả tên là A Nậu Đạt. Đây nói là Vô Nhiệt (không nó nóng bức) biểu thị cho hoa sen sinh từ nước ao đầm mà vẫn trong sạch không nhiễm dơ Yết Ma Bộ (Karma-kulāya) ở phương Bắc tức Tinh Tiến Môn cho nên sinh ra Sứ Giả tên là Chỉ Đức. Nay Bộ này chỉ Đức của ba Bộ trước tức y theo Tinh Tiến hay được Quả cho nên gọi là Chỉ Đức (Phần trên là bốn Trí) Kim Cương Ba La Mật (Vajra-pāramitā) tức Bồ Đề Tâm Hạnh cho nên hiện ra Sứ Giả tên là Ô Câu Bà Nga. Đây là Siêu Việt trụ Thế Bảo Ba La Mật (Ratna- pāramitā) tức Phước Đức Tâm Hạnh cho nên sinh ra Sứ Giả tên là Thanh Tịnh Tỳ Khưu biểu thị cho Tỳ Khưu hay thủ hộ Pháp Bảo Pháp Ba La Mật (Dharma- pāramitā) tức Từ Bi Tâm Hạnh cho nên hiện ra Sứ Giả tên là Căng Yết La. Đây là Tùy Thuận Nghiệp Ba La Mật (Karma- pāramitā) tức Phương Tiện Tâm Hạnh cho nên sinh ra Sứ Giả tên là Chế Đa Ca. Đây là Tức Tai Bồ Tát phương tiện hiện hình giận dữ vậy Đã nói xong chỗ y cứ của tám Đồng Tử Nếu Hành Giả muốn được Tất Địa hiện tiền thì ở trong Pháp Hành xưng các tên gọi ấy, thỉnh cầu xin cứu hộ với kết Ấn tụng Chú tức thành tất cả Tất Địa thù thắng của Thế Gian Tuệ Quang Đồng Tử Bồ Tát Chân Ngôn là (Tức Kim Cương Hợp Chưởng, hợp Nhẫn Nguyện (2 ngón giữa) như cây kim) 湡向忝亙包詷匡回囚才柰巧 Án phộc nhật-la (1) ma đế, nhập-phộc la (2) bồ địa chất đa (3) nẵng (Quy mệnh Bản Tôn) Oṃ_ vajra mate-jvala (?Mati-jvala) bodhi-citta Na Tuệ Hỷ Bồ Tát Chân Ngôn là (Kim Cương Hợp Chưởng, Nhẫn Nguyện (2 ngón giữa) như hình báu) 湡先寒亙包屹鉡亙扣亙仗休 Án, la đát-nẵng (1) ma đế sa độ (2) ma ha ma nê (3) mạc (Quy mệnh Bản Tôn) Oṃ _ Ratna mate sadhu (?Mati-sadhu) mahā-maṇi Maḥ A Nậu Đạt Bồ Tát Chân Ngôn là (Kim Cương Hợp Chưởng, Nhẫn Nguyện (2 ngón giữa) như cánh sen) 湡扔痧屹楠叼成盲在亦巧亙扣叻廕戌 Án, bát nạp-ma (1) tát phộc na hạ bát-la xả nhĩ nẵng (2) ma ha đạt ma (3) tam (Quy mệnh Bản Tôn) Oṃ _ Padma satva-dāha-praśamina (?Satva-daha-praśamina) mahā-dharma Saṃ Chỉ Đức Đồng Tử Bồ Tát Chân Ngôn là (Kim Cương Hợp Chưởng, Nhẫn Nguyện (2 ngón giữa) vào trong lòng bàn tay, cùng hợp mặt ngón) 188
湡一廕亙扣因搏扔共觢先一伐 Án, yết la-ma ma ha phệ lý-gia (Đại Vô Úy) bát lý bố la ca (Mãn nguyện) mãn (Quy mệnh Bản Tôn) Oṃ _ Karma mahā-vairya paripūraka Maṃ Ô Câu Bà Nga Đồng Tử Chân Ngôn là (Kim Cương Hợp Chưởng) 湡向忝屹玆栥乃矛丫亙扣戎米凹 Án, phộc nhật-la (1) tát đỏa bà (2) ô câu bà nga (3) ma ha táo xí-gia (4) đa (Quy mệnh Bản Tôn) Oṃ_ Vajra satva-ukubhaga mahā-saukhya Ta Thanh Tịnh Tỳ Khưu Sứ Giả Chân Ngôn là (Phạm Giáp Ấn) 湡亙仗合妄叻叻廕乃冰先朽叻廕向 Án, ma ni (1) vĩ thâu đà đạt ma câu lỗ (2) la khất xoa đạt ma (3) phộc (Quy mệnh Bản Tôn) Oṃ_ Maṇi viśodha dharma kuru (?Viśuddha-dharma-guru) rakṣa dharma Va Tôn) Căng Yết La Đồng Tử Chân Ngôn là (Liên Hoa Hợp Chưởng) 湡叻廕詶一先凸沰忝 Án, đạt lỗ ma (1) căng yết la (2) để sắt tra (3) nhật-la (Quy mệnh Bản Tôn) Oṃ_ Dharma hāṃkara (?Kiṅkara) tiṣṭa Jra Chế Đa Ca Đồng Tử Chân Ngôn là ( Ngoại Phộc Ngũ Cổ Ấn) 湡一廕才巴一狫嫟民誆冊 