MỘT CÁCH HIỂU VỀ TỪ ĐỊA PHƯƠNG

Tài liệu tương tự
Từ Mỹ về Rừng Thăm Bạn Lâm Chương Lúc mới đến, tôi hỏi: - Đào hố để làm gì? Anh nói: - Bắt khỉ. Tôi ngạc nhiên: - Bắt khỉ? - Ừ, bắt khỉ. - Để ăn thịt?

Đặc Sản U Minh Hạ Quê Tôi Nguyễn Lê Hồng Hưng Quê hương của Trúc Thanh nằm nép mình cuối dãy Trường Sơn. Nơi đó có núi, rừng, ruộng, rẫy và biển xanh.

Phần 1

No tile

No tile

Microsoft Word - NGH? T?M TANG XUA ? QUÊ TA

Phần 1

(Microsoft Word - Ph? k\375 t?c \320?A TH? PHONG2)

Chửi

1 Những chuyện niệm Phật cảm ứng, nghe được. 1- Sát sanh bị đoản mạng. Tác giả : Cư sĩ Lâm Khán Trị Dịch giả : Dương Đình Hỷ Cổ đức có nói : Tâm có th

Tình yêu và tội lỗi

1 Triệu Châu Ngữ Lục Dịch theo tài liệu của : Lư Sơn Thê Hiền Bảo Giác Thiền Viện Trụ Trì Truyền Pháp Tứ Tử Sa Môn Trừng Quế Trọng Tường Định. Bản khắ

Document

Thơ cậu Hai Miêng Đêm thu bóng nguyệt soi mành, Bâng khuâng dạ ngọc chạnh tình ngâm nga. Xét trong thế sự người ta, Tài ba cho mấy cũng là như không.

NHỮNG HOẠT ĐỘNG

Em hãy tưởng tượng và kể lại một cuộc gặp gỡ với một trong các nhân vật cổ tích hoặc truyền thuyết

Document

Hạnh Phúc và Đau Khổ Chư Thiên và loài người Suy nghĩ về hạnh phúc Ước mong được hạnh phúc Chân hạnh phúc là gì? (1) Bốn câu thi kệ này được trích tro

CHƯƠNG I

No tile

NGHI THỨC SÁM HỐI VÀ TỤNG GIỚI HT.Thanh Từ Thiền Viện Trúc Lâm Đà Lạt Việt Nam o0o--- Nguồn Chuyển sang ebook 20-

chulangnghiem.com Kinh Đại Phật Đảnh Cứu Cánh Kiên Cố Và Mật Nhân Của Như Lai Về Chư Bồ-Tát Vạn Hạnh Để Tu Chứng Liễu Nghĩa (Kinh Lăng Nghiêm) Quyển 4

mộng ngọc 2

LỜI TỰA Sau khi cuốn sách Kinh nghiệm thành công của ông chủ nhỏ đầu tiên của tôi được phát hành, không ngờ chỉ trong vòng nửa năm đã có tới hơn một t

Đông Giao chau mày, cầm cuốn sách Huy đang xem dở dang để trên bàn lên

ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN Giảng giải: Đại Sư Ấn Quang Việt dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa PHẦN MƯỜI HAI 19

Bao giờ em trở lại

Document

Tả cảnh mặt trời mọc trên quê hương em

Document

Phần 1

BUU SON KY ` H U ONG -D AI. PHONG THAN `ˆ U (N OC MAT ME. HIÈN) ˆ T AI BAN Yˆ eu C`au ˆ Phoˆ Bien ˆ Rong ˆ. Rãi In Lai. Theo An ˆ Ban 2011 BUU SON KY

Lời Dẫn

No tile

Microsoft Word - NGÔI-SAO-ẤY-VỪA-ĐÃ-LẶN.docx

Công chúa Đông Đô, Hoàng hậu Phú Xuân Nàng là ai? Minh Vũ Hồ Văn Châm LGT: Bác sĩ Hồ Văn Châm là Cựu Tổng Trưởng Bộ Cựu Chiến Binh, Cựu Tổng Trưởng Bộ

Document

Tùng, Một Chỗ Ngồi Dưới Chân Cầu Thang _ (Nguyễn Vĩnh Nguyên) (Tạp ghi)

Phần 1

No tile

Tác Giả: Cổ Long QUỶ LUYẾN HIỆP TÌNH Hồi 12 Giang Hồ Ân Oán Nhóc trọc đầu và Nhóc mặt rổ chẳng phải quá nhỏ tuổi, có lúc hai gã cũng giống người lớn,

