NGUYỆT SAN CỎ THƠM ONLINE SỐ 9 NĂM 2018 Tranh Hoa và Chim của Họa sĩ Cát Đơn Sa, California USA

Kích thước: px
Bắt đầu hiển thị từ trang:

Download "NGUYỆT SAN CỎ THƠM ONLINE SỐ 9 NĂM 2018 Tranh Hoa và Chim của Họa sĩ Cát Đơn Sa, California USA"

Bản ghi

1 NGUYỆT SAN CỎ THƠM ONLINE SỐ 9 NĂM 2018 Tranh Hoa và Chim của Họa sĩ Cát Đơn Sa, California USA

2 NGUYỆT SAN CỎ THƠM ONLINE - SỐ 9 NĂM 2018 MỤC LỤC VĂN: HƯỚNG DẪN CON CÁI Ở TUỔI THIẾU NIÊN - Nguyễn Lâm Kim Oanh NGUYỄN LÂN VỚI TÁC PHẨM SÔI NỔI - Ngô Tằng Giao THẦY ƠI, SAO ĐÊM VIỆT NAM LẠI DÀI ĐẾN THẾ! - Đoàn Xuân Thu (Melbourne) NỮ SĨ VI KHUÊ Lê Xuân Nhuận VỢ CHỒNG GIÀ - Nguyễn Phú Long NON THIÊNG YÊN TỬ - Phạm Bá & Ỷ Nguyên MÙA HÈ ĐÁNG NHỚ - Phương Duy.TDC ĐẮNG CAY CỦA MỘT NGƯỜI TÙ - Đỗ Bình (Paris) CHUYẾN TÀU BATAAN - Vưu Văn Tâm (Germany) TRẢ ĐƯỢC MỐI THÙ - Diễm Châu Cát Đơn Sa TƯ CỖI - Trường Đinh (United Kingdom) TIẾNG RÚ TRONG ĐÊM - TT-Thái An THẤY GÌ QUA TẬP VIỆT NAM NỖI ĐAU & NIỀM HY VỌNG CỦA TRẦN PHONG VŨ - Trịnh Bình An CÔ GÁI HUẾ VỚI TRANH THIẾU NỮ CỦA ĐINH CƯỜNG Phạm Thành Châu BIÊN KHẢO: VÀI NÉT ĐAN THANH VỀ NGUỒN GỐC THƠ MỚI Hải Bằng.HDB JOSEPH R. KIPLING, VĂN HÀO NƯỚC ANH - Phạm Văn Tuấn MÁY CHÉM GUILLOTINE - TP Nguyễn Văn Thành(1923) THƠ: SÔNG SEINE BUỔI CHIỀU TÀ - Bùi Thanh Tiên SWEET AND LOW - Alfred, Lord Tennyson / DỊU DÀNG VÀ ÊM ÁI - Chuyển ngữ: Ngô Tằng Giao ĐÊM RU GIẤC MỘNG - Minh Giang À TOI - Diễm Hoa MỖI MÙA PHƯỢNG NỞ - Nguyễn Tường Vân CÙNG MỘT BƯỚC ĐƯỜNG - Hạ Thái Trần Quốc Phiệt CÀO LÁ NGOÀI SƯƠNG ĐÊM - Đinh Cường / thư họa: Vũ Hối CHIÊU NIỆM MỘT DÒNG SÔNG & THÀNH CỔ CHIỀU MƯA - Nguyễn Vô Cùng PHÚ QUỐC ĐẤT LÀNH - Trần Quốc Bảo (Richmond, VA) DUYÊN THƠ Việt Hưng.PGH BIỆT KHÚC - Vưu Văn Tâm GIÓ ĐÊM - Tuệ Nga BẤT CHỢT & NỢ & HOA BƯỚM Phan Khâm QUA ĐÈO NGANG / HỜN VONG QUỐC Bà Huyện Thanh Quan / Hồ Công Tâm (Thơ Xướng Họa) GỌI GIÓ & NẮNG VỘI - Hoa Văn TIẾC THUỞ XUÂN XANH & HOÀNG MAI - Nguyễn Kinh Bắc CON LÀ CON MÈO TRẠNG QUỲNH CỦA MẸ - Huy Phương / MAMA I AM YOUR SELF-CONTENTED CAT Thanh Thanh MỎNG MANH CÁNH BƯỚM / FRAGILE WINGS OF A BUTTERFLY - Trường Đinh CUỐI CÙNG Lan Đàm / A FAREWELL Chuyển ngữ: Phạm Trọng Lệ HỘI HỌA/NHIẾP ẢNH: MẸ VÀ CON Tranh: Bé Ký HOA VÀ CHIM / LỚP MĂNG NON/ HỢP CA Tranh: Cát Đơn Sa HOA XUÂN - Ảnh: Minh Châu / Phan Anh Dũng LẠC VÀO KHUNG TRANH, PHẦN 2 Nguyễn thị Ngọc Dung SUỐI TÓC CỦA THÁI ĐẮC NHÃ Lê Văn Khoa TÌNH YÊU GIA ĐÌNH ĐẰM THẮM TRONG TRANH CỦA CÁT ĐƠN SA Biên soạn: Phan Anh Dũng NHẠC: KHÚC TÌNH CA HÀNG HÀNG LỚP LỚP Nhạc & lời: Nguyễn Văn Đông Tiếng hát: Hoàng Cung Fa ĐỢI CHỜ Nhạc & lời: Trần-Nhật-Bằng & Phạm Đình Chương Tiếng hát: Tâm Hảo TRONG NỖI NHỚ MUỘN MÀNG Nhạc & lời: Ngô Thụy Miên Tiếng hát: Hiếu Trang NHƯ MUÔN LỚP SÓNG Nhạc & lời: Tuấn Khanh Tiếng hát: Đèo Văn Sách GỬI GIÓ CHO MÂY NGÀN BAY Nhạc: Đoàn Chuẩn Lời: Từ Linh Tiếng hát: Như Hương TƯỞNG NHỚ NHẠC SĨ NHẬT BẰNG ( ) Biên soạn: Phan Anh Dũng BẢN TÌNH CA THÁNG SÁU Nhạc: Vĩnh Điện Thơ: Phong Thu Tiếng hát: Đông Nguyễn EM HÀ NỘI Nhạc: Nguyễn Tuấn Lời: thơ Phạm Thành Tài Tiếng hát: Đoan Trang SÀI GÒN RA ĐƯỜNG Nhạc: Vũ Trung Hiền Lời: thơ Duyên Anh Tiếng hát: Bạch Yến Paris ĐÊM RU GIẤC MỘNG Nhạc:Nguyễn Văn Thơ - Lời: thơ Minh Giang Tiếng hát: Như Ly FRAGILE WINGS OF A BUTTERFLY - Nhạc: Thương Duy Lời: thơ Trường Đinh

3

4 TƯ CỖI Trường Đinh (UK) Sáng bình minh. Sương vẫn còn rơi sớm. Từng hạt rơi, gõ nhẹ trên những cánh hoa muôn sắc màu, long lanh như những ngón măng tơ đang nhẹ khảy cung đàn. Lá khẽ chao cành như cợt đùa với ngọn gió rong. Con hẻm đầu đường đã giật mình trở giấc. Mưa bắt đầu đổ hạt lạnh. Ngàn bóng nước tung nhảy khắp mặt đường. Những con chim non còn ngại ngùng ngái ngủ. Gió lửng lơ treo. Mây bừng dậy, dạt trôi những nỗi niềm mông mênh. Hạt nắng đầu tiên vừa độ chín, hé vàng bung nở, tư lự nhìn đời đang mãi quay vòng trên khung cửi. Tư Cỗi đã thức dậy từ tờ mờ sáng. Gã đang đứng tựa cửa hiên nhà, mắt dòm doi dõi những hạt mưa rơi. Căn nhà mút nát của gã nằm cuối đường hẻm nhỏ, khuất sau lò rèn của anh Sáu Gảy. Tay Cỗi mân mê ly cà phê đen quánh đã lạnh đong, lạnh hơn cả lòng đường chợ hẻm, vậy mà gã vẫn còn say mê nhâm nhi từng giọt nhỏ. Môi gã đen xì còn ngậm điếu thuốc rê mới quấn xong nhưng vẫn ngây ngơ biếng lười chưa thèm châm lửa vội. Sáng nay mưa ngâu lại về, chiếm tẻ trên khắp nẻo đường oi bức. Ðất Cầu Hang, xóm Chổi, là nơi gã đã sanh trưởng từ thời còn chạy rong tắm mưa và cả cái thời gã còn đùa chơi bắn bi với bọn trẻ đồng tuổi ở cuối xóm. Bây giờ nghĩ lại nó đã trôi bay xa xưa rồi. Thiệt lẹ. Cánh thời gian tuôn chạy chẳng thể ngờ. Tuổi dại khờ đã bay mờ ngọn gió. Ðời gã đã vươn bao chớm nở tàn phai, đã dạt trôi trên khắp mặt lộ đời, như ảo, như mộng, gã vẫn thường tư lự thế. Thường lệ mỗi sáng Cỗi dậy thật sớm. Thong thả đốt vài que củi, chất nhóm lại đống lửa bình minh sớm, sớm hơn cả giờ thức dậy của mặt trời hồng, gã tự hào như thế. Tay cầm ly cà phê đen, gã đứng nhâm nhi bên khung cửa của căn nhà vách đất đã vẹo xiêu. Mái nhà, nửa lốp tranh, nửa lốp tôn đen, bốn vách đất thì xiêu vẹo cánh cò không thua gì thân hình gầy guộc của chính gã. Có những đêm mưa to, bốn vách tranh lắc lư rỉ sét như chiếc xích lô bạn đường của gã đã bao lần trơ trọi về khuya. Cỗi sống bằng nghề chạy xích lô dạo. Mọi người trong xóm vẫn thường gọi Cỗi là gã phu xe khòm. Thật sự trước đó gã đâu có khòm nhưng từ độ sau này khi cái tay nghề xích lô càng cao thì lưng Cỗi lại bắt đầu khòm. Gã khòm bởi chính cái nghề nghiệp của gã nhưng có điều là gã không một chút khòm trước bóng cuộc đời tâm linh của chính gã. Cỗi vẫn thường nhủ thầm như thế để tự an ủi chính mình. Mỗi sáng gã phải dậy thật sớm, ngay sau khi tiếng gà gáy sáng đầu tiên là gã đã tung khỏi chăn mền. Mỗi ngày gã có hai mối hàng quen thuộc để lo chạy kiếm tiền. Một là đưa hai rổ bún ra đầu chợ cho cô Bảy bày hàng sớm. Hai là chở bà Năm với mấy thúng nem chua đem giao hàng cho các chủ quán cơm. Mỗi ngày chạy xong hai chuyến sớm là gã có thể an nhàn đôi chút, thư thả dạo vòng các sạp nhỏ ngoài hông chợ để tìm chút đồ lót dạ. Món điểm tâm thường nhật của gã mỗi ngày như ngày là nắm xôi bán dạo ở góc chợ đầu hẻm. Cũng có đôi lúc gã thèm mơ ước một tô hủ tiếu ớt cay, hay một tô phở bò đặc biệt ở một quán ăn bình dân. Nhưng Cỗi lại rất e dè việc tiêu phí nhiều tiền chỉ để cho một bữa ăn sáng lót dạ. Nếu như tiêu vội hết tiền trong một buổi sáng, rồi không may cả ngày chẳng có khách thuê xe thì chiều về chắc phải nằm dài đói rã ruột. Gã còn phải lo chén cơm tối, bịch thuốc rê, củi lửa, đường và cà phê. Ðồng tiền kiếm bằng cái nghề

5 chạy xích lô đâu là mấy, nhưng gã vẫn không một chút tủi phận đời. Vẫn ngạo nghễ an vui với mồ hôi đã đổ, để đổi lấy đồng tiền sinh sống từng ngày qua. Tính nhẫm lại gã đã làm nghề này trong suốt hai mươi sáu năm rồi. Gã vẫn thường tự nghĩ, nào có đáng chi một bữa ăn huy hoàng. Ðạm bạc xôi nếp cũng khuây khoái cái bao tử thằng phu xe già này rồi. Gã tự nhủ im thân trong một góc hình tâm tư nào đó của chính gã. Phong cách sống của gã là vậy. Cái đầu thông thống, thích say mê suy tư, sống thư thả và đếm từng ngày một. Ngày mỗi ngày, sáng gió vừa bình minh, gã với ly cà phê đen đậm, vài điếu thuốc rê để ru sinh khí, gói xôi con lót bụng. Tất cả chỉ vậy, một bữa điểm tâm thật nhẹ nhàng và khiêm tốn. Ðúng ra bữa điểm tâm cũng là giấc cơm trưa của gã. Thật sự cả ngày gã chạy rong ngoài đường chỉ ăn có vậy thôi, cho mãi đến khi xong công việc trở về nhà thì sẽ lo tiếp bữa cơm tối cho ngày hôm đó. Bữa cơm tối sẽ ngon miệng hay sẽ thật giản đơn cũng còn tùy vào số tiền gã có thể kiếm được trong ngày. Sau hai cuốc xe hẹn và sau khi đã lo xong cái màn bao tử xôi. Gã bắt đầu chạy rong kiếm khách. Tà tà đạp, gã vẫn luôn có thái độ đó khi đạp xe dạo trong những lúc vắng khách. Gã ngắm xe ngược chiều như rưới mắt hoa, lòng hân hoan hít thở khí trời trong sáng. Gã mê say từng giọt nắng đổ, bất kể thời gian và nơi chốn. Gã lang thang chạy rong các góc phố đường đang vừa chợt trở mình bừng dậy như chính gã đang lục lọi kiếm tìm những khách đêm đang lỡ độ qua đường. Cỗi thường nhủ, nếu may mắn có khách thì có chút cá chút thịt cho bữa cơm chiều thêm đậm vị. Còn lưa thưa thì đạm bạc cơm rau qua ngày cũng xong. Gã sống rất yêu đời. Gã yêu từng phút giây đang sống, yêu đắm đuối mái nhà buồn xiêu vẹo, yêu cái tuổi trung niên hiu quạnh, yêu bóng nước vỉa hè tung tăng, yêu đam mê vệt sương mờ sáng sớm, yêu vạt nắng hoàng hôn dặt dìu trên bóng lá. Gã sống như thi sĩ một thi sĩ nghèo nhưng thần thơ của gã thì hơi khác thường, vẫn vung tít trời xanh. Và, như thế, gã vẫn cứ yêu đời mà sống, sống để mà sống, an nhiên trong lam lũ cực nhằn dưới bao ngàn ánh mắt soi rọi như tự hỏi về đời gã từ những người bạn thân đã quen biết. Chiều dần trưa. Bóng nắng đã đứng mình nhưng cơn mưa vẫn còn say mê rong chạy. Mùa mưa ngâu thì mưa đâu bao giờ chịu khiếp vó. Vẫn bung rơi, vẫn ray rít từng giờ. Hôm nay chợ buồn và hơi vắng khách. Có nhẽ mùa mưa dầm đến quá sớm. Khách cũng biếng lười dạo chơi ngoại trừ con buôn đầu chợ và chính gã. Phải trắng dậy mà chạy rong kiếm tiền! Thời thế tạo sinh nhai! Gã nhủ thầm an ủi cho qua hơi, vẫn thường là thế, trong những môi mách của cuộc đời chính gã. Chiếc áo mưa che thân cũ rích, một bên vai đã bươi lỗ, mưa len kẽ vào người. Gã rùng mình và cảm thấy hơi lành lạnh. Lại chắc cảm mưa rồi, cơn mưa đầu mùa, gã tự nghĩ. Thôi, hôm nay hãy về sớm, nghỉ dưỡng sức, chạy được ba cuốc rồi, cũng tạm đủ tiền chi tiêu cho ngày hôm nay. Gã quyết định như vậy và quay hướng về con đường quen thuộc. Những xe cộ cùng chiều càng lúc càng đổ dốc nhanh hơn. Chiếc xích lô rỉ sét của gã cũng tưng bừng lướt dốc bay nhanh. Cỗi thư thảng ngơi nghỉ đôi chân. Gã tạm gác hai chân lên bệ sườn xe phía trước, và cứ để ba bánh xe tự lăn tròn ngạo nghễ trên lòng con dốc. Cỗi tự nghĩ để lấy làm an ủi, mình có lúc cũng thảnh thơi thì cũng phải có lúc nên để cho xe hân hoan tiếp xúc với lòng đời.

6 Ngay sáng sớm gã cất hành ra khơi, đạp lên dốc cầu thì phải un hơi tiếp sức để cố vượt lên. Nhưng thỉnh thoảng có khách sớm trên xe thì càng phải gắng sức hơn nữa để vượt qua dốc cầu. Ðôi lúc sự quá sức cũng làm cho gã mệt nhoài cả đôi chân. Những độ canh về thì hai chân gã lại được nhàn nghỉ đôi chút bởi nhờ đoạn đường tuột dốc. Con đường cầu quen thuộc này đối với gã như một dốc cầu đời. Khi lên khi xuống trong cùng một ngày. Tưởng như cuộc đời gã cũng đã có lúc thăng hoa, cũng có lắm lúc tác tan truy lụn. Gã tự nghĩ, mình là thân người, nào có than chi đâu kiếp phận. Sống trọn vẹn 24 giờ mỗi ngày đã tạm gọi là quá đủ. Mồ hôi tuôn, mưa như xối đổ. Ngày mọi ngày, gã vẫn tự hào sống, hãnh diện bán đổi giọt mặn đời vì đồng tiền sinh kế. Ðời là vậy. Ðừng quá nhìn bon chen mà đau xót dạ khi mộng ước đã trôi sông, khi đam mê đã quằn quại thất tán. Ðối với gã, mọi sự đời trôi vãng như mơ. Nó như một giấc mộng sương trên cành lá. Một ngày xanh vừa mới gọi chào, tươi tròn và bung nở, rồi một ngày dài giã từ để heo hút xác thân. Mảnh vô thường này gã đã đếm ngàn lần trong từng ngày một. Gã đã nếm đắng ngàn lần trên đầu chót lưỡi. Gã đã trực nghiệm muôn vạn chiều qua những góc cạnh tư duy của chính gã trong mỗi từng đêm. Bởi vậy gã cũng há cần bi quan thái quá với cuộc sống tạm bợ này, gã cũng chẳng cần ba hoa tự hào phải lạc quan quá độ. Gã sống không khác nào như cơn gió tạm nghỉ chân, chẳng thẹn thùng với cây lá, chẳng giông tố bão bùng với mưa to, cứ chỉ là tạm dừng nghỉ để trầm mình nhè nhẹ với cỏ cây Ðột biến hôm nay, một chiều về trên con đường đổ dốc, ký ức gã lại bung mình lớn dậy. Gã chạnh nhớ ngày nào gã còn học Triết ở trường đại học, rồi tốt nghiệp với vài mảnh bằng, trẻ trọt ra trường, may mắn tìm được việc làm ở một khu trung học thành phố. Cơ hội đó đã giúp gã miệt mài thao diễn với nghiệp nghề. Gã đã am chiếu ngàn lần những học thuyết nhân sinh của những nhà tri thức. Gã yêu say giòng tâm linh siêu việt của Nietzsche. Gã thấm nhuần tư tưởng Lão Trang. Gã tu giữ được giềng mối của Thiền học. Gã chạnh nhớ, cái ngày nào đó, ờ nhỉ, 26 năm trước đây, gã đã từng là một chàng giáo sư Triết trẻ và có tài. Mớ sách vở đã thuộc nằm lòng. Những học thuyết đã cuộn tròn trong tri thức. Ngày đó, không ngày nào là gã không háo hức thuyết diễn với đám học trò trẻ, làm đám nhỏ phải ngưỡng mộ say mê mà chính gã lại còn say mê hơn là lũ trẻ Nhưng, và rồi, ngày qua ngày đổi thay, nghề nghiệp của gã hôm nay chỉ là bám níu xác thân trên chiếc xích lô cũ. Bạn bè gán cho gã cái tên gọi bất tài, sao chẳng kiếm ra được một nghề nào khác, ngoài việc treo thân trên chiếc xích lô rỉ sét và ngày hai bữa chạy rong đưa khách qua đường. Khó trăm bề lao lực mới kiếm được ngày hai chén cơm. Vậy mà gã vẫn cứ sống vui, vẫn yêu thương đời. Ðám bạn bè cùng dạy học chung trường, thằng đi nước này, thằng đi nước nọ, còn gã thì miệt cố vẫn cô thân nơi quê nhà làm gã xích lô khòm ba bánh. Có đôi lúc gã cũng đã từng tự nghĩ về cái nghề nghiệp bấp bênh của gã. Gã tự nhủ, ờ tất cả cũng chỉ là một cách kiếm sống mà, hoặc làm nghề này, hoặc làm nghề khác, có nghề thì đau đầu, có nghề thì nhọc thân, có nghề thì bức óc, có nghề thì còng lưng. Còn cái nghiệp mạng của gã cũng đâu có đẹp đẽ gì, chỉ là nghề bán mồ hôi và buôn rẻ sức sống, nhưng gã tự nghĩ đó vẫn là nghề, cái nghề duy nhất mà gã có thể kiếm sống qua ngày, ở giữa bến đời đã ngửa lật bàn tay. Gã vẫn an phận mình và cười với đời. Mỗi sáng mỗi hôm, gã vẫn thấy ngày mới và đẹp, như thỏi sắt vừa được dũa bung, như nắng rơi đổi hạt từng hồi. Mỗi ngày bình minh là mỗi khác. Nó biến ảo tận cùng trong từng mỗi phút giây. Mỗi chiều về vẫn là một hoàng hôn đẹp và kiêu sa trong mắt gã. Trong từng mỗi phút giây gã lang thang kiếm khách là từng mỗi phút giây gã đã nhận thấu được lòng đời. Hình như gã đã nghiệm được một chút gì đó về ý nghĩa cuộc sống, về ánh sáng tắt nở của mặt trời hồng, về đích