Án, yết lỗ ma (1) chế tra ca (2) hồng hồng (3) phát tra (4) nam (Quy mệnh Bản Oṃ _ Karma ciṭaka (?Ceṭaka) hūṃ hūṃ phaṭ Ṇaṃ Tiếp Bản Tôn Chân Ngôn là (Ấn trong Kinh thông dụng) 湡狣弋匡弋汔詶 Án (1) a tả la (2) tán noa (3) hàm (Sở quy Bản Tôn) Oṃ _ Acala caṇḍa Hāṃ Tiếp nói Tượng Pháp (Pháp vẽ tượng) Hành Giả chấm chọn một nơi thanh tịnh, đừng để cho nhìn thấy Người và Phi Nhân. Tức Hành Giả cùng với Công Nhân đồng thanh tịnh, mặc áo mới sạch. Lấy mảnh lụa trắng hoặc tấm phản sạch hoặc cái áo sạch khiến vẽ Bản Tôn và tám Đại Đồng Tử (Tượng của Bãn Tôn có trong Kinh thông dụng) Hình của Tuệ Quang (Mati-jvala) hơi phẫn nộ, đội mão trời (thiên quan), thân màu vàng trắng, tay phải cầm chày Ngũ Trí, tay trái cầm hoa sen bên trên có để vành trăng. Cà Sa, Anh Lạc, mọi thứ trang nghiêm Tiếp Tuệ Hỷ Bồ Tát (Mati-sadhu) có hình tựa như khuôn mặt hiền lành với tướng mỉm cười, màu như sen hồng, tay trái cầm ngọc Ma Ni, tay phải cầm Tam Cổ Câu A Nậu Đạt Bồ Tát (Anavatapta, hay Satva-daha-praśamina) có hình như Phạm Vương, màu như vàng ròng, đỉnh đầu đội Kim Xí Điểu, tay trái cầm hoa sen, tay phải cầm chày Độc Cổ, cỡi Long Vương Chỉ Đức Bồ Tát (Mahā-vairya) có hình như Dạ Xoa, màu như hư không, mặt có ba mắt, mặc giáp trụ, tay trái cầm bánh xe, tay phải cầm Tam cổ Mâu 189
Ô Câu Bà Nga (Ukubhaga) đội mão Ngũ Cổ, hiện tướng bạo ác, thân như màu vàng, tay phải cầm Phộc Nhật La (Vajra: Kim Cương), tay trái tác Quyền Ấn Thanh Tịnh Tỳ Khưu (Viśuddha-dharma-guru) cắt bỏ tóc trên đầu, mặc Pháp Cà Sa kết rũ ở vai trái,tay trái cầm Phạm Lai, tay phải để ngang trái tim cầm chày Ngũ Cổ, hiện lộ vai phải, quấn quần đỏ ở eo lưng, diện mạo chẳng trẻ chẳng già, mắt như sen xanh, trên miệng có răng nanh hiện ra bên dưới Tiếp Căng Yết La (Kiṅkara) có hình như đứa trẻ 15 tuổi, đội mão Hoa Sen, thân màu thịt trắng, hai tay chắp lại, ở khoảng giữa của ngón cái và ngón trỏ có chày Độc Cổ cắm ngang Tiếp Chế Tra Ca (Ceṭaka) cũng như Đồng Tử, màu như sen hồng, đầu kết 5 búi tóc (một búi tóc ở chính giữa bên trên đỉnh đầu, một búi tóc trên vầng trán, hai búi tóc ở hai bên trái phải của cái đầu, một búi tóc ở phía sau đỉnh đầu biểu thị cho 5 Trí ở 5 Phương) tay trái cầm Phộc Nhật La (Vajra: chày Kim Cương) tay phải cầm cây bổng Kim Cương. Vì tâm giận Tính ác cho nên chẳng mặc Cà Sa, dùng Thiên Y (áo khoác ngoài) buộc quang cổ và vai Đã nói xong phép vẽ tượng Tiếp nói Pháp Cúng Dường Hành Giả muốn bày tỏ Cúng Dường. Trước tiên nên phát Tâm Bồ Đề (Bodhi-citta). Thế nào là Tâm Bồ Đề? Ấy là phát tâm cứu chúng sinh, suy nghĩ về nỗi khổ não của chúng sinh mà khởi tâm nhổ bỏ (khỗ não ấy). Lúc phát tâm như vậy thời Bất Động Minh Vương với tám Đại Đồng Tử làm Bất Thỉnh Sư (vị thầy không cần cầu thỉnh) từ tâm của mình đi ra hộ trì Hành Giả, (cho nên) cần phải cúng dường Trụ ở chốn núi rừng vắng lặng. đốt hương rải hoa, trì niệm Chân Ngôn. Lúc