Microsoft Word - hong vu cam thu.doc

KINH PHÁP CÚ Illustrated Dhammapada Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka Tâm Minh Ngô Tằng Giao CHUYỂN DỊCH THƠ

Lời Dẫn

Tả cảnh bão lụt ở quê em – Bài tập làm văn số 5 lớp 6

Kinh Di Da Giang Giai - HT Tuyen Hoa

1 Những bài kệ nói về cái Tâm Dịch giả : Dương Đình Hỷ Trong Thiền học, chúng ta thấy các Thiền sư khi khai ngộ rồi chia sẻ cái biết của mình về cái T

Các bạn mình thân mến, Thư Gửi Các Bạn Mình Số 33 Đang còn trong thời gian tháng giêng là tháng ăn chơi nên nói chuyện hút xách cũng không đến nỗi lạc

binhnguyenloc.com 1 a êm Tr ng S p Bình-nguyên L c Làm xong bài toán hình h c không gian, Nhan ngáp dài. Nàng xem l i ng h tay thì th y ã m i gi b n m

Tiên Tri Về Thời Cuộc của Việt Nam và Thế Giới Phạm Công Tắc

Họp Tổ Dân Phố. Nguyễn Thị Thanh Dương Chiều nay chị Bông ăn cơm sớm để đi họp tổ dân phố, ban trưa ông tổ trưởng đã đi rảo qua từng nhà để mời họp, ô

tem

CHƯƠNG 1

Hương Cốm mùa Thu ********* Chúng tôi đi xa, cứ mỗi độ thu về thường nhớ đến món cốm ở quê nhà. Hương cốm theo chúng tôi đi suốt tuổi thơ, lớn lên, hư

Microsoft Word - 25-AI CA.docx

Cúc cu

VINCENT VAN GOGH

Đà Lạt Ngày Tôi Đi _ (Minh Tâm) (Truyện)

Tác Giả: Hoàng Thu Dung MỘT NGÀY MÙA ĐÔNG Phần I Thùy Dương đứng một mình trên bãi cát, đưa mắt nhìn xa ra chân trời. Mặt biển xanh ngăn ngắt, trong v

Microsoft Word - thamthienyeuchi-read.doc

-

Microsoft Word - thientongtrucchi-read.doc

Phần 1

Thằng dân Tiểu Tử Trong chuyện phiếm này, tôi gọi " thời chú Sam" để chỉ miền Nam trước tháng 4 năm 1975 và " thời bác Hồ " để chỉ miền Nam dài dài sa

Pha Lê vừa đi lên phòng , cô bắt gặp Ngọc Bạch đang đứng nơi góc hành lang nói chuyện điện thoại với ai đó

Phần 1

Tả quang cảnh một buổi sáng trên quê hương em

Microsoft Word - huythuc-miennam2mua[2]

Cúc cu

Tưởng Nhớ Nhà Văn Xuân Vũ Nhân Giỗ Lần Thứ 8 Dư Thị Diễm Buồn TIỂU SỬ NHÀ VĂN XUÂN VŨ Nhà văn Xuân Vũ chào đời trong ngôi nhà xưa của bà ngoại thuộc l

Microsoft Word - chantinh09.doc

chiếc xe đò khịt khịt vài hơi rồi đứng khựng lại dưới cơn mưa như thác đổ

Đời Lưu Tống, ngài Cầu Na Bạt Ma dịch Phạn Hán Đời Minh, ngài Trí Húc chú thích Thích Pháp Chánh dịch Hán Việt Kinh Năm Giới Tướng của Ưu Bà Tắc Chú t

Microsoft Word - 08-toikhongquen

Phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo

MỘT CÁCH NHÌN VỀ MƯỜI BA NĂM VĂN CHƯƠNG VIỆT NGOÀI NƯỚC ( ) (*) Bùi Vĩnh Phúc Có hay không một dòng văn học Việt ngoài nước? Bài nhận định dướ

Tiêu Kim Thủy TIẾP BỘI I Bội vừa bước vào sân bỗng dừng chân quày quả bước ra. Từ lâu rồi chị không về nhà, không gặp ông Nghị Tần, thân phụ chị, vì l