7 điểm loé mở của mặt trăng xanh, về phận người nhỏ nhoi, về cánh thời gian buông thảng, về nhịp nhảy trò cười Tất cả được gã xem như một giấc mộng hoa trôi, như con sóng nước, như gió bạt ngàn trôi bay, đổi biến, sinh nở, hoại tàn trên muôn ngàn sắc thể tinh khôi của cuộc trần đời đuổi bắt. Thời gian mà gã đang chiếm hữu cũng vùn vụt trôi xa từ chính gã. Con người gã, sinh ra trên mảnh đất vuông tròn này, đã tự mãn chiếm ngự một khoảng không gian của vũ trụ. Thân xác gã đã lớn dậy, đã xoay chuyển từng giờ, đã nhận muôn vàn và đã trao qua ngàn kiếp. Thời gian với gã vẫn tung chạy. Con người gã vẫn tung chạy. Có ai đứng lại để nhìn chính mình mà ngỡ ngàng đôi chân. Khi thời gian còn tí tách trên kim đồng hồ thì vạn thể nào có nghỉ chân vẫn biến dịch, vẫn tái tạo, vẫn sinh nở, vẫn phôi tàn Gã đã thấy rõ được điều đó. Mọi trực nhận đã thẩm thấu vào từng làn da thớ thịt của xác thân mà chính gã đang vay mượn. Nó biến nở muôn trùng tái tạo trong từng mỗi phút giây sinh động không dừng nghỉ. Hơi thở của gã cũng đã vô thường rồi thì xác kiếp phận hèn cũng phải vô thường thôi. Có hơi thở nào là hơi thở giống nhau đâu. Lượng hít vào, lượng thở ra, ấm lạnh đã khác nhau rồi, ít nhiều đã biến đổi. Hạt mưa rơi có hạt nào giống hạt nào. Từng nghĩ suy trong tâm thức có nghĩ suy nào giống nghĩ suy nào trong mỗi một phút giây. Từng sát na là muôn trùng biến thể đa sinh trong tâm thức. Ðời vô thường. Tất cả cũng vô thường. Gã tự biết như vậy. Ðã trực nhận như vậy. Cũng bởi chính cái đầu thông thống của gã, mãi cứ xoay vần bốn phương hướng, gã đã thấy rõ mọi vấn đề ngay trong cuộc sống lam lũ hèn kém của chính gã. Nó như mái nhà xiêu, như cơn mưa tầm. Ðời gã phu xe già chỉ tạm bợ trong hơi thở khí trời thì ngày tháng có trôi bay (gã tự nhủ và mãn nguyện mỉm cười), ta sống hãy cứ sống, khinh khoái tung mình mà sống ngay trong giờ phút sống, hân hoan sống ngay trong phút giây hiện tại của cuộc đời người. Có phải chăng gã là người đã an phận, là một kẻ sĩ thất chí đã thấu rõ bộ mặt thật của đời. Thật sự gã là ai, gã chẳng cần truy xét, hãy cứ sống, sống ngay trong giờ phút đang sống. Rũ tay mà khinh khoái. Mãn nguyện mà hân hoan. Hãy sống trọn vẹn với trái tim chính mình, trái tim tình thương, trái tim nhân bản. Không ruồng bỏ thực tại. Không trốn chạy khổ đau. Thật sự là gã đã rõ bộ mặt vô thường của cuộc trần ai sinh biến này chăng? Ðiều đó gã cũng chưa từng bao giờ tự hỏi chính mình và gã cũng chưa bao giờ bận tâm để trả lời câu hỏi đó. Chiều dần tàn. Giọt nắng đã rơi nghiêng. Mưa vẫn còn nặng hạt. Bóng nước vẫn vô tư chạy đùa. Cỗi cảm thấy vui với lòng một buổi chiều hôm nay, một buổi chiều lắm mưa hoa, một buổi chiều ế ẩm khách qua đường. Cỗi dõi nhìn những xe cộ đang mưa mắt tung bay trước mặt. Những hạt nước mưa vẫn còn dặt dìu trăm nhánh. Cỗi bình tâm. Sự đời biến hình muôn vạn thể nhưng Cỗi rất an bình để ngắm nhìn những biến đổi không ngừng tái sinh đó. Một cảm thức nhất thời, thật sự an bình, lần đầu tiên trong cuộc đời mà Cỗi đang hân hoan đón nhận. Một sự thật bất ngờ ngay trong vòng khép mở tận cùng của cánh cửa tâm linh. Cỗi về tới căn nhà quen thuộc của mình cũng vừa vào lúc những đàn chim trời trên đường bay về tổ. Mọi ngày thường gã về đến nhà là lúc đèn đường đã lên. Hôm nay tương đối sớm hơn, có nhẽ vì cơn mưa đầu mùa quá nặng hạt và khách lỡ đường thưa nhạt. Một cách nhanh và nhẹ, gã đẩy lẹ chiếc xe xích lô vào nhà. Gài vội cửa trước, gã rũ bỏ chiếc áo mưa bên ngoài. Gã cảm thấy tay chân hơi rã rời, đầu bức nóng ran ran, tim đập bưng trong lòng ngực, hơi thở nhọc mệt, nhưng trong tâm thức gã vẫn cảm nhận một sự an bình thanh thoát lạ. Cỗi lăn mình dài trên sàn tre nơi chiếc giường thân yêu của gã. Trong nhà này, ngoài chiếc xích lô, chiếc giường tre, vài ba vật dụng nhà bếp, dăm ba cuốn sách Hermann Hesse, hai chậu phong lan, một vài món linh tinh

8 khác, ngoài ra không còn gì có thể gọi là đáng giá. Tất cả đó coi như là toàn bộ gia sản trong cuộc đời quạnh hiu của Cỗi. Trong đời sống hiện tại của Cỗi, thú giải trí mà gã vẫn ưa thích là được nằm trên giường đọc sách với bịch thuốc rê bên cạnh. Nhưng cái tuyệt thú nhất của gã vẫn là ngồi im lặng uống trà và ngắm hoa lan nở. Nhiều khi những lúc rảnh rỗi cuối tuần, gã vẫn thường ngồi một mình để ngắm lan. Ðôi lúc gã ngồi cả giờ đồng hồ chỉ để chăm sóc từng chiếc lá phong lan, thêm đất, thêm gỗ, rưới vài giọt nước mưa vào đáy chậu, nâng niu từng cọng rễ, tâng tiu từng cành nhánh. Gã say mê làm một công việc của chính gã như là công việc hít thở tự nhiên của chính những hoa lan. Có thể tưởng chừng gã và lan chỉ là một. Nếu ai đó có dịp được thấy Cỗi và lan trong phút giây hòa nhập này, thì sẽ nhận thấy không còn một khoảng cách khác biệt nào giữa hai đối tượng Cỗi và lan. Những vòi phong lan của Cỗi phải nói là đẹp, thật đẹp, nó thuộc về loại lan quý. Ðó là quà của đám bạn Việt kiều về nước mua tặng gã. Cỗi rất trân quý món quà này. Hắn đã từng thiết tha ao ước có vài chậu lan như vậy nhưng chưa đủ khả năng để mua, may nhờ thằng bạn thân về thăm quê hương và ghé nhà thăm gã, và ngày đó là ngày mà gã đã trọn thành ước nguyện. Cỗi trở mình, mắt ngước nhìn chăm chú mấy vò lan treo dọc theo thành cửa sổ hướng về phía nhà sau. Gã cảm thấy khô đắng cổ, thèm một ly nước mưa thật lạnh, nhưng gã cũng không đủ sức để cất người lên nổi, dầu chỉ là làm một việc rất đơn giản đứng dậy và đi. Gã thu hết tàn lực để ngồi bật dậy nhưng đầu óc gã quay cuồng và tứ chi hầu như không còn hơi sức. Gã nằm vặt ngược trở lại. Thân thể hoàn toàn rũ liệt, khắp người ê ẩm. Tim gã như muốn nhảy ra khỏi lòng ngực. Hai bên vai đau buốt, đớn đau đến nổi gã không kiềm chế được và đã bật lên những tiếng rên hư hử. Gã đã cảm nhận những triệu chứng bất thường này độ khoảng hai ba lần mấy ngày nay. Cỗi đuối sức và nhắm nghiền hai mắt. Gã dường như tưởng đã ngất lịm. Hơi thở yếu dần và nhẹ hẫng Ngoài trời, mưa đã ngừng rơi. Mây đã đổi hình. Màn đêm lên tiếng gọi. Cảnh vật thảm buồn và mênh mang những nỗi niềm khó tả. Bóng trăng len lén rơi nhẹ hạt. Cánh gió lại một lần nữa trở về mơn man phím lá. Thời gian trước mắt Cỗi đang uốn mình trăm nhánh. Mọi cảnh vật đêm nay trong căn nhà của Cỗi đang trỗi mình để quay cuồng một vũ khúc truy mê. Những vò lan dọc bên thành cửa sổ cũng ngước mắt nhìn gã như suy tư tự hỏi. Chiếc giường tre cũng lên tiếng kẽo kẹt cảm thông đời. Cỗi cố gắng mở mắt ra lần nữa bằng tất cả sức lực thu hình, gã im lặng nhìn mấy vòi lan lần cuối như để chào lời giã biệt những cố nhân. Gã im lặng. Hoàn toàn im lặng. Bên ngoài, gió bắt đầu rít mạnh từng cơn. Một vài con chim khuya lạc đàn kêu tan tác. Màn đêm trải phủ mọi góc hình. Cỗi nhắm nghiền đôi mắt, cái nhận biết cuối cùng của gã là bóng đêm đang về, một biển đen trơ trọi trong căn nhà buồn quạnh gió hẫm hiu. Cỗi chìm dần vào giấc mộng, một giấc mộng cuối cùng của đời gã, một giấc mộng dài và thật đẹp. Mắt Cỗi đã nhắm nghiền, hơi thở nhẹ dần và mất hẳn. Tâm thức Cỗi động soi một lần cuối, tự nhận biết chính mình đang nở một nụ cười khiêm tốn trong sự im lặng mãn nguyện giã từ Trường Ðinh (UK)

9 CÙNG MỘT BƯỚC ĐƯỜNG (Họa thơ Cố Chưởng Môn Hà Thượng Nhân) Hạ Thái Trần Quốc Phiệt 1 Sách vở xưa viết nhiều về Trung Quốc Những địa danh nổi tiếng như Tô Châu Đọc mê say mà chưa rõ đâu đâu Cứ mường tượng đào ngày xuân sắc đỏ. 2 Đọc Đề tích thương chuyện tình Thôi Hộ Nhớ hoa đào và bóng dáng giai nhân Xưa lắm rồi mà ngỡ vẫn tân xuân Bởi tình yêu không chìm trong tăm tối. 3 Thôi Hiệu đề thơ, Lý Bạch chừng bối rối Với thi tài lão trượng một thời xưa Ta từng xem qua chuyện một chiều mưa Những máu lệ bên bờ sông Dịch Thủy! 4 Buồn ray rứt bởi bài ca Tận Túy Hạng Võ thẫn thờ tiếng sáo Trương Lương Nhốn nháo quân cơ suốt mấy đêm trường Những triều đại huy hoàng rổi đổ vỡ. 5 Ta ước tính vào một ngày nào đó Sẽ tan tành tất cả đất Trung Hoa Bởi hậu sinh không thuần thế nhân hòa Đừng mơ có rượu Mao Đài để uống. 6 Ngươi sẽ thấy ngàn tên quỳ gối xuống Nước Hoàng Hà không gội sạch tóc tơ Còn lại chăng tồn trử những vần thơ Quân bất kiến mà xưa nay từng đọc. 7 Ai dám nói Lý Bạch mà cô độc? Người vẫn còn tri kỷ khắp muôn phương Chán ngấy đời, nhảy xuống bến Tiền Đường Cụ Tiên Điền kể trong Kiều không lạ. 8 Trăng lạnh Hàn San, chim về cuối Hạ Vọng ngân nga chuông đổ bến Tần Hoài Nghe gió lùa hòa tiếng quạ hiên ngoài Nhấp hớp rượu nhìn trăng khuya lạnh lẽo. 9 Thiên nhiên đúng là những gì kỳ điệu Mấy ngàn năm còn lưu lại chốn đây Vẫn Trường Giang, vẫn nước mắt đong đầy Sông nước ấy một đoạn đời Tào Tháo. 10 Ai còn nghĩ đến một thời giông bão Khơi làm chi những nấm mộ u buồn Nước vẫn xuôi ra bể - đổ từ nguồn Cuộc nhân thế con người luôn trẻ dại. 11 Khổng Minh đó, xuất thân dân áo vải Nằm chờ thời bên hóc núi Nam Dương Quả ông ta đôi mắt chẳng tầm thường Sông Xích Bích buông thuyền năm Nhâm Tuất 12 Ta chỉ muốn nhìn bầu trời bát ngát Uống rượu, ngắm trăng, xướng họa cùng nhau Tiễn người đi, đành ly biệt u sầu Ai tiễn ai, tích xưa chày dập vải. 13 Hình bóng ấy ngàn năm sau còn mãi Lịch sử Tàu, tiếng người đẹp Tây Thi Chuyện Liêu Trai và cả chuyện Hồ Ly Chuyện Thất Hiền ấn mình trong rừng trúc.

10 14 Ôi, những chàng hảo hán Lương Sơn Bạc Đốt sách chôn nho thời đại Bạo Tần May còn người hào sảng Mạnh Thường Quân Trăng Vạn Lý có còn soi không nhỉ? 21 Cạn vài cốc! chiêu niệm thời gác kiếm! Đọc vần thơ Tương Tiến Tửu rồi cười Thấy ngổn ngang chồng chất khắp nơi nơi Trống Trường An xế ngày nghe đổ muộn! 15 Đất Ký Châu sinh ra nàng Đát Kỷ Xứ Hàn San nổi tiếng bến Cô Tô Động Đình lừng danh thơ mộng Ngũ Hồ Còn nhiều nữa cảnh quan còn nhiều nữa 22 Chim xào xạc lùa cành theo gió cuốn Vâng, rằng ta đang kể chuyện Trung Hoa Phong cảnh, văn chương đầm ấm thiết tha Mà giông bão máu me tràn sử sách 16 Ta thật sự chưa một lần đến đó Thừa rõ rằng xứ sở của hoa hương Liễu rũ, sương thưa, mây trắng Tần Dương Khúc Phượng Cầu miên man mùi hoa phấn. 23 Nơi sinh ra con người thơ Lý Bạch Lại di truyền lạc giống quỷ vương Mao Tập Đường Thi, ôi tuyệt diệu làm sao Gái Hàng Châu mắt long lanh đẹp lạ! 17 Đài Đồng Tước, Linh Thư tình nghĩa bận Phò Tôn Quyền trung tiết một Chu Du Bờ Thái Hồ hoa mộng ấy Tô Châu Từng viên lâm, mênh mang chiều bảng lảng. 24 Thưa, đúng vậy, chính tình yêu người ạ Tiếng yêu thương gạn lọc những dối gian Dòng ý thơ sẽ truyền tải nồng nàn Cho hạnh phúc cuộc đời vơi lạnh nhạt. 18 Gái Phù Kiều nụ cười như trăng sáng Dấu vết xưa rêu phủ những tường dài Chúm chím hoa sen thầm nhắc những ai Hãy tìm bước đi dần lên đất Thục. 25 Dạo một vòng, mời người về Đà Lạt Quê hương mình ấm áp với hương xưa Về nơi đây, chẳng thấy chút chi thừa Chỉ nuối tiếc thời xưa không còn nữa! 19 Đọc Kim Dung ta biết về Tây Vực Xứ ấy ngày xưa non nước của người Nhắc Thiên An Môn lòng nhói ai ơi! Tiếng Dân Chủ, hồn sinh viên réo gọi! 20 Một xã hội con người không được nói Xác thân nào nghiền nát bởi xích tăng Đừng bao giờ hỏi họ chuyện công bằng Xót xa lắm, lẫn thân vào tửu điếm. Hạ Thái Trần Quốc Phiệt July, 11, 2017

11

12

13

14 LÊ VĂN KHOA

15 MỖI MÙA PHƯỢNG NỞ Sáng nay phượng-vĩ đua nhau nở, Rụng xuống làm hoa áo học-trò. Những mái đầu xanh nhìn bỡ-ngỡ, Vui-buồn xáo-trộn mấy câu thơ. Lác-đác vài-ba tiếng biệt-ly, Dăm đầu chụm lại, nhỏ-to gì, Mấy người hay khóc đang lần giở Những trang lưu-bút, bảo nhau ghi. Suốt một năm trời sống với nhau, Đã bao giờ thấy mến nhau đâu! Giờ đây sắp nói lời ly-biệt, Mới thấy mênh-mang nhớ với sầu Ôi! Nhớ làm sao tấm bảng đen, Những giờ toán bí, đứng mon-men, Phấn ơi! Không giúp ta lời giải, Tìm Anh không thấy, thấy toàn Em! Ôi! Nhớ làm sao những góc bàn, Những hình ma-quái khắc lăng-nhăng, Những công-thức hóa, phương-trình số, Bên cạnh bài thơ nói chuyện trăng Ôi! Nhớ làm sao những mảnh sân, Gốc bàng phủ bóng những vai gần, Những mái đầu nghiêng chiều hội-ngộ, Hẹn với nhau cùng góp tuổi xuân Ta tiếc giờ đây điệp nở rồi, Và ngày xanh thắm lạnh-lùng trôi, Rồi đây chia cách người mỗi ngả, Còn có bao giờ gặp-gỡ ai? Còn có bao giờ mắng : lũ ngu! Học lười như hủi, dốt như bò! Thày phạt nghĩ là thày ghét lắm, Nức-nở rồi đem dạ oán-thù. Có những giờ vui quá là vui, Có giờ buồn-chán nhất trên đời, Thày cho điểm rộng, cười hể-hả, Bị phạt, ôi thôi, mặt xịu rồi Ôi! Thế mà qua rồi cơn mộng, Sáng nay giở lại mấy trang đời, Ba hồi ngoan-ngoãn, ba hồi phá, Bốn lúc giận-hờn, tám lúc tươi Thôi hết, rồi đây sẽ lớn khôn, Đừng hòng đi học để vui-buồn, Mong gì những phút nghe thày mắng, Hình-bóng ngày xanh cũng mất luôn. Mỗi mùa hoa phượng đua nhau nở, Rụng xuống làm hoa áo học-trò, Tháng ngày yêu-ghét không về nữa, Kỷ-niệm còn vang trong tiếng thơ. Nguyễn Tường-Vân ( Viết giữa sân trường )

16 MỘT VÀI CẢM NGHĨ VỀ ÁN TỬ HÌNH MÁY CHÉM GUILLOTINE Soạn giả: TP. Nguyễn Văn Thành (1923) Theo tác phẩm Hồi ức về máy chém Guillotine (Reflections on the Guillotine) của nhà văn Pháp Albert Camus được giải thưởng Nobel văn chương năm 1957, án tử hình, thực ra, qua lịch sử là hình phạt tôn giáo. Nhưng kể từ khi thần quyền với thế quyền hay tôn giáo với nhà nước được phân nhiệm, bắt đầu từ đó, xã hội nắm vai trò ban hành luật lệ cùng quy định thủ tục hành quyết thủ phạm bị kết án tử hình. Trải qua nhiều thế kỷ, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều liên tục áp dụng án tử hình coi như một sự cần thiết tuyệt đối để thị uy và ngăn ngừa những tội phạm nghiêm trọng nhất gây nguy hại cho an ninh và trật tự xã hội. Vì vậy, ta thấy không có luồng tư tưởng hoặc cuộc tranh luận nào diễn ra trong cộng đồng quốc tế, vào thời gian trên, phản kháng áp đặt hình phạt tử hình cả. Sự kiện này kéo dài tới cuối thế kỷ 18 mới rẽ vào bước ngoặt đảo lộn quan niệm vừa đề cập. Ðó là sự ra đời máy chém Guillotine được Quốc Hội Pháp chấp thuận ngày và, tiếp đến, Hội Nghị Quốc Ước (La Convention Nationale) do các nhà Cách Mạng Dân Quyền 1789 lập ra để thay thế Quốc Hội, rồi thâu tóm hết quyền hành cai trị nước Pháp trong 3 năm, đã ra lệnh sử dụng máy chém Guillotine chặt đầu những người bị cáo buộc kẻ thù của Cách Mạng. Vua Louis 16 và Hoàng Hậu Marie Antoinette bị truy tố và bị kết án tử hình phải lên đoạn đầu đài về tội phản quốc. Cả hai bị đưa ra pháp trường và bị máy chém Guillotine chặt đầu, với sự chứng kiến của hơn người tại nơi xẩy ra cuộc Cách Mạng Dân Quyền, ngày nay gọi là Quảng Trường Concorde ở Ba Lê (La Place de la Concorde). Tiếp theo, hàng dãy máy chém Guillotine được đặt tại Quảng Trường cũng như tại nhiều nơi khác chặt đầu những người chống phá cách mạng, ước tính tử tội đã lìa đời đi theo nhà Vua và Hoàng Hậu về bên kia thế giới. Cuộc hành quyết Vua Louis 16 và Hoàng Hậu Marie Antoinette gây kinh hoàng và rung động cả Châu Âu. Vì lo sợ bất ổn có thể xẩy ra và cũng vì ngai vàng, tất cả các nước tại Châu này đoàn kết chống lại sự xuất cảng cuộc Cách Mạng Dân Quyền bằng cách ngăn chặn không cho phổ biến Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền Pháp (Declaration of the Rights of Man and the Citizen) đề ra 3 mục tiêu: Tự Do, Bình Ðẳng, Bác Ái. Trong khi đó, nước Pháp bị chia rẽ trầm trọng giữa phe Cách Mạng và phe Bảo Hoàng. Cuối cùng phe Cách Mạng đã

17 thắng thế, lập ra Hội Nghị Quốc Ước gồm 693 đại biểu, trong số đó có nhà độc tài khét tiếng Robespierre cùng phe nhóm, cầm quyền từ đến , được gọi giai đoạn thống trị bằng khủng bố (the Reign of Terror) (1). Dân chúng Pháp ca ngợi Cuộc Cách Mạng chấm dứt chế độ phong kiến, mở ra một thời đại mới chủ trương nền dân chủ, tính nhân đạo và việc coi trọng tự do. Nhưng biết bao cảnh chặt đầu tử tội, trong số đó có nhiều người dân vô tội, diễn ra trước mắt mọi người như trò giải trí, một cách tàn ác, vô nhân đạo, làm hạ nhân phẩm con người, đã nhen nhúm lên tinh thần chống đối áp đặt án tử hình. Người cầm bó đuốc đi tiên phong là Ðại Văn Hào Pháp Victor Hugo nói lên sự phản kháng án tử hình qua tác phẩm viết năm 1829 mang tựa đề Ngày Cuối Cùng của một Tử Tội (Le Dernier Jour d un Condamné). Tác phẩm nổi tiếng này đã thu hút đông đảo quần chúng đứng vào hàng ngũ tranh đấu bãi bỏ án tử hình chẳng những tại Pháp mà còn ở khắp mọi nơi trên quả địa cầu. Victor Hugo là nhà văn, nhà thơ lớn nhất nước Pháp, cả thế giới đều biết đến hai tác phẩm lừng danh của nhà văn như Nhà Thờ Ðức Bà (Notre Dame de Paris năm 1831) và Các Kẻ Khốn Cùng (Les Misérables 1862) nằm trong số 45 cuốn tiểu thuyết của Văn Hào. Thiển nghĩ cũng cần trình bày thêm vài hàng về Ðại Văn Hào Victor Hugo, người được dân tộc Pháp ca ngợi như một vị anh hùng quốc gia. Victor Hugo từ trần vào ngày 22 tháng 5 năm Mặc dù ước vọng của ông là được chôn cất trong hoàn cảnh của kẻ nghèo, chiếc quan tài của ông được đặt tại Khải Hoàn Môn (Arc de Triomphe) với 12 nhà thơ lớn đứng kế bên, có nhiều kỵ binh cầm đuốc xếp hàng chung quanh và tang lễ được cử hành long trọng như một quốc lễ lớn để tôn kính nhà văn vĩ đại nhất của nước Pháp. Vào ngày tang lễ, dân chúng đứng xếp hàng từ Khải Hoàn Môn tới Quảng Trường Concorde. Văn hào Hugo được chôn trong điện Panthéon, nơi an nghỉ của các vĩ nhân của nước Pháp (2). Nối tiếp cuộc tranh đấu bãi bỏ án tử hình của người đi trước, đại văn hào Anh Charles Dickens, trong tác phẩm Câu chuyện của Hai Thành Phố (A Tale of Two Cities), đã mô tả cảnh pháp trường nơi hành quyết các nhà quý tộc và ngay cả các nạn nhân vô tội diễn ra hết sức tàn nhẫn trong thời kỳ Cách Mạng Dân Quyền Pháp. Vào đầu những thập niên của thế kỷ 20, nhà văn Albert Camus viết trong tác phẩm Hồi ức về máy chém Guillotine, phân tích tác dụng của Nữ Tử Thần Guillotine đem ra sử dụng hơn một trăm năm, để làm gương răn đe những kẻ lăm le bước vào con đường phạm pháp, không mang lại kết quả mong muốn. Trái lại, thống kê cho thấy tội phạm tàn ác không giảm mà lại có phần gia tăng. Hàng ngũ tranh đấu phản kháng án tử hình ngày một mạnh, quy tụ đủ mọi thành phần trong xã hội trên thế giới, đã khởi xướng lên Chiến Dịch bãi bỏ án tử hình được nồng nhiệt đón nhận khắp nơi. Tiếc thay, Ðệ Nhất và Ðệ Nhị Thế Chiến đã làm gián đoạn dự tính thực hiện chiến dịch này trong một thời gian khá dài. Chúng ta phải đợi khi Ðại Chiến Thứ Hai chấm dứt vào năm 1945 mới thấy một biến cố trọng đại xẩy ra làm thay đổi hẳn bộ mặt thế giới. Ngày , Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (Universal Declaration of Human Rights) với 30 điều khoản được Ðại Hội Ðồng Liên Hiệp Quốc thông qua với 48 phiếu thuận và không phiếu chống. Ðây là văn kiện quan trọng nhất trong lịch sử loài người được phổ biến rộng rãi tới các quốc gia và các lãnh thổ trong cộng đồng thế giới, để tôn trọng và thực thi những nhân quyền cùng những quyền tự do căn bản. Những nhà tranh đấu phản đối hình phạt tử hình, không bỏ lỡ cơ hội, đã dựa vào Ðiều 3 trong Tuyên Ngôn trên quy định Ai cũng có quyền sống (the Right to live), được coi như giường cột của cuộc đấu tranh.

