TỰ ĐỨC (Phan Thượng Hải) Vua Tự Đức (tên là Hồng Nhậm) là con thứ hai của vua Thiệu Trị nhưng là dòng đích vì sinh từ bà Từ Dũ. Người anh cả là Hoàng tử Hồng Bảo muốn tranh ngôi, tư thông với ngoại quốc (Cao Miên) nên bị vua Tự Đức bắt giam (năn 1853). Theo Chính sử thì một hôm vua Tự Đức kể với quần thần tại điện Văn Minh là đêm qua ông nằm mơ thấy răng mình cắn lưỡi của mình. Quan Hàn Lâm viện Trước Tác là Nguyễn Hàm Ninh (1808-1867) liền dâng bài thơ: THIẾT THIỆT Sinh ngã chi sơ, nhĩ vị sinh Nhĩ sinh chi hậu, ngã vi huynh Bất tư cộng hưởng trân cam vị Hà nhẫn tương vong cốt nhục tình (Nguyễn Hàm Ninh) CẮN LƯỠI Lúc ta sinh ra ngươi chưa sinh Ngươi sinh ra sau ta làm anh Không biết cùng hưởng trân cam vị Sao nỡ tương vong cốt nhục tình (Phỏng dịch) Biết ý ông nầy muốn can mình đã ngược đãi anh mình là Hồng Bảo, vua Tự Đức cho người phạt đánh roi ông Nguyễn Hàm Ninh, mỗi chữ đánh một roi! Năm sau ông Hồng Bảo chết trong ngục (1854). Con của Hồng Bảo không được giữ họ Ưng như Đế Hệ Thi mà phải đổi thành họ Đinh. Năm 1866, Đoàn (Hữu) Trưng, rể của Tùng Thiện Vương phò con của Hồng Bảo là Đinh Đạo đánh vào Tử Cấm Thành ở kinh đô Huế nhưng thất bại. Gia thuộc Hồng Bảo bị tru di tam tộc! Ngoại sử lại kể một câu chuyện khác xảy ra trước đó: Có một lúc (năm 1788), Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ bất bình đem quân từ Phú Xuân (Huế) về đánh anh mình là Thái Đức Hoàng Đế Nguyễn Nhạc và vây ông nầy ở thành Qui Nhơn (thành Đồ Bàn của Chiêm Thành). Ông Nguyễn Nhạc phải đứng trên thành mà khóc rằng nỡ nào nồi da nấu thịt (Bì oa chử nhục, đệ tâm hà nhẫn) làm ông Nguyễn Huệ cảm động và rút quân. Tuy nhiên sự thật là không phải vậy. Trong khi vây thành Qui Nhơn, ông Nguyễn Huệ đang ăn trong doanh trại thì răng mình cắn lưỡi mình. Ông lấy làm lạ, không biết là điềm gì nên hỏi quan Trung Thư Lệnh là Trần Văn Kỷ thì ông Trần Văn Kỷ liền đọc bài thơ: THIẾT THIỆT Ngã ký sinh tiền nhĩ vị sinh Nhĩ ưng vi đệ ngã vi huynh Lý ưng cộng hưởng trân cam vị Hà nhẫn tương vong cốt nhục tình. (Trần Văn Kỷ) CẮN LƯỠI Ta sinh ra trước ngươi chưa sinh Ngươi chịu làm em ta làm anh Đáng lẽ cùng hưởng trân cam vị Sao nỡ tương vong cốt nhục tình. (Phỏng dịch) Nguyễn Huệ hiểu ý, ông liền giải vây và rút quân. Ông Nguyễn Nhạc phải nhường đất Quảng Nam cho ông Nguyễn Huệ chỉ còn giữ Quảng Ngãi, Qui Nhơn và Phú Yên mà thôi.