Document

Giới thiệu chiếc bánh chưng ngày Tết – Văn mẫu lớp 9

Tác Giả: Kim Bính Người Dịch: Dennis Q CANH BẠC TÌNH YÊU Nho An Đường Chương 1 Anh Đang Xoay Chuyển Bàn Tay Vận Mệnh Dư Y đang ngồi sau quầy bar đọc b

Phân tích truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê

Chữ Nghĩa Làng Văn Ngộ Không Phi Ngọc Hùng. Chữ nghĩa làng văn đôi khi chỉ là một chữ, cụm từ, đoạn văn cô đọng, diễn nghĩa, diễn giải một áng thơ văn

Phân tích hình tượng nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân

Document

LUẬT BẤT THÀNH VĂN TRONG KINH DOANH Nguyên tác: The Unwritten Laws of Business Tác giả: W. J. King, James G. Skakoon Người dịch: Nguyễn Bích Thủy Nhà

No tile

Microsoft Word - suongdem05.doc

Document

Chương 16 Kẻ thù Đường Duyệt càng hoài nghi, không rõ họ đang giấu bí mật gì. Tại sao Khuynh Thành không ở bên cạnh nàng, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì

Microsoft Word - Chieu o thi tran Song Pha.doc

Tình Thương Nhân Loại 1 Điển Mẹ Diêu Trì Rằm tháng sáu Nhâm Thìn, 2012 Nước Việt Nam một miền linh địa Có rồng vàng thánh địa mai sau Nước Nam hơn cả

Document

Chú Bé Sao Băng

Microsoft Word - tmthuong-chuanguyen[2]

Công Chúa Hoa Hồng

SỰ SỐNG THẬT

CHƯƠNG I

Microsoft Word - emlatinhyeu10.doc

Long Thơ Tịnh Độ

Việc hôm nay (cứ) chớ để ngày mai

Bản ghi:

M P N n u n Trường Đại học Thủ Dầu Một ÓM Ắ Từ địa phương có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển ngôn ngữ dân tộc. Nhiều nhà Việt ngữ học đã xem giữa từ địa phương và từ toàn dân có đường ranh giới khá rõ ràng. Tuy nhiên, trên thực tế, việc nhận diện hai hệ thống từ vựng này là không dễ. Chúng tôi cho rằng giữa chúng có một đường ranh giới mờ. Sự phân biệt từ địa phương và từ toàn dân trở nên khó khăn khi chúng ta đang có sự nhầm lẫn giữa từ toàn dân bị biến âm với từ địa phương, chưa phân định rạch ròi giữa từ cổ (từ toàn dân xưa) và từ địa phương, chưa rõ ràng trong việc phân định từ địa phương cho mỗi vùng phương ngữ, còn có một bộ phận lớn từ toàn dân đang được người địa phương sử dụng mà không thể xem là từ địa phương và xu hướng từ địa phương đã và đang nhập vào vốn từ toàn dân. Đây là những nguyên nhân tạo nên một đường ranh mờ giữa từ địa phương và từ toàn dân. 1. ặt vấn đề Từ khóa: từ địa phương, từ toàn dân, phương ngữ. Về con đường hình thành ngôn ngữ toàn dân, chúng ta thấy có hai hướng quan niệm, tạm gọi là hướng lựa chọn và hướng phân loại. Hướng lựa chọn cho rằng ngôn ngữ toàn dân thực chất là ngôn ngữ của một địa phương nào đó nhưng có nhiều đặc điểm chuẩn hơn các ngôn ngữ địa phương khác và vì lí do đặc biệt nào đó, đã đạt được sự vượt nổi trên các phương ngữ khác của quốc gia [3:14]. Ngược lại, hướng phân loại lại quan niệm: phương ngữ là biến thể địa phương của ngôn ngữ toàn dân được hình thành trong quá trình lịch sử [1:57] hay phương ngữ là biến dạng địa phương của một hệ thống ngôn ngữ được hình thành trong quá trình lịch sử (Ăngghen). Ngôn ngữ toàn dân dù theo quan niệm nào, nó được hình thành theo hướng nào thì chúng ta đều thấy rằng ngôn ngữ toàn dân và ngôn ngữ địa phương có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chính điều này đã tạo 73 nên đường ranh giới không rõ ràng giữa ngôn ngữ toàn dân và phương ngữ nói chung, giữa từ toàn dân và từ địa phương nói riêng. Mối quan hệ mật thiết này gây nên đường ranh mờ khó phân biệt một cách rạch ròi giữa từ địa phương và từ toàn dân. Hai khái niệm từ toàn dân và từ địa phương mà lâu nay nhiều người mặc định đúng là: từ toàn dân là những từ được mọi người dân hiểu và sử dụng, từ địa phương là những từ chỉ có những người địa phương hiểu và sử dụng. Cách hiểu này khiến dẫn đến việc phân biệt một cách cứng nhắc và máy móc hai hệ thống từ vựng: từ địa phương và từ toàn dân. 2. Nhầm lẫn giữa từ toàn dân bị biến âm với từ địa phương Những từ ngữ bị biến âm địa phương của từ toàn dân (biến âm do cách phát âm hay do giọng nói của người địa phương) được các từ điển phương ngữ ghi nhận thì không nên xem là từ ngữ địa phương bởi vì