18 Nhiều tổ chức nhân đạo đã ra đời như Hồng Thập Tự Quốc Tế, Theo Dõi Nhân Quyền, Ân Xá Quốc Tế cùng nhiều tổ chức khác tham dự và đẩy mạnh chiến dịch bãi bỏ án tử hình trên thế giới, một cách quy mô và bền bỉ, suốt hạ bán thế kỷ 20 cho đến đầu thập niên Thiên Niên Kỷ 21, đã đạt được kết quả khiến nhiều người sững sờ. Tòa Án Hình Sự Quốc Tế thường trực trên hành tinh này có thẩm quyền xét xử những tội phạm nghiêm trọng nhất như tội diệt chủng, các tội phạm chống nhân loại, các tội phạm chiến tranh, không áp dụng hình phạt tử hình kể từ ngày Hình phạt tối đa là hình phạt chung thân mà thôi. Theo tài liệu của Ân Xá Quốc Tế, tính đến cuối năm 2006, gần 2/3 (hai phần ba) các quốc gia và các lãnh thổ giám hộ trên thế giới đã bãi bỏ án tử hình. Chỉ còn 70 quốc gia và các lãnh thổ vẫn duy trì án tử hình, đáng kể nhất siêu cường kinh tế số 1 Hoa Kỳ nổi tiếng quán quân về nhân quyền, vẫn áp đặt án tử hình. Theo sau, siêu cường kinh tế số 2 Nhật Bản lại áp dụng hình phạt tử hình còn khe khắt hơn Hoa Kỳ rất nhiều. Quả Ðông và Tây đã gặp nhau ở điểm này. Có lẽ câu nói cực đoan của nhà văn Anh Quốc Rudyard Kipling Ðông và Tây vạn kiếp chẳng gặp nhau cần được xét lại. NỮ TỬ THẦN GUILLOTINE Bác sĩ y khoa Guillotin (Joseph Ignace) không phải là người phát minh ra máy chém Guillotine mà chỉ có công nghiên cứu các dụng cụ chặt đầu tử tội từng được đem ra áp dụng từ nhiều thế kỷ trước đây như tại Anh, Ý sau đó, ông hoàn thiện một loại máy chặt đầu tử tội tối tân hơn vào năm Ngoài chức vụ chuyên môn, bác sĩ Guillotin còn là Ðại Biểu trong Quốc Hội Pháp. Thuyết phục các nhà lập pháp, ông nhấn mạnh và khẳng định dụng cụ mới chặt đầu tử tội không gây đau đớn và tử tội chết ngay. Với luận cứ sắc bén có sức thuyết phục mạnh như vậy, Quốc Hội Pháp chấp thuận ngày và cho phép máy chém này mang tên Bác Sĩ Guillotin (La Guillotine hay Madame Guillotine) được đem ra sử dụng. 3. Anh Quốc phát minh máy chém đầu tiên tại Châu Âu: Máy Gibbet Theo quan niệm dân gian, thiết bị chặt đầu tử tội đã xuất hiện rất sớm tại Halifax vào thời gian người Norman ở phía Bắc nước Pháp sang chinh phục Anh Quốc năm 1066 (Norman Conquest), nhưng không có tài liệu hoặc di tích nào xác minh các sự kiện đó cả. Ta phải đợi tới năm 1280 mới thấy máy chém đầu tiên chính thức mang tên Halifax Gibbet, tên của hai Ðạo Luật của Anh Cát Lợi ghép lại (Gibbet Law và the Laws of Halifax) ra đời và đem ra sử dụng tại Halifax và Yorkshire tại Anh. Ít lâu sau, xứ Scotland cũng đưa ra máy chém với tên Maiden (Scottish Maiden), và trong lục địa Âu Châu, Ý Ðại Lợi với máy chém Mannala. Trên ba thế kỷ hay 370 năm, loại máy chém Halifax Gibbet đã chặt đầu nhiều tử tội, trong đó có nhiều nhân vật tên tuổi như Nữ Hoàng Mary Stuart xứ Scotland (Queen of Scots Trail 1586) và Vua Charles 1 nước Anh (Charles 1 Trial 1649). Hai tử tội cuối cùng Mitchell và Wilkinson bị chặt đầu ngày đánh dấu ngày tháo gỡ thiết bị tất cả máy chém Gibbet không còn đem ra sử dụng nữa. Nguyên nhân đưa tới việc ngưng áp dụng máy Gibbet vì vụ chặt đầu Vua Charles I gây phẫn nộ trong quần chúng Anh đòi phá hủy máy chém Gibbet. Chính quyền Anh nhượng bộ cho triệt hạ hết các căn cứ đặt máy chém Gibbet, nay vẫn còn tàn tích dụng cụ đó ở một vài nơi tại Anh Quốc.

19 2. Máy Chém Guillotine Sau khi nghiên cứu tất cả các loại máy chém và được sự cộng tác của các chuyên gia cần thiết, Bác sĩ Guillotin chọn mô hình máy Gibbet, vì dụng cụ này tuy có khuyết điểm, nhưng có khá nhiều ưu điểm hơn các cụng cụ khác cùng thời. Nếu so sánh, ta thấy máy chém Gibbet và Guillotine giống nhau trên đại thể. Cả hai đều được cải tiến nhiều lần sau khi đem ra sử dụng. Riêng máy chém Gibbet đã gặp trục trặc về lưỡi dao và khúc gỗ lớn kê đầu tử tội tỷ như Dennis rút đầu ra khỏi súc gỗ trước khi lưỡi tử thần rơi. Y được tha không bị đưa ra chém lại, nhưng phải tuân thủ một số điều kiện trong thời gian thử thách. Còn tử tội thứ hai John Lacy cũng thoát chết nhờ kỳ công cũng rút được đầu như Dennis, y được tự do nhưng không thi hành các điều khoản luật định trong thời gian thử thách. Tử tội trốn 7 năm mới bị bắt. Y bị đưa tức khắc lên máy Gibbet chặt đầu ngày không cần chờ Tòa xét xử lại. Ðể khắc phục khuyết điểm trên, bác sĩ Guillotin giao cho nhà thiết kế Toblas Schmidt nổi tiếng tại Ðức, vẽ mẫu lưỡi dao Guillotine theo sáng kiến của ông. Lưỡi dao được cải tiến nặng 56 kí lô tức nặng hơn lưỡi dao Gibbet 16 lần (Lưỡi dao Gibbet nặng 7 pounds 12 ounces, chừng 3 kilô 52). Treo trên cao 2 thước 20 phân tây, khi thả ra, lưỡi dao sắc như dao cạo gắn vào súc gỗ lớn rơi mãnh liệt như tia chớp. Có thể nói kể từ khi máy chém Guillotine bắt đầu hoạt động năm 1792 cho tới ngày nước Pháp chính thức bãi bỏ án tử hình năm 1977, ta chưa thấy có tử tội nào thực hiện nổi việc rút đầu né tránh lưỡi dao tử thần như hai tử tội Dennis và Lacy đã làm lúc lên máy chém Gibbet. Ðề cập tới thiết bị cải tiến trên, người viết liên tưởng tới 13 nhà cách mạng trẻ, tuồi đời từ 20 tới 37 tuổi, vừa lãnh tụ vừa đảng viên Việt Nam Quốc Dân Ðảng, đã hiên ngang hô to Việt Nam muôn năm, bước ra pháp trường Yên Báy tuẫn tiết vào một buổi sáng sớm mùa hạ ngày 17 tháng 6 năm Viên công sứ Pháp De Bottini chỉ huy vụ hành quyết này. Ðặc biệt Phó Ðảng Trưởng Phó Ðức Chính hô to Việt Nam muôn năm và đòi được nằm ngửa để coi lưỡi dao Guillotine rơi xuống cổ mình. Viên Công Sứ vẫy tay lần thứ 12, đầu Phó Ðức Chính đã rời khỏi cổ. Người cuối cùng là Ðảng Trưởng Nguyễn Thái Học, vừa tròn 28 tuổi, với bộ râu quai nón, cực kỳ bình thản, mỉm miệng cười, đưa mắt nhìn dân chúng, nhìn quân lính, nhìn máy chém. Ông cất giọng đĩnh đạc hô to Việt Nam Muôn năm. Cùng lúc viên Công Sứ vẫy tay lần thứ 13, đầu Nguyễn Thái Học lìa khỏi cổ. Theo tài liệu chính thức của thực dân Pháp còn lưu trữ, chỉ riêng sau cuộc Tổng khởi nghĩa ngày 10 tháng 2 năm 1930 đã có 80 chiến sĩ Việt Nam Quốc Dân Ðảng lên máy chém Guillotine hy sinh đền nợ nước, chưa kể 383 chiến sĩ bị kết án chung thân và trên đảng viên bị án khổ sai hữu hạn hay cấm cố (3). 3. Máy Guillotine dưới lăng kính pháp lý Pháp Quốc đã bãi bỏ án tử hình vào năm 1977 cùng với 44 nước tại Châu này để gia nhập Tòa Án Nhân Quyền Âu Châu, ngoại trừ Thổ Nhĩ Kỳ không được chấp nhận vì vẫn duy trì án tử hình. Xem như vậy, máy Guillotine được đem ra sử dụng từ năm 1792 cho đến ngày nước Pháp bãi bỏ án tử hình kéo dài 185 năm. Vào thời gian này, đặc biệt từ năm 1948 cho tới cuối thế kỷ 20, Luật Quốc Tế Nhân Quyền, Nhân Ðạo cùng các Công Ước đã ra đời, đều quy định cấm áp dụng hình phạt tàn ác, vô nhân đạo làm tổn thương nhân phẩm con người. Ngoài ra, một số nước tân tiến tỷ như Hoa Kỳ còn cấm chỉ hình phạt tàn bạo và bất thường (Cruel and unusual punishments) dự liệu ở điều 8 Tu Chính Hiến Pháp. Những vụ hành quyết tử tội như lên ghế điện, phòng hơi ngạt hay chích thuốc độc kéo dài sự đau đớn của tử tội đều đi trái với tinh thần Tu Chính Hiến Pháp trên.

20 Xin đưa ví dụ vào năm 1988, tử tội Raymond Landry ở Texas bị tiêm thuốc độc (lethal injection) quằn quại đau đớn mãi 40 phút sau mới tắt thở. Tiếp đến ngày tại Florida, tử tội Angel Diaz bị chích 3 mũi thuốc mê, quằn quại nhăn nhó suốt 34 phút mới lịm dần đi và bất động. Thống Ðốc Jeb Bush vội ra lệnh ngưng hành quyết các tử tội khác theo lối hành quyết này e đi trái với Tu Chính Án trên. Vậy các vụ hành quyết tử tội bằng máy chém Guillotine có vi phạm luật pháp quốc tế không? Câu trả lời nằm trong hồ sơ giám định y khoa để xem tử tội có thực sự chết ngay hay không, có đau đớn không, đau đớn ra sao và kéo dài bao lâu? Khi xác định được các sự kiện này mới cân nhắc xem có đủ yếu tố cấu thành vi phạm luật pháp quốc tế cũng như quốc nội không? Xem xét các tài liệu cũng như tác phẩm nổi tiếng Những Người phạm tội (Les Délinquants) của cha Tuyên Úy Devoyod mô tả tình trạng cơ thể của con người sau khi bị chặt đầu, Viện Hàn Lâm Y Khoa Pháp đã chọn bài thuyết trình của hai bác sĩ giải phẫu Piedelièvre và Fournier để phổ biến vì lợi ích khoa học. Hai bác sĩ can đảm này từng khám nghiệm toàn bộ cơ thể con người sau khi bị chặt đầu, cảm thấy có bổn phận phải đưa ra sự quan sát rùng rợn như sau: Nếu được phép, chúng tôi xin trình bày ý kiến của chúng tôi về vấn đề đó, tức những cảnh tượng đau đớn khủng khiếp. Lưỡi dao Guillotine chặt cổ đã làm đứt hai mạch máu chính và to ở hai bên phía trước cổ được gọi là động mạch cảnh Carotid arteries dẫn máu từ tim lên nuôi não bộ, phun máu ra tùy theo nhịp bơm máu của tim, rồi máu đông lại. Bắp thịt co giật hãi hùng. Ruột co thắt lại và tim đập không đều, bất bình thường như chứng loạn tim, yếu dần không đủ sức bơm máu, co bóp do cơ bắp gây ra. Miệng nghiến chặt, đôi lúc, nhăn nhó ghê gớm. Quả thật đôi mắt của người bị chặt đầu bất động, may mắn thay, tròng mắt nhìn trừng trừng nhưng không nom thấy gì cả. Tất cả sự việc đó kéo dài nhiều phút và thậm chí hàng giờ thường xảy ra đối với những người khỏe mạnh: Cái chết không đến tức thì Như vậy, mỗi bộ phận tối cần cho sự sống của cơ thể còn sống sót, sau khi bị chặt đầu, kéo dài trong khoảng một thời gian nào đó. Tưởng cũng cần đề cập thêm hai bác sĩ trên không thuộc thành phần chống đối án tử hình, đưa ra sự quan sát nhằm mục đích hoàn toàn phục vụ khoa học, đã cho ta thấy tử tội đau đớn kinh khủng, không chết ngay và bị chôn sớm. Tóm lại, hình phạt chặt đầu tử tội bằng máy chém Guillotine đã vi phạm trầm trọng Luật Nhân Ðạo Quốc Tế (International Humanitarian Law Xin xem Công Ước Geneva về luật nhân đạo quốc tế được các Quốc Gia Hội Viên Liên Hiệp Quốc đồng thuận ký ngày 12 tháng 8 năm 1949 để thi hành). Trích: LUẬT PHÁP VÀ VĂN HỌC NGHỆ THUẬT của soạn giả: TP. Nguyễn Văn Thành (1923) Tham khảo và trích các tài liệu sau: (1) Great World Trials-The 100 Most Significant Courtroom Battles of All Time a. Edward W. Knappman, Editor. (2) Bài viết Ðại Văn Hào Victor Hugo ( ) của nhà văn Phạm Văn Tuấn. (3) Bài nói chuyện của Luật Sư Trần Tử Thanh, thứ nam của nhà cách mạng Trần Văn Tuyên, nhân kỷ niệm lần thứ 74 ngày Ðảng Trưởng Việt Nam Quốc Dân Ðảng Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí hy sinh đền nợ nước tại Yên Bái ( ).

21 DUYÊN THƠ Yêu thơ thích nhạc cơ nguyên, Gặp nhau do bởi nhân duyên trong đời. Nay xin đáp lại lời mời, Niềm vui hội ngộ đôi lời cám ơn. Trẻ thơ đã tắt nụ cười, Bơ vơ thất học không người cậy trông. Cõi đời biển khổ mênh mông Vì yêu Tổ Quốc quyết không sợ gì. Tuổi vàng hạnh phúc gì hơn? Ngâm thơ, đàn hát, cô đơn tan dần. Giờ đây không phải cơ bần Vinh hoa phú quí có cần nữa không? Trời cao biển rộng mênh mông, Chạy theo vật chất uổng công tội tình. Tham lam đố kỵ khổ mình, Văn thơ nhạc họa tâm tình bao la. Anh chị em ở gần xa Mừng vui gặp lại chúng ta một nhà. Tình thơ chân chất thật thà Đầu xanh đầu bạc hoan ca tuyệt vời. Quê hương xa tắp chân trời, Ta người viễn xứ suốt đời nhớ thương. Nửa đời lưu lạc vấn vương, Vì sao đất nước vẫn đương thua người? Đồng bào ơi đứng dậy đi, Tự do dành lấy hiểm nguy không màng. Độc lập dân chủ giầu sang Ngày vui đất nước vẻ vang Lạc Hồng. Xứng danh con cháu Tiên Rồng, Lời thơ, bản nhạc phiêu bồng khắp nơi. Gởi người yêu nước tôi ơi Đứng lên đòi lại cuộc đời Tự do. Việt Hưng/PGH Hạnh Phúc - Ảnh: Phan Anh Dũng

22 ĐẮNG CAY CỦA MỘT NGƯỜI TÙ Đỗ Bình Paris Nhà văn Duyên Anh tên thật là Vũ Mộng Long, những bút hiệu khác là Thương Sinh, Mõ Báo Ông sinh ngày 16 tháng 8 năm 1935 tại làng Tường An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, xuất thân trong một gia đình nghèo. Di cư vào Nam năm 1954, ông từng làm đủ nghề: giữ xe đạp, quảng cáo cho gánh xiệc bán thuốc kiểu Sơn Đông mãi võ, kèm trẻ tư gia, theo Đại Việt Duy Dân lên Ban Mê Thuột làm cách mạng được vài tháng bỏ xuống Long Xuyên dạy học ở các trường bán công Hòa Hảo được một thời gian lại về Mỹ Tho mở lớp trường dạy đàn guitare tại gia, rồi lại bỏ trở về Sài Gòn, ở đây ông được nhà văn Nguyễn Mạnh Côn thương mến nâng đỡ hướng dẫn vào con đường văn chương, tác phẩm đầu tay Hoa Thiên Lý đã nổi tiếng, tiếp theo là những tác phẩm Thằng Côn,Thằng Vũ, Con Thúy được độc gỉa yêu thích, nhất là đối với những độc giả di cư, văn của ông rất lãng mạn đầy hoài niệm về thời kỳ ấu thơ tại quê hương miền Bắc. Tên tuổi của Duyên Anh sáng chói trong lòng giới mộ điệu và từ đó sự nghiệp văn chương của ông thăng tiến. Ngoài nghề viết văn, ông còn làm ký giả, chủ bút, chủ báo, giám đốc nhà xuất bản. Duyên Anh đã cộng tác với hầu hết những tờ báo lớn ở miền Nam trước năm 1975 như: Xây Dựng, Sống, Chính Luận, Công Luận, Con Ong,Tuổi Ngọc... Những tác phẩm của Duyên Anh trước năm 1975 thường mang tính hiện thực xã hội, diễn tả những mảnh đời sống trong một góc khuất ở những con hẻm, những ngõ cùng nơi đô thị. Ngoài ra, ông cũng viết nhiều truyện ngắn và truyện dài cho thiếu nhi. Sau biến cố 30 tháng 4, 1975, Duyên Anh, Doãn Quốc Sỹ, Dương Nghiễm Mậu, Nhã Ca, Mai Thảo, Võ Phiến, Vũ Khắc Khoan, Nhất Hạnh, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn bị nêu danh là Những Tên Biệt Kích của Chủ Nghĩa Thực Dân Mới Trên Mặt Trận Văn Hóa Tư Tưởng và tác phẩm bị cấm lưu hành. Trong Chiến dịch bắt văn nghệ sĩ miền Nam tháng 4, 1976 của nhà cầm quyền cộng sản ban hành, Duyên Anh cùng chung số phận với các văn nghệ sĩ khác đều bị bắt vào tù. Ông được ra tù tháng 11 năm 1981, sau đó ông vượt biên. Tháng 10 năm 1983 Duyên Anh sang định cư tại Pháp. Một số tác phẩm ông viết ở hải ngoại mang tính phê phán chế độ độc tài cộng sản Việt Nam (CS VN), sách ông được dịch ra tiếng nước ngoài và dựng thành phim, như Đồi FanTa, Một Người Nga ở Sài Gòn. Thời gian này, ông còn làm thơ và soạn nhạc. Năm 1985, ông bắt đầu cộng tác với tờ Ngày Nay và trở thành một trong những cây bút trụ cột của báo này. Ngày 6 tháng 2 năm 1997, Duyên Anh mất vì bệnh xơ gan tại Paris, Pháp, để lại hơn 100 tác phẩm. Một tác phẩm ở bất cứ một thể loại nào dù là văn học hay nghệ thuật giá trị đích thực không hẳn ở lời khen tiếng chê mà tùy thuộc vào bản thể tác phẩm có thực đi vào lòng người hay không. Tuy nhiên người đời vẫn lầm lẫn giữa tác phẩm và nhân cách tác giả! Người nghệ sĩ và tác phẩm là hai thực thể tách rời nhau nhưng lại khắn khít, có chung một niềm bất hạnh chứa đầy rủi ro, đôi khi bị vùi dập vì ngộ nhận! Tâm hồn nghệ sĩ rất phóng khoáng, bao dung, yêu thiên nhiên, yêu tha nhân, yêu cuộc đời cho dù đời muôn cay đắng! Người nghệ sĩ chân chính yêu nghệ thuật và yêu tự do như hơi thở mạng sống. Con đường văn học nghệ thuật mênh mông vô tận, người nghệ sĩ tự mình tìm con đường riêng để đi, và họ đã gặp nhau ở chốn Chân Thiện Mỹ, từ đó mọi sự vật trong cõi đời mới có tên.