Ngày nay nhiều Sử gia cho là ông Nguyễn Hàm Ninh đã mượn một ít từ ông Trần Văn Kỷ? Cũng như vua Minh Mạng và vua Thiệu Trị, vua Tự Đức (1848-1883) làm thơ rất nhiều (có hơn 4000 bài thơ). Dưới đây là bài thơ theo thể Lục chuyển hồi văn : VÔ ĐỀ Gương tà nguyệt xế đã ngoài song Héo hắt sao trông quá sức trông Thương bấy thiết tha lòng héo liễu Nhớ thêm vàng vọ má phai hồng Vương sầu xiết tưởng chi ngôi bắc Ðoạn thảm xui buồn vã chạnh đông Chàng hỡi biết chăng ai bực bội Loan hàng viết thảo tả tình chung (Vua Tự Đức) Thể Lục chuyển hồi văn của bài thơ trên là hoàn toàn: 1. Đọc xuôi Gương tà nguyệt xế đã ngoài song Héo hắt sao trông quá sức trông Thương bấy thiết tha lòng héo liễu Nhớ thêm vàng vọ má phai hồng Vương sầu xiết tưởng chi ngôi bắc Ðoạn thảm xui buồn vã chạnh đông Chàng hỡi biết chăng ai bực bội Loan hàng viết thảo tả tình chung 2. Đọc ngược Chung tình tả thảo viết hàng loan Bội bực ai chăng biết hỡi chàng Đông chạnh vã buồn xui thảm đoạn Bắc ngôi chi tưởng xiết sầu vương Hồng phai má vọ vàng thêm nhớ Liễu héo lòng tha thiết bấy thương Trông sức quá trông sao hắt héo Song ngoài đã xế nguyệt tà gương. 3. Bỏ 2 chữ đầu và Đọc xuôi Nguyệt xế đã ngoài song Sao trông quá sức trông Thiết tha lòng héo liễu
Vàng vọ má phai hồng Xiết tưởng chi ngôi bắc Xui buồn vã chạnh đông Biết chăng ai bực bội Viết thảo tả tình chung 4. Bỏ 2 chữ đầu và Đọc ngược Tả thảo viết hàng loan Ai chăng biết hỡi chàng Vã buồn xui thảm đoạn Chi tưởng xiết sầu vương Má vọ vàng thêm nhớ Lòng tha thiết bấy thương Quá trông sao hắt héo Đã xế nguyệt tà gương. 5. Bỏ 2 chữ sau và Đọc xuôi Gương tà nguyệt xế đã Héo hắt sao trông quá Thương bấy thiết tha lòng Nhớ thêm vàng vọ má Vương sầu xiết tưởng chi Ðoạn thảm xui buồn vã Chàng hỡi biết chăng ai Loan hàng viết thảo tả. 6. Bỏ 2 chữ sau và Đọc ngược Chung tình tả thảo viết Bội bực ai chăng biết Đông chạnh vã buồn xui Bắc ngôi chi tưởng xiết Hồng phai má vọ vàng Liễu héo lòng tha thiết Trông sức quá trông sao Song ngoài đã xế nguyệt. Vấn đề Phạm Húy chấm dứt sau đời vua Tự Đức. Phạm Húy tức là trùng tên vua chúa (nhà Nguyễn) nên có những từ phải sửa lại: Vì tên chúa Tiên là Nguyễn Hoàng nên đổi là Huỳnh thay vì là Hoàng. Vì kỵ Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát nên đổi là Võ thay vì là Vũ Vua nhà Nguyển họ Nguyễn Phúc nên dùng chữ Phước thay vì là Phúc Vua Thiệu Trị tên là Nguyễn Phúc Miên Tông nên dùng chữ Tôn thay vì Tông. Thí dụ Lê Thánh Tôn thay vì Lê Thánh Tông.