Journal of Thu Dau Mot University, N o 4 (23) 2015 về nghĩa, về chức năng ngữ pháp chúng không khác nhau. Có chăng, chúng chỉ khác chút ít về ngữ âm mà thôi. Có những từ ngữ được coi là từ địa phương Nam Bộ nhưng thực ra chỉ là biến âm của từ toàn dân. Ví dụ các từ sau đây trong từ điển phương ngữ Nam Bộ: đen lánh (đen nhánh), đề chừng (dè chừng), đỏ lỏm (đỏ lòm), đom (dom), kiếng (kính), chinh vinh (chênh vênh), chóa (lóa), dắm (lắm), lủm bủm (lỏm bỏm), chuột lắt (chuột nhắt), hột (hạt), nghinh (nghênh), ngoảy (nguẩy), ngủm (ngỏm), nhành (cành), nhót (thọt), nhắc (nhấc), nhỉ tai (rỉ tai), nhoáng (loáng), nhỏng nhảnh (đỏng đảnh), nghe lóm (nghe lỏm), nhúi (chúi), nhủi (chui), nhủng nhỉnh (đủng đỉnh), hửi (ngửi), hừng (hửng), hươm (tươm), hường (hồng), im (êm), ĩnh (ễnh), khại (vại), khạp (thạp), khảm (thảm), kháp (khép), khằn (cằn), khẹc (khạc), khều khào (thều thào), khi thường (khinh thường), khét rẹt (khét lẹt), khiếp đởm (khiếp đảm), khuấy rầy (quấy rầy), ngộp (ngạt), nguể ngoải (uể oải), ngợn (nhợn), ngửng (ngẩng), nhách (nhếch), nhăm nhe (lăm le), nhơn (nhân), thạnh (thịnh), thiếm (thím), nhắm (nhằm), mơi (mai), dựa (tựa), hạp (hợp)... Ở phương ngữ khác cũng có hiện tượng này. Chẳng hạn, một số vùng quê ở Thanh Hóa không nói nhanh mà nói lanh (như chạy lanh lên, nó lanh lắm), không nói nhặt mà nói lặt (như lặt được của rơi) hay một số tỉnh phía Bắc gọi trầu là giầu (như miếng giầu, ăn giầu), gọi thầy là thày (như thày giáo), gọi trăng là giăng, gọi lời là nhời (như nhời nói)... 3. hưa phân định rạch ròi giữa từ cổ (từ toàn dân xưa) và từ địa phương Một số từ cổ xuất hiện trong các phương ngữ đã được xếp vào từ địa phương nhưng thực chất nó có gốc là từ toàn dân (từ toàn dân xưa). Ví dụ: từ trốc (đầu), ngái (xa) có trong ngôn ngữ địa phương Nghệ An, Hà Tĩnh; ban (lúc, khi), nhởi (chơi), viền (về), gộc (gốc tre được đánh ra phơi khô làm củi đun)... hiện vẫn đang được dùng ở Thanh Hóa; bẹo (để lộ cho thấy) có trong tên gọi cây bẹo (cây có treo hàng hóa, thường là củ quả để giới thiệu nông sản bán trên thuyền), xức (bôi), đìa (ao hồ)... đang được sử dụng ở Nam Bộ. Đó là chưa kể những từ cổ khác mà hiện nay người dân mọi miền vẫn dùng mà chẳng phải cổ một chút nào như bá (bám) trong bá vai, bá cổ; ấp (ôm) trong gà ấp trứng, ôm ấp; hú (còi bằng đất nung)... 4. Một bộ phận lớn từ toàn dân đang được người địa phương sử dụng Trong hệ thống từ ngữ địa phương có một số lượng không nhỏ là từ toàn dân. Chẳng hạn, người Nam Bộ đang sử dụng hai lớp từ ngữ: lớp từ ngữ chiếm đại đa số là từ ngữ toàn dân và lớp từ ngữ chiếm tỉ lệ ít hơn là từ ngữ chỉ có ở địa phương này. Chúng ta có thể chia lớp từ ngữ này thành các nhóm nhỏ như sau: Nhóm từ ngữ chỉ sự vật, hiện tượng, tính chất... rất riêng của Nam Bộ. Ví dụ: chôm chôm, măng cụt, sầu riêng, chém vè, cà lang, bẻ chĩa Nhóm từ khác âm đồng nghĩa với từ toàn dân. Ví dụ: mỏ ác - thóp, hộp quẹt bao diêm, ót gáy, xuồng thuyền, Nhóm từ đồng âm khác nghĩa với từ toàn dân. Ví dụ: sắn từ toàn dân, là khoai mì theo cách gọi Nam Bộ, sắn cách gọi Nam Bộ, là củ đậu trong từ toàn dân. Nhóm từ chênh nghĩa với từ toàn dân. Ví dụ: lúa và thóc (nghĩa được phân biệt trong từ toàn dân) - lúa (Nam Bộ gọi chung cho cả thóc và lúa); nón và mũ (nghĩa được 74