23 Một chiều hè năm 1984, có lần giáo sư Nguyễn Ngọc Chân một người rất uyên bác, đi du học Pháp từ thập niên 60 học về kinh tế, rất am tường về khoa học lịch sử thế giới và thuộc sử Việt Nam. Vì qúy văn chương nên vợ chồng ông bà đã mời chúng tôi dự bữa tiệc thân mật tại tư gia gồm có: Anh chị nhà văn Duyên Anh, giáo sư Bạch Thái Hà và tôi là những khách đặc biệt vì bị tù CS, vừa thoát khỏi chốn đọa đày đó ra bến bờ tự do. Chị Duyên Anh Nguyễn Ngọc Phương là bạn cũ cùng quê với gia chủ; còn lại đều là những người bạn cũ thời du học trước năm 75. Đây là những người thành đạt trong xã hội Pháp, may mắn chưa thấy bom đạn trong chiến tranh và sự nghèo đói của xã hội chủ nghĩa. Phòng khách nồng hương rượu, khói thuốc và rộn rã tiếng cười nói, làm tăng sự ấm cúng bữa tiệc thân mật. Chất rượu mạnh đã thấm làm cuộc nói chuyện thêm sôi nổi, họ tranh luận từ đề tài Việt Nam đến thời sự nước Pháp, rồi chuyển qua đề tài văn chương Pháp. Nhà văn Duyên Anh giữ thái độ im lặng, khuôn mặt toát ra nét lạnh lùng thâm trầm thoáng chút «thiền», sự im lặng đó ẩn chứa cao ngạo làm như không thèm nghe, tôi hiểu trong con người đó đầy rẫy tự ti và tự tôn - nhưng phần tự tôn nhiều hơn. Anh giữ im lặng không phải vì ngại trước những kiến thức uyên bác của những nhà khoa bảng ; mà vì cho rằng những người này chỉ biết trong sách vở thiếu sự từng trải cuộc đời. Khi câu chuyện chuyển sang đề tài xã hội nước Pháp, nhân dịp đó anh Bạch Thái Hà hiện đang làm việc trong ngành xã hội đã đề nghị muốn giúp anh Duyên Anh làm hồ sơ bảo hiểm an sinh xã hội để phòng khi đau ốm mà bất cứ người nào sinh sống trên xứ Pháp hợp pháp đều được hưởng, đó là quyền lợi mà luật pháp quy định. Khi nghe nói, anh Duyên Anh tỏ thái độ bực bội đứng lên phản đối và nói là: «Một người đang khỏe mạnh không cần bảo hiểm!» Mọi người nghe đều ngỡ ngàng, nhưng ít ai biết anh Duyên Anh rất tin dị đoan, anh sợ nói đến bệnh tật khi đang khỏe mạnh như thế là trù ẻo! Vì qúy tài nhà văn Duyên Anh nên anh Bạch Thái Hà không buồn khi lòng tốt của mình bị hiểu sai. Ngày trước anh là cựu giáo sư trường Đại học Chiến tranh chính trị và một số trường trung học ở Đà Lạt, Sài Gòn trước năm 1975, và cũng là là một cựu sĩ quan ngành chiến tranh chính trị VNCH, một cựu tù nhân chính trị CS. Qua được Pháp anh dấn thân vào con đường văn hóa và phụng sự xã hội giúp rất nhiều việc hữu ích cho cộng đồng. Anh là người sáng lập ra thư viện Diên Hồng ở Paris và làm đại diện cho tờ báo văn học nghệ thuật Làng Văn ở Pháp, anh rất được người đồng hương qúy mến. Anh Duyên Anh vẫn còn đứng muốn nói thêm, thấy vậy gia chủ vội chuyển sang đề tài khác anh mới ngồi xuống. Bữa tiệc kéo dài gần 3 giờ sáng, những người khách lần lượt ra về chỉ còn lại vợ chồng anh Duyên Anh và tôi. Anh Duyên Anh muốn tôi ở lại tiếp tục nói chuyện thơ văn, âm nhạc, và nghe anh tán chuyện đời. Mọi người đều đi ngủ chỉ còn hai chúng tôi với những dòng tâm sự cho đến sáng, anh Duyên Anh nói về những chuyện xa xưa và nói những chuyện nổi trên báo chí hải ngoại hiên nay, anh nói anh rất ghét những lố lăng của một số người khoe khoang và những trò bịp đời, những tổ chức đấu tranh cuội nên phê phán. Đêm gần sáng, giọng nói của anh càng nhẹ nhàng kém sôi nổi. Ký ức tuổi thơ trên đất Bắc và những năm đầu mới di cư vào Nam luôn ẩn trong tiềm thức anh cái thuở mà tuổi còn quá trẻ một mình bơ vơ ở đất Sài Gòn phải tự lập thân sống bằng nhiều nghề, phải lóc lách né tránh kẻ mạnh để tồn tại trong việc mưu sinh và phải cố gắng học hỏi trau dồi kiến thức để tiến thân, do đó anh phải cứng rắn với bản thân để vượt qua những khó khăn. Vốn đã thông minh, trời lại không phụ lòng người, may mắn đã đến với anh gặp được những người tốt sẵn lòng thương yêu giúp đỡ anh, trong đó có người vợ hiền gia đình giàu có, những người bạn văn bậc thày sẵn lòng chỉ bảo, cộng thêm ý chí và nghị lực của chính anh đã giúp anh cơ hội vươn lên. Sự nổi tiếng trong văn chương quá nhanh, đời sống sung túc dư giả tiền bạc rủng rỉnh khiến anh tự mãn trở thành ngạo mạn ngông cuồng, xem thường kẻ khác thể hiện qua những bài viết có chất cay nghiệt! Nhìn nét mặt mỏi mệt thoáng chút buồn bã của một người có thời gây sóng gió trên báo chí năm xưa ở miền Nam, và bị Hà Nội cầm tù vì xếp loại cùng với những người khác là Những Tên Biệt Kích Văn Nghệ Cầm Bút một loại cực kỳ nguy hiểm chống phá «chế độ». Tôi chợt thở dài như gợi chứa niềm thương cảm, tôi vẫn thích những tác phẩm của anh viết về tuổi học trò như tác

24 phẩm Phượng Vỹ về những khoảng đời hồn nhiên trong sáng. Chính những giây phút này thể hiện trong anh nét thật hiền hòa như anh vừa bước ra khỏi tháp ngà tiểu thuyết do anh dựng và sống thật với mình, lớp vỏ bọc kiêu kỳ để tạo nét riêng với đời được rũ bỏ giống những nhân vật giang hồ trong tiểu thuyết của anh giã từ dao búa. Trong quán Đào Viên ở khu Á Châu Paris 13 vào năm 1985, chúng tôi: nhà văn Duyên Anh, nhà báo Đạo Cù Trần Tam Tiệp, nhà báo Phạm Hữu và tôi. Anh Phạm Hữu và tôi uống café, còn anh Duyên Anh và anh Đạo Cù uống rượu đỏ. Nhà báo Đạo Cù Trần Tam Tiệp là cựu Trung Tá Không Quân VNCH, khối Chiến tranh chính trị, từng tu nghiệp sĩ quan phi hành tại Pháp. Trước 1975 ông là một trong những chủ biên tập san Lý Tưởng của Không Quân và là cây viết quen thuộc trong làng báo miền Nam. Sau Tháng Tư 1975, nhà báo Đạo Cù cùng với một số nhà văn định cư tại Pháp như Minh Đức Hoài Trinh, Nguyên Sa Trần Bích Lan, Trần Thanh Hiệp, Tô Vũ..... thành lập Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, và được Văn Bút Quốc Tế chính thức nhìn nhận đến nay. Ông kêu gọi quốc tế tranh đấu bảo vệ các nhà văn miền Nam bị cộng sản bắt giam không xét xử. Chính là nhờ sự vận động bền bỉ của ông, tổ chức The International PEN Writers in Prison Committee (WiPC) đã dành cho các nhà văn, nhà báo Việt Nam bị CS cầm tù nhiều trợ giúp ý nghĩa hoặc can thiệp bảo trợ. Đạo Cù Trần Tam Tiệp bản tính hiền hòa, hay cười, giọng nói từ tốn nhưng ít nói. Từ sau năm 1975 ngòi bút của anh chuyên về mặt đấu tranh, anh đặt nặng phần vận động quốc tế tranh đấu đòi tự do cho các văn nghệ sĩ bị CS cầm tù ở quê nhà, và kêu gọi bằng hữu giang tay giúp đỡ những người bạn văn đang khốn khó còn kẹt lại VN. Về phần Duyên Anh và Phạm Hữu là hai con người đặc biệt, đa tài cũng lắm tật, ngòi bút của họ sắc như gươm đao. Từ ngày đến Pháp nhà văn Duyên Anh chưa xử dụng đao bút mà chuyên tâm vào viết truyện, anh viết rất khỏe, văn chương vẫn mượt mà nhưng là lối hiện thực phê phán. Anh đang viết gần xong cuốn: Một Người Mang Tên Trần Văn Bá, một giảng sư đại học, cựu chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên VN Paris dám từ bỏ vinh hoa phú qúy để về nước làm cách mạng giải phóng quê hương thoát khỏi ách Cộng Sản nhưng bị thất bại, đã bị bắt và bị nhà cầm quyền Hà Nội tử hình! Riêng nhà báo, nhà văn Phạm Hữu tên thật là Nguyễn Hữu Ích, cựu giáo sư triết của các trường trung học danh tiếng Sài Gòn năm xưa. Qua Pháp tị nạn, anh nghèo vì mê làm báo, anh đi làm thêm đủ nghề để lấy tiền nuôi báo, yêu tự do, trung thành với lý tưởng, tận tụy với văn chương chữ nghĩa, cho đến khi nhắm mắt. Anh muốn dùng ngòi bút để cảnh tỉnh những những kẻ hai lòng ngả nghiêng quốc cộng. Cái ngông của Phạm Hữu nặng hơn Duyên Anh, anh bất cần đời hơn Duyên Anh, anh thà để bụng đói nhất định không thèm ăn những cao lương mà một số người vì ngán ngòi bút của anh chiêu đãi. Anh ăn nói sống sượng hơn, bốp chát thẳng vào mặt những người mà anh cho là «rởm đời» hay khoe khoang, anh nặng tay với đám con buôn chính trị, bọn đấu tranh bịp! Nhưng lại rất khiêm cung, lễ độ với những người tử tế. Nhà báo Phạm Hữu bảo với tôi: «Ông Đạo Cù bây giờ tâm trí chỉ nghĩ đến cách giúp đỡ các anh em, chiến hữu trong nước mà chẳng quan tâm những việc nhố nhăng ở đây! Còn Ông Duyên Anh định ăn no ngủ kỹ sao vẫn chưa lên tiếng nên lũ chuột mới lộng hành?!». Nhà báo Đạo Cù chỉ cười nhưng không nói, còn nhà văn Duyên Anh cười hăng hắc nói: «Ông lại tháu cáy rồi! Làm sao ông biết những điều tôi đang làm đang viết?». Nhà văn Duyên Anh nói tiếp : «Tôi mời các ông ra để uống rượu nghe tôi đọc thơ», nói xong anh cầm ly rượu uống cạn, rồi khẽ ngâm bài thơ của mình, nhìn anh thấp thoáng hình ảnh những thi sĩ thời xưa trong sách cổ. Anh tặng chúng tôi tập thơ Tù mới in, tập thơ trình bày đẹp. Anh Phạm Hữu hỏi Duyên Anh: «Ông có cần tôi giới thiệu trên báo không?» Duyên Anh trả lời : «Không, thơ tôi chỉ dành tặng cho những người tôi qúy.». Trong lúc các anh Duyên Anh, Đạo Cù và Phạm Hữu nói chuyện, tôi mở tập thơ ra đọc vài bài và cảm thấy bùi ngùi, ý thơ sâu sắc, tôi chẳng hỏi anh chuyện tù mà miên man về nét đẹp của thi ca chứa đầy nước mắt và thấy mình qua những dòng cảm xúc mà anh đã viết trong lời dẫn nhập mở đầu trong tập Thơ Tù, nhà văn Duyên Anh viết: «.Tôi

25 làm thơ trong tù bằng óc của tôi. Tôi dựa lưng vào tường bê tông. Tôi bám chấn song sắt to hơn cánh tay tôi, chấn song sắt của khám Chí Hòa, nghĩ thơ. Tôi nhắm mắt làm thơ. Tôi mở mắt sửa thơ. Tôi nằm gối đầu trên tay học thuộc thơ. Quên cũng lắm, sai cũng nhiều. Bằng óc, óc tôi là giấy, là bút, là mực. Trí nhớ tôi là máy ghi âm. Thiếu chính xác vì thiếu sinh tố bồi dưỡng. Người ta cấm tôi dùng tay để viết. Tôi dùng tay để gãi ghẻ. Vừa gãi ghẻ vừa làm thơ. Cần gì phải giấy bút. Cần gì phải cảm hứng. Nỗi ngứa đã là cảm hứng tuyệt vời. Tôi làm thơ và tôi gãi ghẻ. Bởi vì trong thống khổ và cô đơn, tôi thèm thơ... Thơ của tôi chưa diễn tả nổi «cái lý tưởng và bổn phận» mà tôi đòi hỏi ở thi sĩ. Nhưng ít ra nó đã là bước đầu của người viết văn ồn ào, huênh hoang ngày xưa đã lớn lên từ đáy hầm phân khổ sai cực hình để biết hững hờ với thế sự hôm nay» Ngoại trừ những bạn văn nghệ rủ đi uống café, uống rượu đỏ, thường thì anh Duyên Anh hay đi với chị nhà. Có lần nhạc sĩ Phạm Duy từ Mỹ qua Paris anh gọi tôi cùng anh Mai Trung Ngọc chủ nhà sách Nam Á ra khu Latin uống café nghe Phạm Duy tán chuyện đời. Nhạc sĩ Phạm Duy và nhà văn Duyên Anh rất hợp khẩu, hai người kể những câu chuyện cười vỡ bụng. Ở những lần gặp khác tôi được anh Duyên Anh tặng băng nhạc Ru Đời Phù Ảo, đây là những ca khúc hay giai điệu nhẹ nhàng, lãng mạn, ca từ còn ẩn chứa những lời than về thiên đường xã hội chủ nghĩa và đất nước tạm dung. Băng nhạc gồm 12 ca khúc do anh viết và hai bài thơ được các bạn phổ. Vũ Trung Hiền phổ bài thơ Sài Gòn Ra Đường, Phạm Duy phổ Có Bao Giờ Em Hỏi, được đổi tựa từ bài thơ Bây Giờ Em Ơi. Ca từ «Em» ở trong bài thơ này không phải là bóng hồng ngoài đời, mà là ẩn dụ «chính khách hết thời». Đoạn cuối bài thơ: «Em, bao giờ em khóc Ngơ ngác vì chiêm bao Chưa kịp mê tam cúc Xuân hồng đã trôi mau Chưa kịp hôn môi tết Tháng giêng son phấn sầu Bây giờ em mới biết Em đã chết từ lâu.» (Paris 1984) Câu nhạc cuối da diết «Em đã chết từ lâu» được lập lại nghe mà xót xa! Mặc dù có một thời Duyên Anh dạy nhạc nhưng chỉ là dạy lý thuyết căn bản, và lớp căn bản tây ban cầm. Muốn viết được nhạc phải học thêm về sáng tác. Trong một bữa họp mặt vài người bạn văn nghệ, rượu đã thấm môi có người nửa đùa nói: «Duyên Anh chỉ có tài về văn chương, biết đàn hát chứ đâu biết sáng tác nhạc!». Câu nói đùa này làm anh tự ái, anh tìm mua một số sách, nhạc bày bán ở nhà sách Nam Á mang về nghiên cứu cách viết trên các bản nhạc. Sau khi sáng tác được một số bài anh có hỏi qua nhạc sĩ Lam Phương, nhạc sĩ Lam Phương khen và nói thêm về nghệ thuật sáng tác nhạc. Chất nhạc đã nằm sẵn trong máu của Duyên Anh ngay từ thuở nhỏ, anh lại có căn bản vững vàng về nhạc lý và có một thời dạy đàn guitare thuở còn trẻ. Lòng tự ái đã giúp anh quyết tâm, nó bùng cháy thúc đẩy nguồn nhạc trong anh dâng trào nên sáng tác rất nhiều. Trong số trăm ca khúc, có rất nhiều ca khúc mang chất bán cổ điển thính phòng điển hình là ca khúc Giọt Nước Mắt Quê Hương. 12 ca khúc tuyển âm hưởng bán cổ điển trong cuốn băng mang tựa đề Còn Thoáng Chiêm Bao đã được thực hiện trước ngày anh bị nạn nhưng chưa phổ biến. Những ca khúc: Rồi Em Ngủ Võng Đong Đưa, Vỗ Về, Phiền Nhung Gấm, Giọt Nước Mắt Theo Anh, Soi Trong Dòng Mắt, Sinh Nhật, Em Về, Hở Em?, Dặm Dài Xế Trưa, Sầu Cỏ Lá, Còn Thoáng

26 Chiêm Bao, Gọi Cô Đơn Đưa Tôi Về Cuối Lối, Tôi Nghe Mình Đã Hư Hao. Do ca sĩ Quỳnh Giao trình bày, Hòa âm : Bernard Gerard, Vĩ cầm : France Dubois, Hồ cầm : Hubert Warron, Phong cầm : Gilbert Roussel, Lục huyền cầm : Serge Eymard, Dương cầm : Bernart Gerard. Vào hè năm 1990 nhà văn Duyên Anh nhờ một người bạn mang đến tặng tôi tập hồi ký Trại Tập Trung được viết trước khi anh bị nạn. Tập sách bìa cứng, dày 485 trang do Xuân Thu ở Cali, Hoa Kỳ xuất bản năm Cầm tập hồi ký tôi vô cùng xúc động vì anh Duyên Anh bây giờ thể chất khác xưa phải ngồi xe lăn, ăn nói khó khăn. Anh phải cố gắng lắm mới tập cầm bút tay trái để viết lại và chữ vẫn đẹp! Mở trang đầu nhà văn Duyên Anh viết : «Có kẻ mê giang hồ đến độ thèm được lột da mình bọc ngoài chiếc vali của một lãng tử nào đó, khi mình chết. Để mãi mãi ngày tháng là những chuyến đi. Nếu ông ta tiên tri cuộc đời vẫn còn những tuyến đường Moscou- Goulag Sibérie, Suối Máu-Phước Long, Kà Tum- Bù gia mập, Long Giao, Sơn La, Trảng Lớn- Hà Nam Ninh, Gia Lai-Vĩnh Phú, Wachinton-Ha Noi, Hilton, Nhà Mình- Sở Công An, Đề lao Gia Định, Chí Hòa, di chúc của ông ta sẽ khác hẳn. Và nếu ông ta biết cuộc đời sẽ còn những chuyến xe lửa ngừng lại chẳng cần kéo còi, chẳng cần đợi đến ga nhỏ, lãng tử chạy xuống vũng trâu đầm, múc nước uống ừng ực ngang họng súng AK canh chừng, ông ta, chắc chắn sẽ chán chuyện lãng du. Ở thời đại tôi và trên quê hương tôi đã có những chuyến đi đã trùm lấp định nghĩa vô định và thống khổ mà tôi không sợ lộng ngôn bảo rằng đó là những chuyến đi định nghĩa làm người. Rồi sẽ có hồi ký của một tù nhân viết chính xác về chuyến đi Sài gòn-hànội được chào mừng bằng những trận mưa máu đá củ đậu, củ khoai Những kẻ chịu đựng hình phạt của thù hận một cách can đảm và kiên nhẫn, khinh thường hình phạt của thù hận, bước qua nó mà đi mà tồn tại để tặng nhân loại một định nghĩa làm người, nhân loại đã không nhìn thấy hình ảnh tuyệt vời của những kẻ ấy ở những cuốn sách viết về họ, nói về họ...» Tôi bỗng lạnh toát vì chợt nhớ cái đói trong tù mỗi người tù ăn 15 kg một tháng gồm có bắp, sắn lác, bobo, và một tuần được một chén cơm, một tháng 3 muỗng muối. Muôn đời cái đói vẫn là nỗi sợ hãi của con người, nhà cầm quyền Hà Nội dùng chính sách bao tử để trị dân, dùng cái đói để kiểm soát và sai khiến người tù. Tùy theo nghị lực và sức khỏe của mỗi tù nhân, những ai không chịu nổi cơn đói, cái đói sẽ hành hạ, miếng ăn sẽ làm họ trở nên mềm yếu! Trong trại tù Xuyên Mộc chia làm 3 khu: khu A nhốt những sĩ quan quân đội, khu B nhốt tù chính trị, khu C nhốt tù hình sự. Một đội khoảng 25 người, riêng đội hình sự được cài vào khu A và khu B. Nhà văn Duyên Anh ở khu B buồng 8 đội 29 «đội văn nghệ sĩ». Những tin đồn trong trại tập trung anh làm «antenne» khiến cho những người bạn tù ngần ngại! Năm 1992 dịp Tết cộng đồng VN ở Paris tôi gặp anh Châu Văn Lộc, người đã gia nhập Hướng Đạo VN từ năm Anh đã từng tham dự trận An Lộc và trận những lớn của Tiểu Đoàn 2 / 43 Sư Đoàn 18, đây là tiểu đoàn tự thủ cuối cùng của trận Long Khánh vào những ngày cuối tháng tư năm Anh Lộc ở VN mới qua Pháp sau 11 năm bị tù, anh có thời bị tù chung phòng với nhà văn Duyên Anh. Anh Châu Văn Lộc nói: «Hồi mới qua đây tôi có gặp anh Duyên Anh ngồi xe lăn ở nhà thờ giáo xứ Paris, thấy tôi anh ấy vui vẻ mời về nhà chơi, nhưng bận quá tôi hẹn anh ấy khi khác». Anh Lộc còn kể cho tôi hồi ở Xuyên Mộc năm 1979 tại phòng 8 khu B cùng chung với cụ Hồ Hữu Tường và ông Huỳnh Trung Lộc, Duyên Anh và anh Châu Văn Lộc, vì bản tính kiêu ngạo nên Duyên Anh không nói chuyện với hai cụ. Khi nghe tin đồn Duyên Anh làm ăng-ten tôi đã đến tận mặt hỏi Duyên Anh: «Anh đã từng viết Ngựa Chứng Trong Sân Trường, Người thày giáo không những giảng dạy cho học trò biết những kiến thức văn hóa, mà còn dạy cho họ lòng yêu nước như thế nào. Sao bây giờ anh lại