hành như vậy thời Sứ Giả hiện thân tùy ý phụng sĩ (phụng sự) Trước hết lễ Như Lai ở bốn phương, phát Thệ Nguyện lớn Liền lễ phương Đông, tác lời niệm này: Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ là Nguyện (?nhân) của Đại Viên Kính Trí (Adarśa-jñāna), tức Bồ Đề Tâm Môn. Tâm Bồ Đề tức là Tâm độ chúng sinh cho nên người phát nguyện này và làm lễ cho đến thành Phật thường được Kim Cương Tát Đỏa (Vajrasatva) gia trì khiến cho viên mãn Tâm Bồ Đề Tiếp lễ phương Nam, tác lời niệm này: Phước Trí vô biên thệ nguyện tập là nhân của Bình Đẳng Tính Trí (Samatā-jñāna) tức Phước Trí Môn. Dùng Phước Trí làm hai loại tư lương lợi ích chúng sinh. Nếu người phát nguyện này và làm lễ cho đến thành Phật Địa. Trong Địa thường được Hư Không Tạng Bồ Tát (Ākāśagarbha bodhisatva) trao cho Quán Đỉnh, viên mãn Phước Trí Tiếp lễ phương Tây, tác lời niệm này: Pháp Môn vô biên thệ nguyện học là nhân của Diệu Quán Sát Trí (Pratyavekṣana-jñāna), tức Trí Tuệ Môn. Làm Đại Pháp Vương cho nên người phát nguyện này và làm lễ cho đến thành Phật sẽ được Quán Tự Tại Bồ Tát (Avalokiteśvara Bodhisatva) gia trì, viên mãn Trí Tuệ Tiếp lễ phương Bắc, tác lời niệm này: Như Lai vô biên thệ nguyện sĩ (?sự) là nhân của Thành Sở Tác Trí (Kṛtya-muṣṭhāna-jñāna), tức Tác Nghiệp Môn. Ở trước chư Phật làm các sự nghiệp. Nếu người phát nguyện này và làm lễ cho đến thành Phật sẽ được Kim Cương Nghiệp Bồ Tát (Vajrakarma Bodhisatva) gia trì, ở tất cả Thế Giới của Phật đều thành tựu nghiệp cúng dường rộng lớn Tiếp lễ Tỳ Lô Giá Na Như Lai (Vairocana Tathāgata) rồi nói lời này: Vô Thượng Bồ Đề thệ nguyện chứng là nhân của Pháp Giới Thể Tính Trí (Dharma-dhātu-parakṛtijñāna), chứng Đại Nhật Phổ Hiền Vị, vòng khắp Pháp Giới. Vì làm lợi cho chúng sinh nên phát Nguyện này thời chư Phật mười phương cùng lúc chứng minh, khen ngợi rằng: Lành 190
thay! Chính vì thế cho nên tất cả Bồ Tát Thánh Chúng đều cùng nhau thủ hộ, chẳng lâu sẽ được Đạo Vô Thượng ấy Đã nói Tổng Nguyện, còn lại các Nguyện riêng thì tùy ý nên bày tỏ cho đến đem căn lành hồi hướng cho ta người được lợi ích bình đẳng kèm chẳng ăn vật bất tịnh, tâm không có lo buồn, chẳng khởi phiền não của nhóm tham sân si. Chẳng vui với niềm vui thuộc Thế Gian, tu sâu Thiền Định Hành Giả như vậy là niềm vui to lớn của đời, là Thầy của chúng sinh, Tam Ma Địa (Samādhi) hiện tiền, mau chứng Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề (Anuttarasamyaksaṃbuddhi) THÁNH VÔ ĐỘNG TÔN NHẤT TỰ XUẤT SINH BÁT ĐẠI ĐỒNG TỬ BÍ YẾU PHÁP PHẨM _Hết_ Hưởng Bảo Thập Nhị Long Phi, Ất Mão, tiết Thanh Minh, ngày mồng tám. Trộm lấy chút ít Hạnh ghi khắc do Thầy truyền mà không có bản khác để có thể đối chiếu,nên dùng bản thư của Kỳ Vị Chính Quan để bổ xung, mong người đời sau chọn bỏ rồi đính chính giùm cho. Nhật Vực Phong Sơn Trường Cốc Luân Hạ Tang Môn VÔ ĐẲNG ghi Hiệu chỉnh xong vào ngày 28/11/2011 191