phân biệt trong từ toàn dân) - nón (Nam Bộ gọi chung, không phân biệt nón và mũ); yêu và thương (nghĩa được phân biệt trong từ toàn dân) thương (Nam Bộ gọi chung, không phân biệt yêu và thương). Như vậy, lớp từ toàn dân đang được sử dụng trong các phương ngữ thì không thể xem là từ địa phương được mặc dù chúng nằm trong hệ thống từ ngữ được dùng ở địa phương. Theo thiển ý của chúng tôi, lớp từ thứ hai như ở phương ngữ Nam Bộ kể trên mới được xem là từ địa phương Nam Bộ. Mặt khác, sự nhập nhằng giữa từ địa phương và từ toàn dân có thể thấy ở những trường hợp từ ghép hợp nghĩa. Các yếu tố của từ ghép này vốn là những từ đơn mà mỗi vùng phương ngữ khi sử dụng đều có những lựa chọn riêng biệt. Chẳng hạn, các yếu tố khùng, kiếm, mai, lẹ, lu, ngay, bén, ca, dư, đau, la, phết, bén trong điên khùng, kiếm tìm, mai mối, mau lẹ, lu mờ, ngay thẳng, ca hát, dư thừa, đau ốm, la mắng, phết phẩy, sắc bén chỉ xuất hiện trong từ đơn của phương ngữ Nam Bộ. 5. Chưa rõ ràng trong việc phân định từ địa phương cho mỗi vùng phương ngữ Trong các từ điển phương ngữ vẫn có các trường hợp nhận diện chưa thật rõ ràng từ địa phương hay từ toàn dân, từ của địa phương này hay của địa phương khác. Ví dụ, từ láng từ chỉ địa hình này được xem là đặc sản của Nam Bộ nhưng thực tế nó xuất hiện ngay giữa thủ đô Hà Nội từ rất lâu (còn lưu giữ trong các địa danh như Láng Thượng, Láng Trung, Láng Hạ); từ coi (đồng nghĩa với từ xem ở Bắc Bộ) đâu chỉ có người Nam Bộ dùng mà người Trung Bộ cũng xem như là từ cửa miệng từ xưa đến giờ. Từ áy (trong cỏ áy) là từ cổ nhưng cũng đang có mặt trong phương ngữ Nam Bộ. Từ bẹo (véo), nhận (ấn), lặt (nhặt), cứt ráy (ráy tai)... trong phương ngữ Trung Bộ và Nam Bộ đều có. Từ công (tha đi) được xác định là từ cổ nhưng cũng thấy có trong tiếng Trung Bộ. Một số nhà ngôn ngữ học cho rằng từ địa phương là những từ sử dụng hạn chế trong một và một vài địa phương [2]. Khái niệm địa phương và vài trong quan niệm này là khó xác định. Tiếng Việt được nhiều nhà Việt ngữ học phân thành bốn vùng phương ngữ (phương ngữ Bắc Bộ, phương ngữ Bắc Trung Bộ, phương ngữ Nam Trung Bộ và phương ngữ Nam Bộ). Nếu địa phương ở đây được xem là vùng địa lí trùng với vùng phương ngữ như trong tiếng Việt thì một từ nào đó có mặt ở cả bốn vùng phương ngữ này sẽ là từ toàn dân chứ không còn là từ địa phương nữa. Chẳng hạn, những từ ngữ sau đây được cho là từ ngữ địa phương Nam Bộ nhưng cũng thấy chúng xuất hiện trong từ ngữ toàn dân hoặc từ ngữ của nhiều địa phương khác: đìa, ác ôn, anh em bạn dì, áp (kề bên), ăn cướp cạn, anh em cô cậu, bắt cá (đánh cược), cấp kì (nhanh)... 6. ừ địa phương đã và đang nhập vào vốn từ toàn dân tạo n n một đường ranh mờ giữa chúng Cuộc hành trình đi từ từ địa phương đến từ toàn dân là cuộc hành trình lâu dài và liên tục được đánh dấu bằng những điểm kết qua việc toàn dân hóa hàng loạt từ địa phương. Có thể nói đây là cuộc hành trình để bàn giao vốn từ. Việc bàn giao này khiến có khi những nhà Việt ngữ học khó khăn trong việc phân định rạch ròi đâu là từ toàn dân, đâu là từ địa phương. Ranh giới từ ngữ địa phương và từ ngữ toàn dân lắm khi mờ nhạt là vì vậy. Nguyên nhân của hiện tượng này là do sự tiếp xúc văn hóa vùng miền, do đặc điểm dân cư nhiều biến động trong hàng chục năm gần đây, do quy luật phát triển 75