27 làm như vậy?» Duyên Anh trả lời : «Không phải như tin đồn, tôi không có làm như thế đâu anh Lộc ơi!» Anh Lộc kể tiếp: «Thời gian sau chúng tôi cùng biên chế sang phòng 5 ở chung một phòng tôi thấy Duyên Anh đi lao động bình thường, sống thầm lặng, ít tiếp xúc với mọi người.» Ở trong tù những khẩu hiệu: «học tập tốt, lao động tốt» sẽ được cứu xét mau chóng cho về đoàn tụ với gia đình là bài học thuộc lòng của tù nhân, đó chỉ là cái bánh vẽ của nhà cầm quyền Hà Nội! Lời mật ngọt đó đã quyến rũ được một số người nhẹ dạ cả tin muốn về sớm nên thường tỏ ra hăng say trong lao động biểu lộ sự tích cực trong «học tập» nhằm lấy điểm với cán bộ trại giam hy vọng được cứu xét. Sự tích cực đó cũng là để khỏa lấp nỗi sợ hãi bị CS trả thù sẽ bị tù lâu hơn. Con người và tác phẩm của Duyên Anh đã được nhiều người viết, về những cái hay cái đẹp trong tác phẩm, và cả những điều không tốt gây xôn xao dư luận. Chẳng hiểu vì sao có một sự trùng hợp nhà văn Nguyễn Thùy và nhà báo Hoài Châu cùng gởi cho tôi bài viết của nhà báo Đoàn Thạch Hãn, một người bạn tù của Duyên Anh trong đội văn nghệ sĩ kể lại khoảng thời khốn khổ đó. Tôi đọc thấy hay, nhận xét khách quan, những lời lẽ chân tình và tha thiết về một người bạn tù năm xưa nay đã mất. Xin phép tác giả được chép lại một đoạn đưa vào bài viết để hiểu thêm về chân dung của một nhà văn có nhiều tác phẩm viết về quê hương. : «.1960, ông được nhà văn Trúc Sĩ dẫn tới diện kiến nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, lúc đó đang làm chủ bút tờ Chỉ Đạo. Bài thơ Bà mẹ Tây Ninh sáng tác đầu tiên của ông được đăng trên tờ báo này. Một tháng sau, thêm truyện ngắn Hoa Thiên Lý, rồi Con sáo của em tôi tiếp tục có mặt trên tờ Chỉ Đạo, với lời giới thiệu bốc tới mây xanh của Nguyễn Mạnh Côn. Ngay lập tức, ông được người đọc đón nhận nồng nhiệt. Mỗi truyện được trả nhuận bút đồng, thời đó mua được hơn một cây vàng. Nguyễn Mạnh Côn tỏ ra rất ưu ái, tận tình nâng đỡ Duyên Anh để sáng tác của ông thường xuyên xuất hiện trên văn đàn. Và đây cũng là đầu mối oan nghiệt cho cả hai sau này. Đến năm 1961, khi ông Nguyễn Mạnh Côn rời tạp chí Chỉ Đạo thì Duyên Anh đã thành danh. Ông bắt đầu tung hoành làng báo Sài Gòn với nhiều bút danh khác nhau: Thương Sinh, Mõ Báo, Thập Nguyên, Vạn Tóc Mai, Nã Cẩu, Lệnh Hồ Xung, Độc Ngữ bằng một giọng văn châm chọc, hết sức cay độc. Thời đó, có hai nhà văn làm báo mà người ta sợ nhất, đó là Chu Tử với bút hiệu Kha Trấn Ác, trong mục Ao Thả Vịt và Duyên Anh. Nạn nhân của Duyên Anh không phải chỉ toàn là người xấu, mà nhiều khi chỉ là một ai đó bị ông ghét, cũng bị ông lôi lên mặt báo, đánh không thương tiếc! Sự kiêu căng, miệng lưỡi cay độc của ông đã gây dị ứng cho không ít người. Duyên Anh là người thẳng thắn, yêu, ghét rạch ròi. Đã quý mến ai rồi thì ông sống trọn tình, trọn nghĩa với người đó. Năm 1978, Duyên Anh gặp lại Nguyễn Mạnh Côn trong trại cải tạo. Nhà văn Nguyễn Mạnh Côn có thâm niên hơn 40 năm là đệ tử của ả phù dung nên sức khỏe rất yếu. Biến chứng tâm, sinh lý của một con người có quá trình phi yến thu lâm (đọc trại cho sang chữ phiện, thú lắm ) quá dài nên khi bị bắt buộc phải cai, cơ thể ông bị hành hạ liên tục. Do đó, sinh hoạt của ông rất bê bối, khiến đa số trại viên khác, dù có thông cảm đến mấy cũng không muốn gần gũi, chia sẻ, trong đó có Duyên Anh. Người khác chẳng sao, nhưng với Duyên Anh, Nguyễn Mạnh Côn cho rằng đó là bội bạc. Nhiều lần ông Côn nói với mọi người: Không có tôi thì đã không có

28 Duyên Anh! Tôi mà không biên tập nát ra thì truyện của nó ai mà thèm đọc. Và Duyên Anh đã phản ứng theo đúng tính cách kiêu ngạo của ông: Không có Côn Hít thì Duyên Anh vẫn là Duyên Anh. Ông Côn giỏi sao không biến một thằng cha căng chú kiết nào đó thành một văn tài mà phải đợi đến Duyên Anh? Từ đó, cả hai nhìn nhau tuy bằng mặt, mà không bằng lòng. Cũng chỉ có thế, ngoài ra Duyên Anh không có bất kỳ hành vi, thủ đoạn nào ác ý với Nguyễn Mạnh Côn, như lời đồn đại đầy ác ý của những kẻ thù ghét Duyên Anh sau này. Nhiều người biết rất rõ chuyện này, hiện vẫn còn sống Tác giả bài viết này còn nợ Duyên Anh một món nợ tinh thần. Trong một lần đau ốm, ngỡ mình sắp chết, Duyên Anh đã nhờ tôi học thuộc lòng một bài thơ của ông với lời căn dặn một ngày nào đó, gặp được vợ con của ông thì đọc cho họ nghe. Ông đọc cho tôi, Đằng Giao và Dương Đức Dũng cùng nghe, bắt học thuộc lòng và sau đó xé mất. Đó là bài thơ có tựa đề là Đảng tử sám hối. Trong bài có những câu tự vấn lương tâm và thói kiêu ngạo một thời: Ta dại khờ múa hát giữa ngàn hoa Ca bóng tối cứ ngỡ là ánh sáng Ta ru hồn ta tháng ngày bịnh hoạn Với kiêu sa dị hợm chút tài hèn Hỡi cánh diều căng gió vút bay lên Ngạo nghễ lắm mà quên dây sắp đứt Mũi tên oan phóng đi không thương tiếc Lưỡi gươm đau chém nát đóa môi cười Anh nhìn anh xưa thế đó em ơi Những đổ vỡ của một thời lang bạt. Tôi tin là Duyên Anh thật sự sám hối. Hy vọng ở bất cứ nơi nào trên thế giới này chị Phương (vợ của Duyên Anh) và các cháu cũng như những ai một thời là bằng hữu của ông, hoặc từng thù ghét ông sẽ đọc được những câu thơ này bằng tấm lòng độ lượng đối với một người đã không còn trên cõi đời này.» Đoàn Thạch Hãn Sau ngày nhà văn Duyên Anh gặp nạn vài năm, anh lại tặng tôi thi phẩm mới là: Em, Tôi, Sài Gòn Và Paris, tủ sách Người Dân ở Cali xuất bản. Trang viết về thi sĩ : «Nói thật, thơ mà đề giá bán là hết hay rồi. Thơ óng ả mấy, kênh kiệu mấy, kiêu sa mấy vẫn hết. Khi thơ dính vào nợ áo cơm, nó bị trả đắt hơn cả hình hài của thi sĩ»! Bài Lưu Đày (tặng Kiều Vĩnh Phúc, bạn tôi) «Ta đến đây đành ở lại đây Cuối đời thấm thía kiếp lưu đày Nghẹn ngào sách vở cùng trang mục Chữ nghĩa vèo bay như lá bay Những tưởng tài năng vần thế cuộc Nào ngờ tai họa giáng kê vai Đường người chó sói nhe răng nhọn Nghe buốt đau thương cả đế giày Vàng thau lẫn lộn phiền than lửa Ngọc đá ganh đua rộn dũa mài.» Vào tháng 9 năm 1998 nhà thơ Như Hoa Lê Quang Sinh, nhà thơ Nguyễn Phúc Sông Hương và một số thi hữu ở Sacramento đã tổ chức đại hội Các Nhà Thơ Hải Ngoại có mời tôi sang nói chuyện về đề tài: Tính Nhạc Trong Thơ. Nhân dịp đó tôi đi thăm các văn hữu ở Cali, trước ngày trở về Paris các văn nghệ sĩ San José đã tổ chức

29 họp mặt thân hữu tiễn tôi: Nhà thơ Hà Thượng Nhân, Nhà thơ Dương Huệ Anh, Nhà thơ Diên Nghị, Nhà thơ Duy Năng, Nhà thơ Song Nhị, Nhà thơ Song Linh, Nhà thơ Nguyên Phương, Nhà thơ Dạ Chi, Nhà thơ Yên Bình, Nhà thơ Hà Ngọc Lân, Nhà thơ Phạm Ngọc, Nhà văn Nhật Thịnh, Nhạc sĩ Lê Mộng Bảo, nhạc sĩ Phạm Đức Huyến, Nhà báo Tô Ngọc, Nữ sĩ Trùng Quang, Nữ sĩ Đinh Việt Liên, nhà văn nữ Khuê Dung, Nhà thơ nữ Huệ Thu, Nhà thơ nữ Hoàng Xuyên Anh, Nhà thơ nữ Phan Ngọc An, Nhà thơ nữ Sương Mai v v Chiều hôm đó mỗi người hiện diện đều đọc thơ văn và kể chuyện. Nói về Chân Thiên Mỹ trong sáng tạo của giới nghệ sĩ, thi sĩ Hà Thượng Nhân đã kể một câu chuyện cho các bạn cùng nghe về cái tài và cái ngông của nhà văn Duyên Anh. Thi sĩ Hà Thượng Nhân nói: Đã lâu lắm trước năm 75 có một lần Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị tổ chức một cuộc họp báo mời các Chủ Báo, trong đó có một số báo quy tụ những cây viết chuyên đánh phá. Không biết ban tổ chức sắp đặt chỗ thế nào mà xếp nhà văn Duyên Anh ngồi cạnh Trung Tướng Tổng Cục Trưởng Trần Văn Trung. Với bản tính ngông và bướng, bất cần thiên hạ của Duyên Anh làm cho những sĩ quan trong ban tổ chức vừa sợ vừa lo lắng. Ký giả Lô Răng Trung tá Phan Lạc Phúc phải chạy đến tôi cầu viện. Tôi nói: «Anh và tôi đồng cấp thì nói cũng như nhau!», Ký giả Lô Răng: «Không, anh phải đến thì mới êm được.». Khi tôi đến gặp Duyên Anh, tôi nói: «Anh là nhà văn tức là ngưòi sáng tạo những giá trị Chân Thiện Mỹ, như anh biết kẻ cướp hay giang hồ chúng cũng có luật riêng và cũng biết có người trên kẻ dưới. Chúng ta là người cầm bút không thể nào sử sự thua kẻ giang hồ?» Nhà văn Duyên Anh vui vẻ đến chỗ ngồi khác, nhường lại chỗ cho ông Trần Viết Sơn. Nghe câu chuyện tôi nhớ lại chuyện mà ký giả Đặng Văn Nhâm đã có lần kể cho tôi nghe những chuyện trong đời làm báo của anh trước năm 1975 ở Sài Gòn, anh cũng có những lần chạm trán tóe lửa với nhà văn Duyên Anh, nhưng sau đó cả hai đã hóa giải những bất đồng. Nhà văn Duyên Anh những năm cuối đời có tuổi, yếu đuối bệnh tật, đi đứng nói năng khó khăn nhưng vẫn không nghĩ cho bản thân mình mà vẫn hăng say sáng tác. Anh viết bằng tay trái, sáng tác thêm nhiều tác phẩm cho đời xứng đáng là một nhà văn lớn của Việt Nam. Vào giữa tháng 11 năm 2016 tôi có hẹn với các bạn ở một nhà hàng ở khu Á Châu là bác sĩ Nguyễn Bá Linh, giáo sư Nguyễn Ngọc Chân và giáo sư Nguyễn Văn Sâm ở Cali qua Paris nghiên cứu thêm về lãnh vực chuyên môn ở Viện Viễn Đông Bác Cổ, đồng thời được chúng tôi mời diễn thuyết đề tài Chữ Nôm do Câu Lạc Bộ Văn Hóa VN Paris tổ chức. Tình cờ gặp người con dâu út của nhà văn Duyên Anh, cháu Vân Phương đến chào chúng tôi và mời tôi và giáo sư Nguyễn Ngọc Chân đến nhà. Vào ngày 1 tháng 12 năm 2016 tôi và anh Nguyễn Ngọc Chân được người con út của nhà văn Duyên Anh là cháu Vũ Nguyễn Kim Sơn. Cháu Vũ Nguyễn Kim Sơn lái xe đến gare Bourg La Reine đón về nhà ở Robinson ngoại ô Paris. Cháu Vân Phương, vợ của Kim Sơn, đã làm cơm sẵn chờ chúng tôi đến dùng cơm. Trong câu chuyện với vợ chồng Kim Sơn chúng tôi nói chuyện về nhà văn Duyên Anh và cho hai cháu biết tôi đang viết cuốn Con Đường Văn Nghệ ghi lại những tâm tình về những cuộc gặp gỡ các văn nghệ sĩ từ trước năm 1975 đến nay, trong đó có nhà văn Duyên Anh. Trong câu chuyện chúng tôi tránh những điểm nhạy cảm qua tin đồn. Nhưng thật không ngờ hai cháu Kim Sơn và Vân Phương rất thông thoáng, cởi mở, lập lại những câu nói, những tin đồn về Bố một cách tự nhiên, thoải mái. Có lẽ anh chị còn quá trẻ, lại sống ở Pháp đã lâu nên hấp thụ được văn hóa của người Pháp là tôn trọng sự suy nghĩ của người khác. Vũ Nguyễn Kim Sơn người mà nhà văn Duyên Anh kỳ vọng sẽ tiếp nối chí hướng anh làm văn sĩ nên đã đặt bút hiệu là Thiên Mã, nhưng Kim Sơn chán sự tranh đua nên lánh xa chốn xôn xao làm khuấy động

30 tâm hồn. Kim Sơn cho biết đã học được ở bố rất nhiều về tính kiên nhẫn, và cách sống «biết an lạc». Những năm cuối đời nhà văn Duyên Anh sống «rất thiền», lòng không thù hận, anh dành những ngày tháng còn lại cho sáng tác. Anh nói với Kim Sơn: «Bố ra đi không mang theo gì, để lại tất cả những tác phẩm tâm huyết này cho con. Đây là món quà qúy báu nhất của bố». Vợ chồng Vũ Nguyễn Kim Sơn rất trân trọng tặng phẩm đó, nhưng vì qúy mến chúng tôi nên đã đưa vào xem tủ sách gồm những bản thảo truyện ngắn, tiểu thuyết, nhạc phẩm được anh viết bằng tay trái xếp thành tập ngăn nắp và chưa hề phổ biến. Chúng tôi chỉ nhìn tủ sách mà không mở bản thảo ra xem vì trân trọng người đã khuất. Tôi quý nhà văn Duyên Anh ngoài tài năng còn ở một nghị lực phi thường. Bản tính nghệ sĩ trong anh quá mãnh liệt, tâm hồn anh là một khoảng rộng chứa sự bao dung và tha thứ. Anh chọn cho mình một con đường riêng để đi, những điều anh nói phát ra từ con tim mà người đời chưa quen hay không muốn nghe về triết lý sống. Đó là quyền sống và sự tự do nên anh đã dung nạp cả thiên đường lẫn địa ngục mà trên đời chưa có người nào đặt chân đến! Đỗ Bình Paris Một số tác phẩm của nhà văn Duyên Anh

31 GIÓ ĐÊM Chúng sinh đầy tội lỗi Xin soi đời tăm tối Phá tan màn vô minh Bè Từ cứu độ chúng sinh Mùa Xuân nhân thế sáng hình Thế Tôn Đêm trường tịch mịch Đêm trường mênh mang Hồn thơ ai ngại ngờ Đời dâu biển tân toan Phân vân lòng Vũ Trụ Ngỡ ngàng bước Thời Gian Tám nẻo nhân sinh đâu bờ Đại Giác Mù trời sương chắn vọng bến An Nhiên Miên man giọt ưu phiền Lá xậm mầu ảo não! Hồn bâng khuâng giữa chợ đời điên đảo Chân lênh đênh trên tám ngả u hoài Lòng khẩn thành con Kính Lạy Như Lai Bậc Đại Giác xin cứu đời khổ ải Đêm trường tịch mịch Đêm trường mênh mang Nghe như trong tiềm thức Chuông thanh thoát ngân vang Nghe như trong trời đất Hương Đạo, Thơ Trải Vàng Gió đêm mênh mang Lòng đêm thênh thang, Nghe âm hưởng hồi Kinh Đại Nguyện Diệu Pháp Liên Hoa lãng đãng hương trời Kính lạy Đức Như Lai Đấng Từ Bi cứu khổ Lòng con nghe Hoa Nở Bát Ngát Tiếng Kinh Cầu Tuệ Nga Ảnh: Phạm Văn Tuấn

32 NON THIÊNG YÊN TỬ Bút ký - Phạm Bá & Ỷ Nguyên Trong những lần về thăm miền Bắc trước đây, chúng tôi đã có ý định đi thăm chùa Yên Tử, nhưng có lẽ cơ duyên chưa tới nên kỳ này sau hơn ba ngày lưu lại thành phố Hạ Long thăm viếng họ hàng cùng là về quê tảo mộ, chúng tôi xếp đặt chương trình đi thăm Non Thiêng Yên Tử trên đường về Hải Phòng. Chúng tôi đã đọc nhiều tài liệu nói về vùng Đất Tổ Phật Giáo Việt Nam nên sự tò mò đã thúc đẩy chúng tôi phải đi đến tận nơi hầu thoả mãn ước mơ tâm linh của mình. Tài liệu tham khảo cho biết Trúc Lâm Yên Tử thuộc địa phận xã Tượng Phật Hoàng ngồi thiền trong Tháp Huệ Quang Nơi thờ Xá Lợi của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, được trùng tu năm 1643 Thược Yên Công, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Hầu hết các Chùa, Am, Tháp đều nằm trong khu rừng quốc gia Yên Tử, có hệ sinh thái đa dạng phong phú của rừng nhiệt đới Á châu. Núi Yên Tử là một đỉnh cao khoảng hơn 1,000m trong dẫy núi Đông Triều vùng Tây Bắc. Yên Tử có nhiều tên gọi khác nhau: Tượng Sơn, Bạch vân Sơn, Phù Vân Sơn, Linh Sơn Danh sơn Yên Tử đã gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, một vị vua hiền từ đạo đức, sau hai lần đánh đuổi được giặc Nguyên và Mông Cổ xây dựng lại đất nước an bình. Về sau Ngài nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông và xuất gia về Yên Tử tu hành, lấy pháp hiệu là Trúc Lâm Đại Đầu Đà, pháp danh là Điều Ngự Giác Hoàng. Ngài sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm (Tam Tổ: Đệ Nhất Tổ Trần Nhân Tông, Đệ Nhị Tổ Pháp Loa, Đệ Tam Tổ Huyền Quang). Từ đó Yên Tử trở thành Trung Tâm Phật Giáo của quốc gia Đại Việt. Với tinh thần nhập thế và yêu nước, giáo lý Thiền Phái Trúc Lâm của ngài trở thành nền tảng tư tưởng dựng nước và giữ nước đời Trần có ảnh hưởng lớn lao đến Phật Giáo Việt Nam sau này. Do đó, chùa Yên Tử không chỉ là một di tích lịch sử từ thời kỳ xây dựng đất nước của các vị vua chúa xưa kia, mà bây giờ còn được coi là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam. Hàng năm vào những ngày hội lớn, nhất là vào mùa lễ Hội Yên Tử, từ mùng 10 tháng Giêng AL, chùa Yên Tử đã tiếp đón không biết bao nhiêu Phật tử và du khách từ khắp mọi miền đất nước về chiêm bái.

33 Để chuẩn bị cho cuộc thăm viếng đặc biệt này, chúng tôi dậy thực sớm sáng ngày hôm đó. Cũng may thời tiết mát mẻ, bầu trời quang đãng dễ chịu có lẽ nhờ trận mưa tầm tã ngày hôm trước nên chúng tôi hy vọng cuộc leo núi sẽ thoải mái và thích thú lắm đây. Cùng đi với chúng tôi có chú em họ của nhà tôi và một người cháu là tài xế. Chúng tôi cảm thấy yên tâm hơn vì hướng dẫn viên và tài xế đều là người nhà và hiện tại họ đều sinh sống tại tỉnh Quảng Ninh. Từ thành phố Hạ Long, sau khoảng hơn một giờ lái xe chúng tôi đã tới địa phận thành phố Uông Bí. Mọi người có mặt tại chùa Trình (chùa Bí Thượng) trải qua một đoạn đường bậc thang dài và dốc. Chùa Trình nằm trong quần thể núi Yên Tử, trên một vùng rừng núi bao la dưới những hàng cây cổ thụ rợp xanh bóng mát. Trước tiên, chúng tôi phải vào trình bái Long Thần Hộ Pháp tại đây để có một niềm tin vững chắc cho cuộc hành hương được bình an. Có lẽ sự tin tưởng này đã là một tập quán tín ngưỡng không thể thay đổi của Phật Tử. Rời khu chùa Trình, chúng tôi lái xe thẳng tới khu du lịch chùa Yên Tử. Vợ chồng tôi và chú em theo lộ trình tà tà qua các khu bán đồ lưu niệm, tôi chưa muốn mua sắm gì lúc này vì nghe nói còn phải leo núi cao, mang nặng chẳng nên. Thời gian này đang trong mùa Lễ Phật Đản nên cờ xí treo giăng khắp nơi. Vào giờ trưa thấy bụng hơi cồn cào, gặp một bà bán bắp nếp luộc bên đường, tôi sà vào mua ít cái vừa đi vừa gặm cho chắc bụng. Nhìn sang hai bên đường thấy có nhiều quán ăn: Cơm-Bún-Phở-Nhà Trọ bình dân nhưng chúng tôi chả dám, vẫn vướng cái tật ngại ăn quán lạ bên đường. Tại đây cũng có xe ôm hoặc ô tô điện đưa đón du khách lên ga cáp treo, nhưng chúng tôi lại muốn thử đôi chân và sức khoẻ của mình nên cứ thủng thỉnh theo lộ trình tiến bước. Được biết, du khách sẽ phải đi tới hai lần cáp treo cộng thêm những đoạn đường leo bậc thang đá ngoằn ngoèo mới lên tới chùa Đồng ở chót vót trên đỉnh núi. Thiết nghĩ thiên hạ lên được tới chùa Đồng chắc hẳn mình cũng phải lên tới nơi đó được chứ! Đợi xem sự thử thách của chúng tôi sẽ chính xác đến cỡ nào? Tôi tin là mình sẽ hoàn thành cuộc leo núi này. Đứng trước quầy bán vé, tôi thấy một bảng ghi giá vé, phía dưới có hàng chữ: Quí vị du khách trên 65 tuổi xin xuất trình thẻ CMND. Tôi tò mò hỏi cô bán vé thế nghĩa là sao và được cô cho biết những ai trên 65 tuổi được miễn mua vé. Ồ, hay quá! Thế là hai chúng tôi khỏi phải trả tiền vé. Tiết kiệm được 400 ngàn đồng VN ($20US) để dành vào việc làm từ thiện coi bộ có lý. Riêng chú em phải chi ra 200 ngàn. À ra thế, có nhiều người lớn tuổi sức khoẻ không bảo đảm, có thể không leo lên được tới chùa Đồng ở trên đỉnh cao do đó không cần phải mua vé. Hai chúng tôi nhìn nhau mỉm cười thông cảm, thế ra mình đã lão rồi sao? Từ hôm rời Mỹ quốc, tôi luôn luôn cầu nguyện cho mình đừng gặp trở ngại nắng gió bất thường mà ngã qụy thì hỏng hết chương trình du lịch, vì thế mấy ngày ở Hà Nội, Thanh Hóa, rồi Hải Phòng và Quảng Ninh chúng tôi rất dè dặt trong việc ăn uống và giờ giấc ngủ nghê cũng phải theo đúng mức vì rằng thời tiết nóng nực ở Việt Nam đôi khi cũng làm chúng tôi chẳng cảm thấy dễ chịu chút nào. Lúc xưa vì chưa có cáp treo, khách hành hương phải leo núi bằng chính đôi chân của mình cả ngày trời qua hàng ngàn bậc đá, đường rừng gập ghềnh dài tới 6km rất vất vả cam go, khiến đôi khi họ phải ngủ trọ ở dọc đường để tiếp nối cuộc hành trình vào sáng hôm sau. Ngày nay đã có tới hai đường cáp treo để thu ngắn những đoạn đường leo núi, giúp du khách dễ dàng trong việc tham quan núi Yên Tử. Và rồi chẳng mấy chốc