Tên thuở nhỏ của vua Tự Đức là Nguyễn Phúc Thì và tên lúc lớn là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm nên gọi là Thời Nhiệm thay vì Thì Nhậm. Nho Giáo được tôn trọng từ thời nhà Hậu Lê với ông Nguyễn Trãi, lên đến tuyệt đỉnh như cuộc đời Kẻ Sĩ của ông Nguyễn Công Trứ vào đời vua Thiệu Trị, nhưng lại suy tàn nhanh chóng sau khi người Pháp đến và vua Tự Đức qua đời. Cũng như vua Minh Mạng, vua Tự Đức cấm đạo Thiên Chúa (Gia Tô) rất nghiêm nhặt. Một nạn nhân nổi danh hậu thế là Philipphê Phan Văn Minh (1815-1853), sinh ở Cái Mơn, Vĩnh Long. Thầy theo Cố Taberd qua chủng viện Pénang (Mã Lai) rồi có sang Calcutta giúp Cố Taberd viết cuốn Tự Điển Việt La Tinh. Theo ông Dương Quảng Hàm, nhờ Thầy Phan Văn Minh sửa đổi nên chữ Quốc Ngữ mới viết như chúng ta viết bây giờ. Năm 1840 Thầy Phan Văn Minh về nước truyền đạo ở Nam Kỳ và được thụ phong Linh Mục. Năm 1848, sau khi lên ngôi vua Tự Đức bắt đầu cấm đạo Thiên Chúa gắt gao và từ năm 1851, có ra lệnh chém đầu thả trôi sông những Tây Dương đạo trưởng. Cha Phan Văn Minh chịu chung số phận và tử đạo năm 1853. Ngày 19-6-1988, Cha Phan Văn Minh cùng với 116 người Việt Nam khác được Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ đệ nhị phong Thánh. Tất cả là 117 Thánh Tử Đạo của Việt Nam. Ngày nay có nhà thờ Công giáo của giáo dân người Mỹ gốc Việt mang tên Cha (Philip Phan Văn Minh) ở Orlando, Florida. Cha Phan Văn Minh làm thơ bằng chữ Quốc Ngữ và có lẽ là những bài thơ đầu tiên (bằng chữ Quốc Ngữ): NƯỚC TRỜI Đời trước Thiên cơ bất khả lậu Đời nay Con Chúa đã ra đời Nho gia không còn chi ẩn dấu Thiên cơ là chính thật nước Trời. (Linh mục Phan Văn Minh) Cha Phan Văn Minh sáng lập Hội Thơ E Vang (E Vang=Évangile=Phúc Âm=Tin Mừng) KHAI HỘI THƠ VỊNH E VANG Gia cang đất nước có thân danh Tô điểm E Vang tận gốc nhành Cơ cấu nhân sinh theo đạo thánh (thánh đạo) Đốc hành thế sự với tân thanh Con đường bác ái khi chung sống Đức độ công bằng lúc đấu tranh Chúa đã hoằng khai nguồn cứu rỗi Trời cao không bỏ kẻ ngay lành. (Linh mục Phan Văn Minh) Cha có bài thơ về Gia Tô Cơ Đốc (Gia Tô=Jesus. Cơ Đốc=Christ=Ki Tô) được tất cả 48 bài họa riêng 3 bài cuối làm sau khi Cha qua đời.
GIA TÔ CƠ ĐỐC (Xướng) Gia Tô Cơ Đốc đấng con Trời Đặc cách lâm phàm cứu khắp nơi Chẳng lấy lợi danh mà tạo nghiệp Không dùng vương bá để xây đời Vâng lời thiên mệnh đành thân diệt Gánh tội nhân gian chịu máu rơi Dĩ nhược thắng cường mệnh chứng tỏ Kiếp sau hiện hữu sống muôn thời. Trong 48 bài họa có 2 bài họa của ông Đồ Ốc ở Giồng Giăng, Ba Tri với 2 bài tự họa trả lời của Cha Phan Văn Minh là rất đặc biệt và thú vị: (Họa 1) (Tự họa 1) Thế gian vạn sự nói do Trời Cai trị thế gian luật của Trời Nhưng tại làm sao khổ khắp nơi Có yên có khổ cũng tùy nơi Cứu khổ đã nêu bên đạo Chúa Tranh danh: oán hận do người thế Giải nguy chưa thấy phía người đời Giành lợi: chiến tranh tại thói đời Triều đình Nam Quốc xô không ngã Thuốc bổ vào người sinh thuận nghịch Đạo trưởng Tây Phương bám chẳng rơi Đạo nguy nhập thế có xuôi rơi Đã đẩy giáo nhơn vào thế khổ Xưa nay đạo (cái) khổ do tham vọng Vậy ai phải chịu bất tri thời. Lịch sử chứng minh kẻ thức thời. (Đồ Ốc) (Họa 2) (Tự Họa 2) Đạo khổ xưa nay vốn tại Trời Sống ở thế gian chẳng khỏi Trời Thất mùa ôn dịch khắp nơi nơi Khác nào loài cá khắp nơi nơi Thủy tai chôn lấp bao nhiêu mạng Sông sâu khoẻ xác tha hồ lặn Địa chấn nát tan mấy cuộc đời Sông cạn phơi thây há trách đời Khổ đó con người làm chẳng được Cá có oán sông lên hoặc xuống Nạn nầy tạo hóa trút đầy rơi Mình không biết nước lớn hay vơi Thiên tai đại nạn Trời làm cả Dĩ nhiên phải chịu vì không biết Nhân loại chỉ gây giặc nhứt thời. Thượng bất oán Thiên lẽ thức thời. (Đồ Ốc) PHAN THƯỢNG HẢI