Journal of Thu Dau Mot University, N o 4 (23) 2015 nội bộ của ngôn ngữ, đặc biệt là bộ phận từ vựng trong quá trình chuẩn hóa ngôn ngữ. Chúng tôi xin lấy trường hợp từ địa phương Nam Bộ để khảo sát hiện tượng này. Để xác định những từ ngữ thuộc phương ngữ Nam Bộ đã nhập vào vốn từ toàn dân hay chưa, chúng tôi đã căn cứ vào những từ ngữ vốn được xác định là từ địa phương Nam Bộ (qua Từ điển phương ngữ Nam Bộ của Nguyễn Văn Ái) xem chúng có xuất hiện trong Từ điển từ mới tiếng Việt (do Chu Bích Thu chủ biên) và trong một số tờ báo lớn hiện nay (như Dân trí, Tuổi trẻ, Thanh niên) hay không. Nếu chúng có xuất hiện thì chắc chắn chúng đã được toàn dân hóa. Cụ thể, trong Từ điển phương ngữ Nam Bộ chúng tôi xác định có 96 đơn vị từ ngữ có trong Từ điển từ mới tiếng Việt và trong Từ điển từ mới tiếng Việt (số liệu thu thập từ 1985-2000) có 111 đơn vị thuộc từ địa phương Nam Bộ. Qua hai chiều khảo sát, chúng tôi thấy trùng nhau 6 đơn vị. Như vậy, từ địa phương Nam Bộ nhập vào hệ thống từ toàn dân từ 1985 đến 2000 có 201 đơn vị. Từ năm 2000 đến nay (thời điểm bài viết này) đã là 14 năm. Vì vậy, con số sẽ còn lớn hơn rất nhiều, nhất là trong giai đoạn hội nhập quốc tế và đặc biệt là trong xu thế di dân từ các vùng khác đến Nam Bộ đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ như hiện nay. Có thể nêu ra đây một số từ ngữ Nam Bộ đã thực hiện xong cuộc hành trình này: bịch (túi), bồ nhí (nhân tình trẻ), bồn cầu (bàn cầu), bụi đời (người sống lang thang), bụng bầu (bụng chửa), chích choác (tiêm chích ma túy), chịu chơi (sẵn sàng làm việc gì đó, không tính toán thiệt hơn), chủ xị (người rót, điều phối bia, rượu cho mọi người trong bàn nhậu), chụp giựt (tranh giành trắng trợn), cò (người môi giới, trung gian kiếm lời), lùm xùm (tai tiếng ầm ĩ), mồi (thức ăn dùng kèm khi uống rượu), rớt giá (hạ giá), rốt ráo (triệt để, ráo riết), sến (ủy mị, yếu đuối), thương lái (lái buôn), tiêu chảy (ỉa chảy), tới bến (tới cùng), quậy phá (phá rối, nghịch ngợm), chích ngừa (tiêm phòng), dưa leo (dưa chuột), nhà sách (hiệu sách), chìm xuồng (cố ý bỏ qua, ém nhẹm), của chùa (của bố thí, cho không), đầu nậu (người trung gian lãnh việc rồi phân công lại cho người khác làm), dầu nhớt (dầu nhờn), đi bụi (đi lang thang), dởm (giả), mai (mối), nêm (cho gia vị, mắm muối), nhà hàng (cửa hàng ăn uống), nhậu (uống rượu, bia), tiệm (cửa hàng), toa (đơn), trễ (muộn), xe dù (xe đậu rước khách không cố định), xỉn (say), đồ (đồ đạc, quần áo), bột giặt (xà phòng), bột ngọt (mì chính), gạch bông (gạch hoa), bông tai (hoa tai), chích (tiêm), chỉ vàng (đồng cân vàng), cây vàng (lượng vàng), máy lạnh (điều hoà nhiệt độ) Cùng với sự phát triển của lịch sử, xã hội, từ ngữ địa phương đã và đang thực hiện cuộc hành trình hòa vào dòng chung từ ngữ toàn dân, bổ sung vào vốn từ toàn dân nhằm làm phong phú, đa dạng thêm vốn từ ngữ dân tộc. 7. Kết luận Khi xác định từ ngữ địa phương nào đó, ngoài việc phải được phân biệt với từ toàn dân ra, chúng ta nên xem xét thêm các từ ngữ của địa phương khác. Từ địa phương chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong toàn bộ hệ thống từ ngữ được người dân địa phương sử dụng trong giao tiếp hằng ngày. Nếu cho rằng từ địa phương là từ mà chỉ có người địa phương này dùng mà thôi, địa phương khác không dùng thì số lượng từ ngữ trong những cuốn từ điển phương ngữ không thể lớn. Đến đây, ta có thể phát biểu lại khái niệm về từ địa phương: Từ địa phương là những từ mà ở một giai đoạn nào đó chỉ địa 76