34 chúng tôi đã leo tới nhà ga cáp treo thứ nhất (cáp treo Hoàng Long). Ngồi trong lồng kính của cáp treo, nhìn xuống thung lũng sâu thăm thẳm bên dưới, chúng tôi có cảm giác lâng lâng trước cảnh núi rừng hùng vĩ với những lớp mây trắng bàng bạc lơ lửng bềnh bồng phủ kín không gian. Tự nhiên tôi cảm thấy mình quá nhỏ bé và tầm thường trước vũ trụ bao la của đất trời trên đỉnh thiêng của núi rừng Yên Tử. Cứ thế giây cáp treo đưa chúng tôi lên cao dần. Trong tầm mắt chúng tôi toàn cảnh rừng núi trùng trùng, điệp điệp phủ đầy cây Tùng, cây Đại cao xanh, với rừng trúc xanh rì đan mắc chằng chịt vào nhau trông thực lạ mắt. Trúc mọc khắp nơi nơi, do đó chùa Yên Tử còn được gọi là Trúc Lâm Yên Tử. Xa xa, ngôi Thiền Viện và nhiều Am Thất ẩn hiện trong rừng cây trông như những bức tranh linh động, thật đẹp. Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử là nơi xưa kia đức vua Trần Nhân Tông tu hành, truyền kinh, giảng đạo. Rất tiếc chúng tôi không thể viếng thăm được vì đường cáp không dừng gần nơi đấy, phải đi bằng đường mòn khác, vả lại chúng tôi cũng không có đủ thời giờ để đi bộ đến nơi. So ra cáp treo tại núi Yên Tử có vẻ văn minh hơn đường cáp treo dài nhất nước Mỹ có tên Sandia Peek tại thành phố Albuquerque, New Mexico nơi chúng tôi sinh sống trước đây. Hai tuyến cáp treo Hoàng Long và Bạch Long được kiến trúc rất hiện đại đã tạo cho hệ thống cáp treo Yên Tử có môt vẻ đẹp riêng biệt, mang đậm nét văn hóa Việt giữa núi rừng Yên Tử kỳ vĩ và được coi là một hệ thống cáp treo độc đáo nhất Viêt Nam bây giờ. Rời cáp treo thứ nhất, chúng tôi bắt đầu leo lên từng bực thang đá nhẵn, đều đặn xếp bậc thực công phu thành từng hàng, từng lớp. Tôi phân vân trong bụng và tự hỏi làm sao lúc xưa người ta có thể đưa được những tảng đá to như thế ấy từ dưới đất lên trên núi cao để xây dựng công trình như thể đúc khuôn? Nghĩ đến, mình phải cảm phục và biết ơn những bàn tay và khối óc của người xưa đã tạo dựng ra cảnh trí lịch sử này. Từng bước, từng bước chúng tôi cứ thế mà leo lên. Tôi vừa đi vừa lâm râm niệm Phật để làm ngắn lại đường dài. Quả thực tôi không dám nhìn lên vì bậc thang quá cao và quá dài lại trơn tuột vì nước mưa còn đọng trên mặt đá, nên chỉ dám nhìn xuống chân mình theo từng bước, một cách thận trọng. Một tay cầm dù, tay kia cầm cây gậy tre mà nhân viên cáp treo đưa cho tôi khi bước ra khỏi ga cáp. Vì vậy cây gậy này đã giúp tôi lấy thăng bằng trong từng bước leo lên. Leo lên khoảng chừng vài chục bậc đá tôi lại dừng chân để thở, rồi lại tiếp tục leo thêm. Chưa gì mà tôi đã mệt khướt. Mệt thì mệt nhưng trong lòng vẫn cảm thấy nôn nóng và hăng say chưa thối chí khiến đôi chân vẫn thoăn thoắt bước đều. Tôi vẫn còn muốn ngắm nhìn cảnh sắc thiên nhiên của núi rừng trong làn mây trắng mong manh. Ôi! thực tuyệt vời, tôi dừng lại đôi phút, vươn hai tay lên khỏi đầu khoan khoái đón nhận làn không khí trong lành như đang len vào lồng ngực, tôi nhắm mắt để tận hưởng một không gian tĩnh lặng huyền ảo! Còn gì khoái cảm cho bằng khi quanh tôi chỉ nghe tiếng chim ca ríu rít, gió rừng xào xạc hòa cùng tiếng mõ lời kinh đều đều từ các Am Thất vọng ra. Ông xã tôi và chú em đi trước quá xa, đứng lại đợi tôi. Hôm nay là ngày thường và chưa đến ngày Lễ Phật Đản nên du khách đi hành hương không đông lắm. Hầu hết họ đến từ các tỉnh xa như Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Nha Trang và cả Saigòn. Thấy chúng tôi lớn tuổi mà còn leo núi khoẻ khoắn họ rất ngạc nhiên ngợi khen làm tôi lên tinh thần và phấn khởi leo tiếp, leo tiếp...

35 Theo lộ trình chúng tôi dừng lại chiêm bái Tổ Huệ Quang Kim Tháp nằm trong Lăng Quy Đức được xây dựng từ năm 1309 sau khi Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông viên tịch và đây chính là nơi lưu giữ xá lợi của Ngài. Trong tháp thờ tượng Phật Hoàng ngồi thiền. Đế tháp được trang trí hoa văn sóng nước và đài sen khắc trạm tinh tế, phía sau là đường đi lát gạch Hoa Cúc mang đậm nét văn hóa và lịch sử đời Trần. Xung quanh Tháp Tổ là những cây Đại, cây Tùng cổ kính cùng nhiều ngôi Tháp, ngôi Mộ của các thiền sư đã tu hành ở Yên Tử, nên khu vực này còn được gọi là Vườn Tháp Huệ Quang. Từ đây chúng tôi sẽ phải leo lên một đoạn bậc đá rất cao và rất dài để tới ngôi cổ tự Hoa Yên. Chú em và nhà tôi sợ tôi leo lên không nổi, đứng đợi ở phía trên nhìn xuống ái ngại. Mô Phật! Tôi vừa niệm Phật vừa ra dấu cho hai người chứng tỏ sức khoẻ cuả tôi coi như OK và tôi có thể tiếp nối cuộc hành trình mới vừa bắt đầu. Cùng bước lên bậc thang với tôi lúc ấy có nhiều khách hành hương trông có vẻ ít tuổi hơn tôi nhiều nhưng họ cũng phải dừng lại nhiều đoạn để nghỉ lấy sức. Có điều tôi nhận thấy mọi người đều lộ vẻ an vui tự tại. Nhiều người đem theo hoa quả và đèn nhang lễ Phật. Họ không dùng đến gậy như tôi mà vẫn thong thả bước lên bậc thang đá vững vàng, đúng là tuổi trẻ có khác. Và rồi chúng tôi đã lên tới chùa Hoa Yên sau một đoạn dài leo dốc bậc đá thực chật vật. Chùa này được coi là ngôi chùa chính trong quần thể chùa Yên Tử và còn có tên là chùa Cả, ngoài ra vì nằm trên độ cao của núi Yên Tử nên luôn luôn có mây mù che phủ do đó chùa còn có tên là Chùa Phù Vân hay Chùa Vân Yên. Trước cửa chùa có ba cây đại thụ trên 700 năm tuổi thọ do Tam Tổ Trúc Lâm vun trồng. Tôi ghé vào chùa khấn vái và cúng dường trong khi ông xã tôi lo chụp hình cảnh núi rừng cùng những tàng cây cổ thụ. Hôm đó, vì đến đây đã xế trưa nên chúng tôi không có đủ thời giờ để đi thăm viếng và chiêm bái hết mọi ngôi chùa nằm rải rác ở nhiều nơi trên núi Yên Tử như: Chùa Cẩm Thực, Chùa Bảo Sái, chùa Một Mái, chùa Giải Oan, chùa Suối Tắm, chùa Vân Tiên, tháp Vọng Tiên Cung cùng những thắng cảnh như Tượng Đá An Kỳ Sinh, Thác Vàng, Thác Bạc, Đường Tùng Cổ, khu Mai Vàng Yên Tử và đặc biệt là suối Giải Oan. Riêng đạo tràng Giải Oan và suối Giải Oan đã ghi lại một di tích lịch sử của đời vua Trần Nhân Tông khi Ngài từ bỏ ngai vàng tìm về cửa Phật trên Núi Yên Tử. Được nghe kể, các cung tần mỹ nữ của ngài đã ngăn cản và khuyên Ngài trở về cung điện, nhưng lời thỉnh cầu không được toại nguyện, họ bèn rủ nhau nhẩy xuống giòng suối này tự vẫn. Nhà vua cảm thương chân tình của họ mà cho lập một ngôi chùa siêu độ để giải oan. Từ đó ngôi chùa và con suối này được mang tên Giải Oan Rất tiếc, chúng tôi không có đủ thời gian để ghé thăm hai di tích lịch sử này. Hơn nữa, chân thì mỏi mà đường còn xa chúng tôi phải cố gắng leo thêm nhiều đoạn có bậc đá dốc chênh vênh để tới ga cáp treo thứ nhì (cáp treo Bạch Long) dẫn lên khu an vị tôn tượng Phật Hoàng và Chùa Đồng. Khiếp đảm quá! càng leo lên càng thấy đường xa vòi vọi. Nhìn lên thấy tượng Phật thật là gần, nhưng leo mãi chẳng tới nơi. Sợ quá, tôi như muốn bỏ cuộc trong khi những du khách từ chùa Đồng đi xuống khuyến

36 thích chúng tôi cố lên cố lên Gần tới nơi rồi Ráng đi bu ơi, thầy đâu sao không dìu bu đi cùng? Đang mệt lử, bước đi không nổi, nhưng bất chợt nghe mấy cô cậu trẻ tuổi nói giọng Bắc sau này hỏi han như vậy, tôi phì cười quay sang cám ơn họ. Lâu rồi mới được nghe lại hai tiếng thầy bu sao mà thấy lạ thế, làm tôi nhớ lại thời kỳ thơ ấu của mình khi còn ở trong làng Đông Sơn, Thanh Hóa. Tôi đoán nguyên quán của các em phải là Nam Định hay Thanh Hoá gì đó. Biết tôi là người Bắc, họ xúm xít hỏi thăm, rõ là chân tình. Thoáng chốc tôi cảm thấy vui vui. Một kỷ niệm để nhớ mãi. Tôi theo chân khách hành hương len lỏi leo qua các kẽ đá và bậc thang khấp khểnh, trơn ướt. Từng bước, từng bước chậm chạp mà leo. Lâu lâu đứng lại thở hổn hển tưởng như muốn đứt cả hơi. Lúc này tôi hơi choáng váng vì cảm thấy sức khoẻ của mình có vẻ như xuống cấp đột ngột. Tôi dừng lại dưới một gốc cây có bóng mát, hít vào thật sâu và thở ra thật dài. Làm được vài động tác hô hấp như thế tôi thấy khỏe khoắn rồi lại tiếp tục dấn bước leo lên. Càng lên cao không khí càng thoáng đãng, đâu đâu cũng thấy toàn một mầu xanh lục thực đẹp mắt. Từng cụm hoa vàng, hoa tím dại mọc chen chúc cùng cây cỏ hai bên lối đi. Những gốc cây to bằng ba bốn người ôm trổ những cành lá tua tủa như những cánh tay khổng lồ vươn ra mời mọc. Không gian tĩnh lặng lạ thường như đưa hồn người vào cõi mộng. Lòng lâng lâng khó tả. Đúng là tôi đang ở chốn tiên bồng. Một cảnh sắc thiên nhiên quá ư là tuyệt mỹ! Xa xa nghe như có tiếng nước chẩy róc rách đều đều. Đi được một quãng, gặp một con suối nhỏ từ triền dốc cao đổ xuống, tôi ghé vào vục nước lên hai bàn tay vã lên mặt. Nước suối trong vắt mát lạnh như đánh thức tôi trở về thực tại. Trên đường đi vài ba cô bé đứng mời chào du khách mua đồ lưu niệm và postal card in những thắng cảnh của núi rừng Yên Tử. Tôi cũng chẳng ngần ngại mua giúp các cô vài tấm. Giá một tấm là 10,000 đồng VN tính ra là 50 cents. Thấy họ buôn bán chẳng biết lời lãi được bao nhiêu mà phải vất và leo núi gian nan mời chào khách hàng rõ thực tội nghiệp. Tôi nghĩ, giúp được người nghèo như mua hàng cho mấy cô bé này chẳng khác như mình đã làm được một việc thiện hoặc như cúng dường tam bảo. Vừa leo núi vừa ngước nhìn lên phía trên, tôi thấy thấp thoáng ngôi tượng Phật Hoàng ẩn hiện sau màn sương mỏng. Tấm bảng chỉ đường đến ga cáp treo thứ hai đã hiện ra trước mắt. Tôi mừng ghê gớm. Đúng lúc này tôi gặp một toán du khách từ cáp treo bước xuống. Trong đó có một hai người lớn tuổi. Bạo dạn tôi ngỏ lời hỏi thăm và được biết có cụ đã trên 80. Tôi ngạc nhiên và rất thán phục. Vậy thì có lý do gì khiến tôi phải chùn bước nhỉ? Các cụ bảo tôi ráng niệm Phật đi. Phật sẽ hộ trì là đi tới nơi thôi! Thế là chúng tôi đã đến được ga cáp treo thứ hai và lên tới khu địa linh Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Ôi! đúng là cảnh Phật non Tiên! Chúng tôi mê mẩn loanh quanh tại khu vực này để chụp hình và thưởng ngoạn cảnh sắc thiên nhiên. Tượng Phật được tạc bằng đá cẩm thạch và được trang nghiêm an vị trên một diện tích khá lớn giữa núi rừng hùng vĩ. Thời tiết trên cao thay đổi liên tục trong ngày, lúc nắng lúc mưa, hầu như luôn luôn có mây lẫn sương mù sà xuống, khiến mầu sắc ngôi tôn tượng cũng thay đổi theo thời tiết - lúc tỏa sáng óng ánh dưới tia nắng soi, lúc mờ mờ, ẩn hiện sau màn sương mờ ảo trông thực huyền diệu. Tôi suýt xoa Bảo Tượng Phật Hoàng khen ngợi và chuyện trò cùng các bạn đồng hành, đồng đạo hiện đang đứng chiêm ngưỡng tượng Phật như tôi. Thực khó mà diễn tả nổi cảm xúc của tôi lúc đó. Hình như tôi đang ngây ngất trước hiện tượng diệu kỳ của cảnh sắc và vật thể khác lạ như chưa từng thấy trong đời mình. Tôi chắp tay khấn lạy trước Phật đài như cảm nhận được sự linh thiêng nơi đất Phật.

37 Giờ thì chúng tôi phải theo đường chỉ dẫn để lên Chùa Đồng. Đường bậc thang đá từ khu an vị tượng Phật Hoàng tới Chùa Đồng không xa lắm nhưng rất dốc và quanh co khó đi. Càng lên cao sương xuống càng dầy và nặng hạt như mưa. Tôi luôn luôn phải che dù và chiếc gậy trong tay đã giúp tôi đi những bước vững vàng. Tôi có cảm tưởng như mình là một đứa trẻ con đang tập tễnh bước những bước đi đầu đời. Bây giờ nhìn lại những bức hình này thấy mà tức cười hết chỗ nói nào là mũ, là khăn, nào là gậy, lom khom lần mò trên sườn núi trông như một lão bà trong phim kiếm hiệp. Cứ thế tôi chống gậy leo trên những bậc thang đá trơn ướt và rất thận trọng trong từng bước đi. Thế mới biết ở nhà nhất mẹ nhì con, ra đường lắm kẻ còn ròn hơn ta. Tôi như muốn chào thua vì thấy hụt hơi và hai đầu gối mỏi rã rời. Thực ra tôi vốn là một người năng động, tập thể dục hàng ngày, vậy mà lúc này đây sao tôi lại trở nên đuối sức đến thế. Hóa ra, tuổi đời của tôi đâu còn trẻ nữa. Phải chấp nhận thôi. Rồi chợt nghĩ tới câu nói của Nguyễn Bá Học: Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông. Tôi tự an ủi: Chắc mình không thuộc vào hạng người ngại núi e sông? Cứ thế tôi vừa leo lên vừa hít vào thở ra liên tục. Một cặp vợ chồng trẻ người Nam Định mà chúng tôi gặp từ dưới chân núi, giờ đây đưa tôi chai nước suối và nói: Bác uống đi để lấy sức - gần tới Chùa Đồng rồi. - Đã lên được tới đây mà bỏ cuộc thì uổng quá. Lời khuyến khích của họ quả đã thúc đẩy tôi vượt qua được thử thách. Thế là tôi lại lần từng bậc từng bậc quanh co theo vách đá cao ngất ngưởng để leo lên, leo lên Ôi, chùa Đồng đây rồi! Ngôi chùa nổi tiếng là linh thiêng đang uy nghi ngay trước mặt. Chỉ còn phải leo một đoạn dốc ngắn nữa là tôi đã đạt thành sở nguyện. Mừng quá! tôi sẽ được thấy tận mắt ngôi chùa được đúc bằng đồng. Tôi sẽ đứng trên đỉnh cao nhất của núi Yên Tử để tự hào là mình còn phong độ! Ôi, mới sung sướng làm sao! tôi thở phào khoan khoái. Thế là lần này chúng tôi được toại nguyện về điều mong ước của mình mà ba năm trước đây chúng tôi chưa thể thực hiện được. Leo lên được tới đây qủa là môt việc quá lớn đối với tôi, vậy có điều gì đã khiến tôi vượt qua mọi gian nan như thế chứ, thực khó giải thích! Giờ đây đứng trước ngôi tam bảo nghi ngút khói hương tôi cảm thấy lòng mình tràn dâng một niềm tôn kính khó tả. Tôi bỗng nhớ lại đã đọc những tài liệu tại chùa Trình cũng như được nghe qua lời thuật của khách hành hương mới thấy công trình tạo dựng ngôi chùa Đồng quả là một kỳ công ( Hình Internet) tốn tiền tốn bạc biết nhường nào! Được biết ngôi Chùa Đồng khởi thuỷ chỉ là một cái Am nhỏ, đơn sơ có tên là Thiên Trúc Tự, tọa lạc trên đỉnh non thiêng Yên Tử ở độ cao hơn 1,000m so với mặt nước biển. Nơi đây Tam Tổ Trúc Lâm và các thiền sư thường ngồi thiền để Thân hòa đồng trụ, giới hòa đồng tu. Về sau này, vào thời điểm tái trùng tu, bằng nỗ lực của hàng trăm thợ đúc đồng chuyên môn được tuyển chọn từ tỉnh Nam Định đã phải làm việc vất vả ròng rã hơn một năm trời, dưới cái nóng như thiêu như đốt của những tháng hè, cũng như dưới những trận cuồng phong bão táp, mưa đá, sấm sét đầy trời để biến khoảng đất nhỏ cỡ 2 m2 thành một diện tích rộng đến 19 m2 dùng làm nền móng hầu hoàn thành ngôi chùa như ngày hôm nay. Họ phải đúc từng chi tiết rời ngay tại

38 chân núi Yên Tử. Mọi vật liệu để trùng tu ngôi chùa hầu như đều được vận chuyển theo đường đá dốc hoặc qua hệ thống ròng rọc tự chế dẫn lên đỉnh núi vì hệ thống tháp treo ngày ấy không thể chuyển tải các vật liệu lớn. Vào ngày khởi công, phật tử từ mọi miền đất nước tề tựu về đây, tụng kinh niệm Phật và đóng góp tịnh tài, cúng đồ trang sức bằng vàng bạc vào các vạc nấu đồng nóng chảy với tâm thành là đóng góp công đức vào việc đúc chùa, đúc tượng. Chùa Đồng được tái khánh thành ngày 12 tháng 12 năm Kết qủa là Chùa được đúc lại bằng đồng nguyên chất, nặng trên 70 tấn, chiều dài 4,6m, chiều rộng 3,6m, chiều cao 3,35m. Cho đến thời điểm này, có thể đây là ngôi chùa được đúc bằng đồng lớn nhất trên thế giới. Chùa được kiến trúc theo truyền thống của chùa Việt Nam với hệ thống các kệ, mái, đầu đao được trang trí tinh xảo. Bệ nền chùa được bọc đồng, đúc hoa văn. Bên trong chùa có hương án bằng đá chạm trổ hoa tiết rất tinh tế. Trong chùa thờ tôn tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Tam Tổ Trúc Lâm. Tuy gọi là chùa, nhưng vì diện tích khiêm nhường giống như chùa Một Cột ở Hà Nội nên Phật tử chỉ có thể đứng ở phía trước chiêm bái, lễ lạy chứ không thể bước vào bảo điện được. Ngày nay, du khách muôn phương về chùa Yên Tử, ai cũng mong được lên đỉnh núi cao thắp hương và chiêm ngưỡng ngôi chùa thiêng liêng có một không hai này. Nói về tín ngưỡng dân gian, người ta không thể phủ nhận sự linh thiêng của ngôi chùa Đồng mà minh chứng đã cho thấy mặc dù đường rừng dốc dác, trơn tuột, lởm chởm rất nguy hiểm vậy mà chưa từng có tai nạn nào gây chết chóc cho ai bao giờ, và cũng chưa có ai bị sét đánh khi gặp trời mưa sấm sét ở trên đỉnh cao như thế mới lạ. Phật Tử còn có nhiều niềm tin khó mà lý giải về vùng đất Yên Tử trụ nhiều khí thiêng với những cây tùng bách, cây bách có hàng 700 năm tuổi đã dung nạp được lượng khí thiêng lớn lao, do đó người đau yếu thường tìm về đây để chữa bệnh bằng cách ôm lấy thân cây Thuyền Từ vớt kiếp điêu linh tùng cổ để mong nhận được một phép nhiệm mầu nào đó từ Thẳng dòng Bến Giác ngẫm kinh sớm chiều thân cây truyền sang. Họ nói, sau khi được thụ khí từ những gốc (THT) tùng cổ, ai nấy đều cảm thấy thân thể được nhẹ nhàng, khoẻ khoắn như bách bệnh tiêu tán, vạn bệnh tiêu trừ (?). Ngoài ra dân gian còn tin vào những loại lá cây ở rừng núi Yên Tử có thể lấy về làm thuốc Nam chữa trị khỏi nhiều bệnh tật (?) Lúc này mưa rơi nặng hạt hơn. Rất đông du khách và bà con Phật tử hành hương đã lên đây từ lúc nào không biết, họ đang tìm nơi trú ẩn và chen chúc dưới mái chùa Đồng, vây kín chung quanh ngôi cổ tự nhỏ bé, xì xụp thắp nhang khấn vái. Cũng như mọi người, đứng trước ngôi tam bảo trang nghiêm, tôi lâm râm khấn lạy Phật Tổ Như Lai như để cảm tạ đấng thiêng liêng đã ban cho tôi một niềm tin, đã hộ trì cho tôi có đủ nghị lực để hoàn thành ước nguyện của mình. Trong khoảnh khắc nơi đỉnh thiêng Yên Tử, tôi cảm nhận được sự bình an trong tâm hồn! Dù cho mưa vẫn rơi và mây mù đan kín cả một vùng rừng núi, nhưng từ đây chúng tôi vẫn có thể thấy được cảnh sắc tuyệt vời của non thiêng Yên Tử trải dài dưới thung lũng xa xa, trông thật thần thoại, thật quyến rũ khiến tôi liên tưởng tới những bức tranh Tầu có các cô tiên nữ đang nhẩy múa trên mấy từng mây. Người ta nói gặp được ngày nắng ráo, chúng ta có thể nhìn bao quát cả vùng Đông Bắc rộng lớn cùng những hòn đảo

39 nhỏ thấp thoáng trong Vịnh Hạ Long. Loanh quanh ở đỉnh núi có đến gần cả giờ đồng hồ, mà trời chẳng có một chút nắng nào. Ông xã tôi có vẻ không được hài lòng vì đã ao ước sẽ chụp những bức hình độc đáo của chùa Đồng, nào dè thời tiết như vậy biết làm sao hơn là phải nhờ mấy chú chụp hình dạo theo sát chúng tôi mời mọc nẫy giờ để họ chụp cho mình vài tấm làm kỷ niệm. Theo chân du khách, chúng tôi ghé vào mấy Gift Shop nho nhỏ dựng bên góc chùa để tìm mua ít quà làm lưu niệm cho con cháu trước khi rời nơi đây. Huyền thoại về Non Thiêng Yên Tử không hẳn chỉ có thế, nhưng theo chương trình đã định, chúng tôi không thể nán lại lâu trên đỉnh non cao này được vì phải lần bước qua hai tuyến Cáp treo xuống núi để về kịp chuyến phà chiều đi Hải Phòng. Từng bậc, từng bậc tôi từ từ bước xuống. Ngoái trông về phía đỉnh non cao, ngôi chùa Đồng dần khuất sau làn mây trắng mỏng bồng bềnh. Từ xa, tiếng mõ lời kinh vẫn còn dìu dặt vọng theo như để lại trong tôi một ước nguyện viên thành, cũng như đã ghi khắc trong tôi lời dạy của người xưa... Trăm năm tích đức tu hành Chưa về Yên Tử chưa thành quả Tu Phạm Bá & Ỷ Nguyên (Trích trong tập bút ký Bên Kia Bờ Nhớ, ấn hành 18 tháng 3, 2018 tại Virginia)

40 SWEET AND LOW DỊU DÀNG VÀ ÊM ÁI Sweet and low, sweet and low, Wind of the western sea, Low, low, breathe and blow, Wind of the western sea! Over the rolling waters go, Come from the dying moon, and blow, Blow him again to me; While my little one, while my pretty one sleeps. Sleep and rest, sleep and rest, Father will come to thee soon; Rest, rest, on mother's breast, Father will come to thee soon; Father will come to his babe in the nest, Silver sails all out of the west Under the silver moon; Sleep, my little one, sleep, my pretty one, sleep. Alfred, Lord Tennyson ( ) Dịu dàng, êm ái, dịu dàng Phương Tây gió biển thênh thang thổi về, Thầm thì, êm ái, thầm thì Phương Tây gió biển thổi về thênh thang! Gió theo sóng nước nhịp nhàng Theo vầng trăng khuất sau làn mây bay Đưa chàng về thiếp đêm này Cùng con bé bỏng đang say giấc lành. Ngủ ngoan con mẹ xinh xinh Bố về thăm mẹ con mình sớm thôi Ngủ yên lòng mẹ, à ơi! Bố về tới bến ngoài khơi kia rồi Thăm con an giấc trong nôi Kìa buồm trắng bạc ló trời phương Tây Dưới trăng bàng bạc chân mây À ơi con ngủ cho say, ơi à! Tâm Minh Ngô Tằng Giao (chuyển ngữ) Mẹ và con Tranh: Bé Ký

41 CHUYẾN TÀU BATANN Vưu Văn Tâm Germany Có lần tôi thấy một người đi Chẳng biết về đâu nghĩ ngợi gì Chân bước hững hờ theo bóng lẻ Một mình làm cả cuộc phân ly (thơ Nguyễn Bính) Tháng năm nơi này không có những chùm phượng đỏ, cũng không nghe chú ve nào kêu gọi hè sang và đám học trò nhỏ cũng không ngập ngừng trao nhau lưu bút. Tháng năm trời đất giao hòa, cỏ hoa nở rộ, vạn vật bừng sống lại sau những ngày tháng dài say ngủ. Tháng năm của 36 năm về trước tại bến cảng Puerto Princesa, trên hòn đảo Palawan của đất nước Phi-Luật-Tân, mấy trăm người Việt tị nạn gồng gánh nhau lên tàu để di chuyển từ Palawan sang Bataan. Hành trang mang theo là những vật dụng cá nhân như quần áo đựng trong túi nylon, mùng mền chiếu gối, nồi niêu xoong chảo được gói ghém kỹ lưỡng trong những thùng carton, và bao nhiêu thứ lỉnh kỉnh khác nữa được chứa trong những bao đựng gạo đã ngả sang một màu khác. Đa số trong họ là những thuyền nhân được tàu Cap Anamur cứu vớt trên biển và gửi tạm vào Palawan từ nhiều tháng trước. Họ lên Bataan để học một khóa Đức ngữ ngắn hạn trước khi bay qua Tây Đức. Ngoài ra, cũng có rất nhiều những thuyền nhân khác cũng được tháp tùng theo chuyến này, tạm cư ở Bataan một thời gian để chuẩn bị định cư tại một quốc gia thứ ba như Mỹ, Canada, Úc.. Trên bến dưới thuyền, tiếng người lao xao rộn rịp trước một chuyến đi xa. Người đi kẻ ở, hình như những dòng nước mắt mằn mặn bờ môi đã nói thay những lời đưa tiễn. Nhiều thành viên trong gia đình phải ngậm ngùi chia tay nhau nơi này. Các anh chị em trong nhà cùng đi chung một chuyến ghe vượt biển, nhưng nay rẻ chia thành nhiều hướng khác nhau. Người sẽ đi đến vùng đất Âu Châu giá lạnh, kẻ sẽ về phương trời bắc Mỹ xa xôi. Những đôi tình nhân quen nhau chưa được bao lâu cũng nghẹn ngào, tay trong tay.. Rồi giây phút đó

42 cũng đến! Tiếng kẻng đánh lên ba hồi, chiếc tàu sắt cũ kỹ ì-ạch rời bến. Cái cảnh biệt ly ngó sao buồn áo não. Những bàn tay vẫy chào cứ xa dần rồi mất hút trong khoảng không gian mờ nhạt của anh nắng xế tà. Trên tàu, mọi người tự tìm lấy một góc, một chỗ nào đó coi cho được để ngủ qua đêm, hay ngả lưng trên mớ hành lý hỗn độn được mang theo để đến chỗ mới có cái mà xài.. Đường đi trước mắt hãy còn xa lắm! Bên này là những đôi mắt tròn xoe nhưng gợn buồn của mấy em vị thành niên không có thân nhân đi cùng. Các em được các anh chị, cô bác đi chung tàu cưu mang đùm bọc bao tháng nay từ khi bước chân lên đảo Palawan. Tình đồng hương nó gắn kết lạ lùng lắm, khi mọi người ai cũng như nhau, đặt chân đến xứ lạ với đôi bàn tay trắng. "Tụi nó ăn nhiều chứ ở đâu có bao nhiêu". Bên kia mấy cô, mấy chị cũng ngồi thành nhóm kể chuyện nghe rất xôm tụ. Đây là những gương mặt còn vương nét u sầu của phút chia tay hồi ban chiều cũng như nặng trĩu âu lo không biết chỗ mới đến sẽ ra sao và còn ở lại thêm bao lâu nữa. Ở một góc khác, mấy chú, mấy anh ngồi xoay tròn bên ly rượu nhạt, rít một hơi thuốc hoặc chơi bài cho thời khắc qua mau. Chiếc tàu sắt di chuyển qua những khúc quanh kêu ken-két nghe đến lạnh người. Nó lặng lẽ lướt sóng một cách nặng nề. Tương lai của mấy trăm người xa xứ vẫn còn nhạt nhòa như một bức vẽ chưa hoàn tất... Bình minh rạng rỡ báo hiệu thêm một ngày mới. Nơi đây thiên nhiên phong cảnh hữu tình cũng giống như quê mình, kia núi đồi cao cao, nọ biển thác chập chùng. Nắng ban mai đã xua tan những màn sương mỏng, không khí buổi sớm trên biển trong lành, ấm áp đến dễ chịu. Trước đó không bao lâu, chiếc ghe 95 người của chúng tôi cũng lênh đênh trên biển, đi tìm sự sống vật vờ trong cái chết. Đi gần trọn một ngày đêm, tàu cũng cập bến và mọi người được đưa lên "xe ca" để về trại chuyển tiếp Bataan nằm trên một vùng cao có suối ngàn mát rượi, có thông reo vi vu như trên cao nguyên Đà-Lạt. *** BIỆT KHÚC (thương nhớ người anh trên đảo Bataan) Kể từ chia biệt Liêu-Dương Sơn khê cách trở, người thương chưa về Ai đi có nhớ câu thề? Cầu Lam, vườn Thúy bên thềm lẻ loi Hữu duyên tao ngộ bên trời Người xuôi, kẻ ngược bời bời dạ đau Thời gian dẫu có trôi mau Chút tình gửi lại ngày sau nhớ hoài.. Vưu Văn Tâm Germany

43 QUA ĐÈO NGANG Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà, Cỏ cây chen đá, lá chen hoa. Lom khom dưới núi, tiều vài chú Lác đác bên sông, chợ mấy nhà. Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc, Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia. Dừng chân đứng lại trời, non, nước, Một mảnh tình riêng, ta với ta. Bà Huyện Thanh Quan HỌA VẬN THƠ BÀ HUYỆN THANH QUAN HỜN VONG QUỐC Tráng sĩ mài gươm dưới nguyệt tà Phong sương phảng phất nét hào hoa Nỗi lòng canh cánh đau hồn nước Tâm sự ngổn ngang xót nếp nhà Thao thức chân mây mơ phục quốc Ngậm ngùi góc biển mộng ninh gia Bâng khuâng chạnh nhớ thời trai trẻ Ngang dọc chiến trường cũng có ta. Hồ Công Tâm

44 Ảnh: Internet VỢ CHỒNG GIÀ Nguyễn Phú Long Xin hãy nghe tôi nói chuyện tôi Đó là câu mở đầu trong một bài thơ thất ngôn tứ cú phân đoạn, nhan đề Rong Chơi Ngày Tháng Hạ, được phổ biến trên tam cá nguyệt san Cỏ Thơm số 37 từ lâu, nay mạn phép chưng ra đây lần nữa, cũng là để mở đầu, khi kể mẩu chuyện Vợ Chồng Già cho vui. Bài thơ trên diễn tả đại ý, nhân được ngày Xuân, tiết trời ấm áp, một đôi bạn trai gái trẻ rủ nhau dùng xe đạp về vùng quê, đi vòng vo ruộng nương sông núi, dừng chân tại quán bên đường uống nước, nhìn đôi chim nhỏ hạ cánh trên lưng con trâu đang thản nhiên gặm cỏ, rồi ngắt bông hoa rừng tặng nhau, rồi gặp trời mưa bụi, rồi trở về...trước khi chia tay hào hứng hò hẹn sẽ rủ nhau đi chơi nữa, nhưng sau, ý định mong ước không thực hiện được vì tiếp theo, con Nhỏ bạn rất là xinh đã bỏ đi lấy chồng Bài thơ dài 36 câu, mỗi câu bẩy chữ chỉ là kỷ niệm thời trẻ. Tác giả hồi tưởng kể lể khi đã già. Nhân lúc ở không, suy nghĩ thấy tình đời thường vậy mà như vậy cũng đẹp, phổ thông. Mục đích còn như giới thiệu ca ngợi nhiều trường hợp tương tự, gợi lại những bức tranh quê yêu mến, rải rác đó đây chẳng khác bao nhiêu. Còn cái vụ con gái bỏ cuộc chơi đi lập gia đình là thường, là đúng, cứ rong chơi mãi có ai bảo đảm lo cho tương lai người ta đâu! Thời gian trôi, mấy hình ảnh đó thiếu gì xẩy ra trên đời, chỗ nọ chỗ kia, nhất là nơi làng xóm cũ, nhưng với người cao niên, đã trải qua hay chưa từng trải qua thì cũng không bao giờ mong gặp lại, thực hiện lại và biết chắc chắn nó đã trở thành hiếm quý vô cùng! Nuối tiếc vô cùng! Tâm sự tương tự ấy bọn già nua chúng tôi, có lẽ ai cũng kinh qua, dù hơi khác nhau. Thời gian đến lúc coi TV phải ngồi gần màn ảnh hơn, đến khi nghĩ đến ăn miếng cơm nếu có bát canh thì nuốt dễ dàng hơn. Lúc đó vẩn vơ thường không nhớ chuyện này thì cũng tưởng chuyện khác.

45 Cái sự hò hẹn rong chơi như trên đối với đám cao niên là rất xưa, ngay cả vụ nam nữ yêu đương, lấy vợ lấy chồng nuôi con cũng rất xưa. Hôm nay lại xin hãy nghe tôi nói chuyện tôi hy vọng không xưa bao nhiêu: Hai vợ chồng tôi, nhờ trời hiện còn sống chung dưới một mái nhà, đã qua tuổi thất thập, đã nghỉ hưu, không phải lo âu làm việc kiếm sống, nuôi gia đình như trước. Lại nói thêm để mọi người mừng cho là, hồi 1975 vốn liếng chúng tôi mang đi từ Sài Gòn được bốn mụn con nhỏ, hai trai hai gái nay đã trưởng thành, đều có công việc nhà cửa xe cộ vợ chồng ở riêng, cuộc sống giống mọi người, nghĩa là luôn bận rộn nhưng ngày nghỉ vẫn dành thì giờ đứa thì xách túi đi đánh Golf, chơi tenis, đứa thì dậy học tiếng Việt ở chùa và có cặp còn nuôi chó để chiều chiều dắt quanh phố như ai Chúng tôi nhìn thấy con cái được thế cũng mừng, cám ơn trời đất và coi như đã tạm tròn bổn phận, từ nay mình cần sống cho nhau cho trọn những ngày tháng còn lại, tạo thêm gần gụi, thương yêu như nhắc nhau uống thuốc sớm chiều, sáng suốt bỏ qua mấy cái bất đồng nho nhỏ, đôi lúc cùng ôn lại vài kỷ niệm, nhường nhịn làm sao để mai sau, đây đó còn chút tình lưu luyến nhớ nhung và tùy khả năng vào những dịp đặc biệt, vợ làm món ăn ngon; Chồng: Đưa tặng bậu bài thơ ; Sinh Nhật! Mừng em thêm một tuổi, Lá vàng tháng Chín gió chao chao. Jorge Luis Borges ( ) nói Người ta chỉ làm thơ khi còn trẻ hoặc lúc đã về già. Tôi thì lúc đã về già, lai rai, cầm hơi, cho vui, để kỷ niệm, thỏai mái, nên khi sang Tầu, mặc kệ Tế Hanh ( ) kể lể: Anh đã đến những nơi lịch sử Đường Tô Đông Pha làm phú Đường Bạch Cư Dị làm thơ Tôi sáng tác một bài, có tính cách thực tế, thực dụng: Khi xưa thẳng giấc ngủ say, Bây giờ đã hết tháng ngày xuân xanh, Đêm khuya thao thức cầm canh, Đếm đai từng chập hết anh tới nàng. Sáng ra muốn được nhẹ nhàng, Lên ô tô để sẵn sàng rong chơi, Nhắc nhau khe khẽ một nhời, vào thăm toa-lét xong thời hãy đi. Đến đâu cũng chớ vội gì, Tìm nơi giải tỏa ngại chi xếp hàng. Tôi khoe bài thơ kỷ niệm Đi Tầu hỏi: - Hay không? Người tôi yêu lắc đầu. - Nhưng cũng là lời nhắc nhở cần thiết phải không? Người yêu tôi gật đầu. Mỉm cười. E thẹn. Rồi thôi. ooooo Gần sáu mươi năm qua vợ tôi vẫn giành và sốt sắng chăm sóc mọi việc như nấu ăn, làm sạch sẽ phòng tắm, vệ sinh, giặt áo quần, hút bụi song luôn luôn để tôi phụ trách rửa chén bát xoong nồi sau bữa cơm, tôi hoan hỷ thi hành không thắc mắc và biết nguyên nhân vì nàng chẳng muốn nhúng vào nước, xà bông, sợ hư làn da ở bàn tay!

46 Một bữa bả đang nấu nồi canh cá với trái thơm và thìa-là sực nhớ đứa rể thích món ăn này với bún bèn nói bâng quơ: - Sao lâu quá chẳng thấy tụi nó ghé thăm. Tôi biết là Bà ngọai đang nhớ con nhớ cháu, bèn gạt đi. Tụi nó trăm chuyện nào vợ con, nào công việc, mới lại rể là khách! Nói chung đừng bắt lỗi người khác, chẳng biết đúng hay sai lại nhỡ vì thế mà tụi nó cắng đắng với nhau, không lo cho nhau thì mình mang tội. Được như vầy là phúc đức lắm rồi, đừng nghĩ đến câu ca dao con mình, dâu, rể làm gì. Rồi tôi nói với vợ sang chuyện khác vui hơn: - Vừa rồi ở nhà bank, đứng xếp hàng, anh gặp một người hỏi Trước ông làm cho sở nhà đèn? anh lắc đầu, ông ta tự giới thiệu đang làm hãng điện lực, thấy anh mặc cái T shirt trắng ghi hàng chữ đỏ Dominion Virginia Power nho nhỏ xinh xinh ở ngực, tưởng đồng minh nên hỏi, rồi lịch sự xin lỗi. Vợ tôi chẳng nói gì, chúng tôi gặp nhiều trường hợp như thế, với FedEx, Lucent, AT&T, Phillip Morris khi đang mang trên người toàn là mấy áo sợi và mũ lưỡi trai quảng cáo nơi các con tôi làm việc lấy về, chúng nó không xài, lòng thành biếu bố mẹ dùng lấy thảo, mình thì phần cảm động, phần tiếc của chẳng nỡ bỏ. Người Việt Nam siêng năng chăm chỉ nên dù vẫn là sắc dân thiểu số và với thời gian hội nhập còn tương đối mới mẻ mà sự thành công, nhất là thế hệ thứ nhì chẳng thua ai thật hãnh diện. Tôi xin miễn đề cập đến mục học hành đạt nhiều kết quả tốt của con em chúng ta ở đây nói chung và của con chúng tôi nói riêng. Chuyện ấy thì ai cũng biết rồi khổ lắm nói mãi! Trẻ cậy cha già cậy con Nói trộm vía chứ, chúng nó bây giờ vẫn lưu tâm, giúp đỡ mình nhiều, chưa quên câu ca dao công cha, nghĩa mẹ. Thấy vợ có vẻ suy nghĩ. Sợ cái dòng tình cảm lan man nên tôi đổi đề tài: - Này em, có nhớ hồi mình đi mua giường ở đường Hồng Thập Tự Sài-Gòn không? - Nhớ chứ! Kỷ niệm ấy làm sao quên. Nhắc hòai. Hồi đó em nhắm cái giường nhỏ, rẻ tiền, mà anh lại muốn cái lớn, to nằm cho thỏai mái, mình chưa lấy nhau nên em chả có ý kiến - Thực sự anh chẳng cần rộng lớn, diện tích mình nằm đâu nhiều, nhưng cần chắc chắn thôi! Hai người cùng cười, cùng nhớ lại chuyện mua giường hỳ hục mướn xe ba-gác khiêng về căn nhà thuê trong hẻm đường Triệu Đà xây tổ uyên ương.thấm thoát đã hơn năm chục năm, nhìn lại khi anh ở gần, khi anh ở xa sống với đồng đội súng đạn rồi một hôm, thuở trời đất nổi cơn gió bụi hối hả, hấp tấp kéo nhau trèo lên con tầu Trường Xuân lênh đênh đậu ở bến Bạch Đằng, qua bao giai đọan, tới dừng chân nơi đây ooooo Chúng tôi thành hôn từ 1962, kết quả cuộc tình nghèo hai đứa yêu nhau rất đẹp, chủ quan vẫn nghĩ thế, mà thôi chẳng kể ra, một phần vì đang nói tới khúc Vợ Chồng Già. Song nhớ rất rõ, cũng đã gọi các con cháu, mời bạn bè đến nhà uống ly rượu mừng Lễ Vàng được mấy năm nay, hy vọng trời cho sống thêm vài mùa Xuân nữa để chống gậy lụ khụ dắt díu nhau cử hành kỷ niệm Lễ Ngọc Khánh, và chuyện cái giường không nói chắc ai cũng biết nó vẫn gắn bó theo đuổi chúng tôi không biết đến bao giờ. Bây giờ con cái bỏ đi hết, nhà cửa rộng thênh thang, để tránh kẻ thức người ngủ, kẻ ho người ngáy, cựa quậy, lục đục, chúng tôi bàn luận và đồng ý hai đứa ngủ riêng. Thì vẫn lòng vòng cùng địa chỉ thôi. Cứ tưởng hơn bốn chục năm đến giờ và về sau, chẳng còn chinh chiến, không lo cấm trại nên sẽ mãi mãi ăn cùng mâm nằm cùng giường, thế mà đôi lúc tự nhiên một người vào bệnh viện vậy là có khi cũng xa nhau cả tháng.