phương đó có và được người địa phương hiểu và quen dùng. Việc tách bạch từ địa phương và từ toàn dân là một việc làm khó khăn vì ranh giới giữa chúng khá mờ nhạt và cũng không biện chứng bởi chúng có những biến động liên tục, biến động chủ yếu theo hướng từ địa phương luôn có cuộc hành trình chuẩn hóa để nhập vào từ toàn dân. Việc biến động này tạo điều kiện thuận lợi cho việc thống nhất, chuẩn hoá ngôn ngữ ở Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta hướng phương ngữ đến sự thống nhất, chuẩn hoá nhưng không phải làm mất đi tiếng địa phương để chỉ còn ngôn ngữ toàn dân. ONE WAY TO UNDERSTAND DIALECTS Ho Van Tuyen Thu Dau Mot University ASBTRACT Dialects are particularly important in the development of the national language. Many Vietnamese linguists have been considered that there is a clear difference between dialects and common words. However, in practice, the identification of these two systems of words is not easy. We think that there is a blurred boundary between them. The distinction between dialects and common words becomes difficult when we have been confused between phonetic variant words and dialects. There is no clear distinction between ancient words (ancient common words) and dialects. It is also true for the delimitation of dialects of each region. There is also a large proportion of common words that are being used by local people and they cannot be considered dialects. Moreover, the turning of dialects into common words has been a trend these days. This is the reason for a blurred line between dialects and common words. À L Ệ M K ẢO [1] Hoàng Thị Châu, Phương ngữ học tiếng Việt, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009. [2] Nguyễn Thiện Giáp, 777 khái niệm ngôn ngữ học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010. [3] Trần Thị Ngọc Lang, Phương ngữ Nam Bộ (những khác biệt về từ vựng ngữ nghĩa giữa phương ngữ Nam Bộ và phương ngữ Bắc Bộ), NXB Khoa học Xã hội, 1995. [4] Nguyễn Văn Ái (chủ biên), Từ điển phương ngữ Nam Bộ, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1994. [5] Huỳnh Công Tín, Từ điển từ ngữ Nam Bộ, NXB Khoa học Xã hội, 2007. [6] Vương Lộc, Từ điển từ cổ, NXB Đà Nẵng, 2002. [7] Chu Bích Thu (chủ biên), Từ điển từ mới tiếng Việt, NXB Phương Đông, 2000. 77