47 Già rồi bệnh tật cũng là cái cớ để ra đi. Sinh lão bệnh tử, trời cho kéo đến đâu hay đến đấy, kẻ trước người sau, hãy tiếp tục bước từng đọan, bình thản, vui vẻ và trước khi nói tiếp chuyện già, ngủ riêng, vẫn muốn xen kẽ kể một chút tình trẻ cho cân bằng! Ngày nay nói chung, vợ chồng lấy nhau muốn sinh con ngay cũng được, muốn rong chơi vài năm rồi mới tính tới cũng được, ít nhiều cũng được. Nhân tâm tùy mạng mỡ. Thời gian trước chuyện ấy rất khó khăn, chẳng biết phương pháp Ogino-Knaus, cũng như kế hoạch hóa gia đình là thế nào, trường hợp chúng tôi mới sáp vô là đẻ con túi bụi, không kịp thở kỷ niệm cũng vui. Vậy mà còn ghen tuông nữa mới tiểu thuyết chứ. Số là hồi đó tôi thường bị cấm trại ở BTL/TQLC, đường Lê Thánh Tôn Sài Gòn, ngày làm việc, đêm vác khẩu liên thanh, mấy thằng lính tráng, lên nằm trên sân thượng tòa nhà Văn Hóa Pháp ngã tư Đồn Đất làm một tiền đồn bảo vệ mặt chợ Bến Thành cho đơn vị, chỉ mong khi bình thường hết cấm trại để rủ nhau đi khiêu vũ một phen cho đỡ sầu đời! Ấy thế mà vừa xả hơi đêm trước, ngay trưa hôm sau về nhà ăn cơm là vợ biết ngay, thế có ngạc nhiên không! Khi bị tra vấn, vì sự thể rành rành, mới lại, là bậc nam nhi, đầu đội trời chân đạp đất, dâm chứ chẳng gian, tôi bèn xuống nước và năn nỉ xin cho biết sự thể làm sao? Thì té ra là vì thời khắc đó nhà tôi đang làm việc cho hãng bào chế thuốc tây Hadzer cuả ông cậu ở đường Lê Văn Duyệt gần ngã tư nơi Thích Quảng Đức tự thiêu, nhân viên dưới tay có một A-Múi nhà ở trong Chợ Lớn, ban đêm còn làm ca-ve ngay vũ trường tôi vẫn đâm đầu vào Bộ đồ rằn ri mục đích ở trong rừng là để ta thấy địch địch không thấy ta, mấy thằng chúng tôi mặc vậy vào vũ trường cho tiện thì bị ếp phê ngược Địch thấy ta mà ta không thấy địch. Binh thư Tôn Tử đâu có nói trường hợp này. Cái nị A-Múi ơi! Đến lay ngộ thề cũng không có piết mặt piết vòng số dách số nhì của nị. Mà ngộ với nị lâu có thù hằn lâu! Ngộ lến đó chỉ lể lả lướt mấy figure nhạc điệu bài Mùa Thu Lá Bay thôi mà. Mấy lứa trẻ ló thổi kèn, lánh trống hay thấy bà. Mà ngộ có thẩy xu ùm cói làng wàng, mà nị đành chơi ngộ xém bể cái lồi cơm la-xông-lan, cho chít cha ngộ dzồi ooooo Nay lại xin tiếp tục kể chuyện ngủ riêng. Thời gian bắt đầu thực hiện thú thực thấy rất thoải mái tự do. Ban đêm tắt TV vào nằm một mình khép cửa nhìn trần nhà mà không bao giờ thấy con thạch sùng như ở quê hương, thả hồn, muốn nghĩ ngợi cứ tiếp tục chẳng ai làm phiền, khi nào ngủ thì ngủ, sáng đêm thức dậy lúc nào bật đèn làm việc tùy ý, bàn ghế gọn gàng ngăn nắp, yên tĩnh. Căn phòng riêng của tôi trên lầu có cửa sổ nhìn ra đường trang bị hết sức tiện nghi: điện thọai, computer, hệ thống âm thanh, quạt máy. Dù nhà chỉ có hai người tôi vẫn đặt làm tấm bảng nhựa ghi Người đàn ông ngủ một mình gắn ngòai cửa. Đó là nhan đề một truyện dài đã phổ biến trên nhật trình ở Sài Gòn, rất tiếc nay tôi quên tên tác giả, hồi còn là lính tôi đã cắt ghim ở cửa phòng ngủ trong trại nay làm thế cũng như để kỷ niệm một thời. Tôi xin thêm ngân khỏan mua cái tủ lạnh nhỏ như của các em trọ học xa thường vẫn có, song không được chấp thuận. Lý do là để trong đó ăn uống rả rich sẽ bị mập. Nhưng sống như thế dược ít lâu tôi thấy như thiếu thốn cái gì, nghĩ mãi mới khám phá ra. Vậy thì con người giống cái máy, vô tri giác, không sinh động. Để gọi là gia đình, gia đình chẳng phải quân trường cái gì cũng đâu vào đó, nguyên tắc, nó còn cần nhiều thứ khác mà người xưa đã gói ghém trong công thức Gia hữu tam

48 thanh Nay xin mạn phép giải thích, trong nhà cần ba lọai âm thanh là tiếng dệt cửi của nội tướng, giọng ngâm thơ của chủ nhân và trẻ con khi khóc, lúc cười. Có điều lạ là ngủ riêng như thế vợ tôi chẳng phản ứng gì, tỉnh bơ, đương nhiên, không ý kiến, cảm tưởng, không thắc mắc, coi như bình thường từ xưa đến nay vậy. Còn tôi thì thấy có lẽ cần thay đổi khi một mình nằm, dây dưa nghĩ chuyện nọ chuyện kia, ước ao bậy bạ, không tốt. Thí dụ như giá mình được như một chàng trai đẻ bọc điều với diễm phúc đêm năm canh năm vợ ngồi hầu thì tuyệt cú mèo! Năm vợ thì tham lam quá. Người Hồi Giáo cũng chỉ có bốn thôi. Mà hai vợ thì Việt Nam cũng nhiều, lại còn nằm chung một giường nữa chứ, ôi mê lý mê ly đời ta!!! Anh ơi ngoảnh mặt vào trong Sáng mai đi chợ em mua bún với lòng anh ăn. Ca dao. Thế tại sao tôi phải cu ki một mình? Tại sao vậy trời? Cứ thế đến một đêm khó ngủ, chịu hết nổi, tôi xuống phòng vợ bật đèn tâm sự, mở đầu bằng câu Hán văn của tiền nhân. Vợ tôi nghe xong rồi cho ý kiến: - Cái tiết mục đầu, thay vì dệt cửi em vẫn dùng chiếc máy may Singer cũ sửa áo quần, tạo âm thanh thế cũng tạm được, còn chuyện ngâm thơ Tôi nhanh nhẩu nối lời: - Thì anh lấy cuốn Truyện Thúy Kiều của cụ Nguyễn Du thỉnh thoảng vẫn ngâm nga học hỏi ôn tập cũng tốt thôi! - Ới giời ơi! Anh làm vậy, cụ Tiên Điền sống lại chắc chết thêm lần nữa! Tôi làm mặt nghiêm: - Em nói thế không đúng. Đối với văn thi sĩ dù sao được nhắc tới thì chất giọng điêu luyện hay tài tử ăn nhằm gì. Nó đều tạo hân hạnh và mừng vui cho tác giả. Anh lấy kinh nghiệm bản thân để nói vậy và thực sự là như vậy. Tại còn thấy ấm ức trong bụng, tôi bồi thêm: - Ngoài ra mấy người cặm cụi cả đời viết lách có mong đợi gì nữa đâu! Vợ tôi như cảm thấy lỡ lời, vừa cười vừa nói tiếp: - Thế còn mục thứ ba? - Thì bắt đầu ngay đêm nay anh lại xuống ngủ chung giường! Mình thứ chuyến nữa xem sao! - Thử chuyến nữa là thế nào? - Anh đâu biết thế nào là thế nào! Trời đất ơi! Lấy nhau gần sáu mươi năm cuộc đời còn hỏi! Chúng tôi lại cười, biết là nói giỡn, chắc chắn làm gì xẩy ra việc ấy, thế đấy, vẫn mình với ta tuy hai mà một chẳng tiếc chi nhau, nhưng hơn bẩy bó cả rồi. Rõ ràng mục thứ ba không có đâu! Không phải chuyện an ủi Chẳng tu thì cũng như tu, mà là vì thời gian đến lúc cầm sắt nó đổi sang cầm kỳ thì hoan hỷ chấp nhận thôi. Chấp nhận tự nhiên, như đã hòan tất cái bổn phận thiêng liêng, cái thiên chức làm người Vợ tôi lại hỏi: - Thế cái phòng trên lầu tính sao? - Thì vẫn để nguyên như vậy, thỉnh thoảng con cháu về, khách đến chơi!

49 - Thế có gỡ tấm bảng ghi người đàn ông ngủ một mình không? - Không. Để đó có chết thằng Tây nào đâu? Nhỡ khi thay đổi ý kiến cần còn xài lại Phòng ngủ yên lặng, ánh đèn ấm cúng, mọi vật quen thuộc, bình thường, có lẽ lúc đó chỉ thiếu tôi dưới tấm mền hoa, nhìn trần nhà để nghĩ tới mấy chú thạch sùng ở quê hương Vài phút trôi qua, rồi vợ tôi đang nằm nghiêng giống con tôm, bèn từ từ, nhè nhẹ buông lỏng chiếc gối thứ nhì trong lòng như các cô con gái lúc ngủ ôm búp bê, để nó ngay ngắn y hệt vị trí sẵn sàng cho tôi ngả lưng, mời gọi ooooo Câu chuyện Vợ Chồng Già còn tiếp tục cùng thời gian. Nhưng quanh đi quẩn lại chỉ lẩm cẩm có vậy. Công nhận chuyện có vài chi tiết mang tính đặc thù, song nhìn chung thì rất phổ thông. Do đó tôi không bảo đảm là hư cấu hay chuyện thực. Có thể là thực, mà có thể là hư cấu và cũng có thể là cả hư cấu và thực. Nhớ câu: Trong lúc sáng tác ta đừng tìm cách để lộ cái ta ra cũng đừng tìm cách giấu nó. Chế Lan Viên ôi! Tôi rất chịu cái ý kiến của ngài nên mượn đỡ để kết thức mẩu chuyện này. Nguyễn Phú Long Chùm hoa Muguet Minh Châu, Richmond Virginia

50 GỌI GIÓ Khi gặp em ngày anh không còn tuổi, Mơ tình riêng trong một chuỗi mộng đời Nên yêu em cũng chỉ trong thơ thôi Bởi tình thơ là tình yêu tuyệt nhất. Tình như thế có gì đâu tất bật, Cứ nhẩn nha vì đời nhẩn nha rồi Thực hay hư anh vẫn phải xa rồi Vì đường ấy là đường chung rất rõ. Anh gọi em hay gọi tình trong gió, Vì thời gian mong ước đã muộn màng Bao mùa về thao thức thuở xuân sang Tìm về Chúa hay nơi nào xa lạ. Người dấu tích mực đời nào bôi xoá Chuyện vàng son ân nghĩa cũng vuông vần Cuộc tình nào sớm muộn cũng băn khoăn Đêm khuya khoắt trở trăn ngày phiền muộn. Âu cũng chỉ là tình đời đưa đón, Anh yêu em như yêu ánh mặt trời Anh làm thơ khi tim loạn chơi vơi Thì những tiếng thơ về thêm huyền diệu. Tâm tư ấy chẳng có gì khó hiểu, Đối với anh em là ánh trăng ngà Dẫn đường thơ ánh sáng tựa sao hoa Tạ ơn em tình xa mà lưu luyến. Anh có đi thì tình cũng không đến, Nên chi lời hò hẹn chỉ qua lòng Mình cùng nhau giữ vẹn tiếng đẹp chung Để hồn thơ mỗi ngày thêm mỗi sáng Hoa Văn NẮNG VỘI Không gặp em thơ tình đâu còn nở Bởi trong anh héo hắt nhịp tim thơ Mình quen nhau từ những chuyện tình cờ Nên rất đẹp làm sao mà kể xiết. Vì mộng mơ một cuộc tình như Nguyệt, Đêm trăng sao che khuất bóng mây mờ Chuyện riêng tư âu cũng chuyện mơ hồ Lòng trĩu nặng đợi chờ trong tâm thức. Tình trao đi không chút hư mà thực Nhưng duyên đời đã nhạt bóng thời gian Chân có đi cùng những bước vội vàng Trên đường chiều nắng hồng như muốn tắt. Nhạc nào rung cung gì sao réo rắt, Âm thanh rời hiu hắt giữa trời xa Em xa xôi đâu biết anh làm thơ Cứ tưởng bóng cứ mơ hình hy vọng. Thôi như thế thơ đời lại sống động, Ý từ ngoan chưa cạn vẫn trang đầy Em cho anh những ngào ngọt trên tay Và đã dệt áo thơ vàng thêm sắc. Chút mơ thôi cũng đủ anh trầm mặc, Trong văn chương chữ nghĩa chuyện xa gần Cũng chỉ là đi ở cõi phù vân Hay còn mất long lanh tình luyến tiếc. Hoa Văn

51 Thấy gì qua tập "Việt Nam - Nỗi Đau & Niềm Hy Vọng" của tác giả Trần Phong Vũ Trịnh Bình An Trần Phong Vũ vừa cho ra đời tác phẩm mới, "Việt Nam - Nỗi Đau & Niềm Hy Vọng". Với tôi, người thua tuổi Trần Phong Vũ ba thập niên, đây là một tác phẩm đặc sắc, tuy về căn bản, chỉ là một tổng hợp những bài nhận định tình hình chính trị Việt Nam từ 2016 đến 2017 của tác giả. Quan điểm chính trị của tác giả - một nhà giáo, một nhà báo Miền Nam Việt Nam trước có thể hợp hay không hợp với người đọc, có thể đúng hay không đúng với thực tế diễn ra, nhưng điều đó không quan trọng. Quan trọng ở đây là tấm lòng của người viết, là nhiệt tình, là niềm tin, và trên hết, là tính khiêm nhường. Đáng lý tôi phải đưa ra những tiêu chuẩn khác, như độ chính xác của tài liệu, cách phân tích sâu sắc táo bạo, cái nhìn tỉnh táo không thành kiến v.v. những điều mà nếu cách đây vài năm tôi sẽ dùng để phân tích các sách có nội dung tương tự. Điều gì đã khiến tôi thay đổi? Sau một thời gian đụng chạm với những thực tế trong sinh hoạt Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại, tôi hiểu ra một điều: Đức tính cần thiết nhất cho sinh hoạt tập thể là sự khiêm nhường. Khiêm nhường không mang nghĩa từ chối lời khen tặng cũng không mang nghĩa tự cho mình kém cỏi. Sự khiêm nhường thật sự thể hiện ở 3 điều: Biết lắng nghe, biết suy nghĩ lại, và biết để người khác làm"tướng" thay mình. Chiếu theo 3 điều kể trên, Trần Phong Vũ xứng đáng được gọi là người khiêm nhường. Thú vị thay, đức tính ấy được thể hiện trọn vẹn trong tạp luận "Việt Nam - Nỗi Đau & Niềm Hy Vọng". *** Nhưng trước tiên, xin có đôi dòng giới thiệu về nội dung tuyển tập (dày 664 trang, hình minh họa màu, bìa cứng). Việt Nam - Nỗi Đau & Niềm Hy Vọng (VN-NĐ&NHV) gồm có 5 Phần: Phần 1-20 chương. "Từ Góc Nhìn Trong Nước" Như tên tựa, là nhận định của tác giả với phát biểu của một số người trong nước trước hiện tình Việt Nam, tiêu biểu như giáo sư Trần Đình Sử, cựu phóng viên Huỳnh Quốc Huy, diễn viên hài độc thoại Dưa Leo, nhạc sĩ Tuấn Khanh, sinh viên Lê Văn Thành. Tác giả phân tích những phát biểu ấy nhằm khơi nới những điều ẩn tàng mà đương sự chưa thể nói hết vì bản thân còn bị giam hãm trong vòng kềm tỏa. Phần 2 11 chương. Tôn Giáo và Chính Trị. Trần Phong Vũ là một tín hữu với những hoạt động gắn bó lâu năm với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Ngoài đóng góp cho tờ Diễn Đàn Giáo Dân, ông còn sinh hoạt trong các nhóm anh em hàng năm quyên góp hỗ trợ các tù nhân lương tâm và thương phế binh VNCH trong nước. Do đó, với tương quan mật thiết "trong-ngoài", tác giả có được những nguồn tin, những đánh giá, mà người "ngoại cuộc" khó lòng có được. Những hoạt động và tiếng nói chính trực của giám mục Hoàng Đức Oanh, các linh mục Phan Văn Lợi, Đặng Hữu Nam, Nguyễn Đình Thục, Nguyễn Duy Tân, các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế có thể chỉ giới hạn trong địa hạt tôn giáo (ở đây là Công Giáo), nhưng khi viết về họ, Trần Phong Vũ đã vẽ ra một bức tranh rộng hơn, cho thấy cuộc đấu tranh không cân sức nhưng ngoan cường giữa hai lực lượng: "chủ chăn" (tu sĩ) và "đàn chiên" (người dân) để chống lại "lũ sói" (cộng sản).

52 Phần 3 10 chương: "Formosa & Thảm Họa Môi Trường". Hiện tượng cá chết hàng loạt do nhà máy Formosa xả chất thải độc hại đã khiến người dân Việt Nam trong nước và ngoài nước phản ứng dữ dội. Hơn bao giờ hết, người Việt thấy mình đang bị đầu độc qua từng "con cá, lá rau, chai nước mắm". Trần Phong Vũ đã mô tả một "cuộc chiến" đa dạng từ nhiều phía của người dân đối chọi lại với cái-gọilà chính quyền. Phần 4 19 chương: "Chế Độ Trước Thế Nhân Dân". Với 3 phần "Nỗi Đau" thì đây, phần cuối, tác giả cho thấy tia sáng le lói của "Niềm Hy Vọng", và có lẽ nhiều người hẳn cũng như tôi, lẹ lẹ lật tới phần chót để coi đâu là "ánh sáng cuối đường hầm". Nhưng thực ra, trong mỗi chương của toàn bộ cuốn sách, ngay khi trình bày nỗi đau, tác giả cũng cho thấy niềm hy vọng như những đốm lửa, lập lòe tỏa sáng khắp nơi. Phần 5 12 chương: "Phụ Lục". Bài viết của một số tác giả khác giúp làm sáng tỏ hơn những vấn đề sách đã nêu ra. Chỉ trong hai năm, Trần Phong Vũ đã viết trên 600 trang giấy, mỗi bài lại có hình ảnh minh họa tường tận, bộc lộ một tâm tình không phút nào nguôi của tác giả đối với con người và đất nước Việt Nam. *** Bây giờ, xin trở về suy nghĩ của tôi về sự khiêm nhường. Như đã thưa qua, đức tính này thể hiện qua 3 điều chính: Biết lắng nghe - Biết suy nghĩ lại - Biết chấp nhận người khác giữ vai trò quan trọng hơn mình. Trần Phong Vũ rất biết lắng nghe. Nếu không ông chẳng kiên nhẫn ghi lại phát biểu của những con người cách ông nửa vòng trái đất. Hãy tưởng tượng, một ông lão ngoài 80, gò lưng trên bàn phím, gõ từng chữ những lời phát ra từ YouTube. Mà những người nói chẳng là nhân vật quan trọng hay danh nhân sang cả mà chỉ là những người tầm thường, thậm chí còn ít tuổi hơn "bác Vũ" nhiều. Tôi quen biết với Trần Phong Vũ trong hoạt động của Tủ Sách Tiếng Quê Hương. Tôi có thể nói "anh Vũ" là người khá nóng tính nhưng lại rất mau nguội. Có đôi lần, tôi đưa ra những ý kiến trái ngược với anh thì anh đáp lại với những dòng khá "chua". Nhưng chỉ qua ngày hôm sau, tôi được nghe anh tiếp tục câu chuyện với sự bình tĩnh và rộng lượng. Trong "Việt Nam - Nỗi Đau & Niềm Hy Vọng", Trần Phong Vũ nhắc đến trường hợp Huỳnh Quốc Huy. Người Việt Nam trẻ này khi đào thoát khỏi Việt Nam, theo phán đoán của công luận, đã dính líu tới một vụ "tình-tiền" khá lùm xùm kéo theo nghi ngờ về sự trong sáng của đương sự. Bản thân Trần Phong Vũ đã phải đắn đo trong việc có nên đưa vào sách những luận điểm ông đã viết về họ Huỳnh. Nhưng cuối cùng ông đã giữ trọn vẹn những bài viết ấy. Khi giữ vai trò làm người giới thiệu tới người Việt hải ngoại những khuôn mặt đấu tranh trong nước, người viết phải chấp nhận một mối nguy hiểm, đó là không thể nắm chắc được bản chất thực sự của những người ấy là thế nào. "Phản Tỉnh, Phản Kháng - Thực hay Hư?" là tựa đề một tác phẩm của Minh Võ, trong đó phân tích nhiều nhân vật đã quay lưng lại với chế độ cộng sản. Trong số họ, qua thời gian, có người chứng tỏ đã thật sự đoạn tuyệt với cộng sản, nhưng có những người dường như vẫn chưa thoát được ảnh hưởng của nó. Trần Phong Vũ chắc chắn không thể không biết những khó khăn trong việc này. Vấn đề ở đây không phải là những lời chê bai của công luận, điều "khó nuốt" nhất là cảm giác bị đánh lừa. Nếu một nhân vật "phản kháng-phản tỉnh" mình vừa nhắc tới hôm qua vì cho là "thực", thì hôm nay vỡ lẽ ra, chỉ là "hư", thì cảm giác vừa cay đắng vừa buồn bã.

53 Thế nhưng, Trần Phong Vũ chấp nhận tất cả. Ông chấp nhận "nỗi đau" nếu có, để đem đến cho mọi người "niềm hy vọng". Có một người cũng cùng thái độ với Trần Phong Vũ, đó là Uyên Thao. Tủ Sách Tiếng Quê Hương, như cái tên đã chọn, chủ trương giới thiệu tới bạn đọc hải ngoại những tác phẩm của các tác giả trong nước. Những "tiếng nói từ quê hương" đôi khi bị ngờ vực là không thực sự "phản tỉnh" hay "phản kháng". Nhưng Tủ Sách Tiếng Quê Hương vẫn giữ vững con đường đã chọn, như qua phát biểu của Trần Phong Vũ: "Lập trường bất di dịch của chúng tôi: ít nữa đó là người, vật, sự việc có thật được phơi bày công khai trước công luận." Khi nhắc tới Uyên Thao, tôi muốn nói tới thể hiện thứ ba trong đức khiêm nhường của "anh Vũ": Biết để người khác giữ vai trò quan trọng hơn mình. Năm 2000, Uyên Thao tị nạn Hoa Kỳ. Vừa đặt chân lên xứ tự do, ông đã nghĩ ngay tới việc xuất bản sách. Theo ông, đó là mặt trận văn hóa bất bạo động mà người Việt hải ngoại có ưu thế nhất. Uyên Thao cho các bằng hữu biết ý định này. Và đã nhận được câu trả lời từ Trần Phong Vũ: "Bất cứ mày làm cái gì thì cũng có tao!" Đây không phải tình "tha hương ngộ cố tri", đây là tình của hai người lính cùng chiến tuyến. Trước 75, Trần Phong Vũ vừa là thày giáo vừa cộng tác với nhật báo Sóng Thần do Uyên Thao sáng lập. Hai người còn viết chung một cuốn sách, có tên "Chủ Nghĩa Anh Hùng Cách Mạng Cộng Sản". Tiếc thay, toàn bộ số sách in ra đã bị thiêu hủy trong trận tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 của cộng sản. Bản thân Trần Phong Vũ cũng có những sinh hoạt riêng. Không khó hiểu nhờ đâu ông thành công trong công việc, "anh Vũ" vừa tốt bụng, vừa tinh tế, không những viết văn hay mà ăn nói cũng tài, nên ông trở thành một tiếng nói được nhiều người nể trọng. Trần Phong Vũ qua Mỹ từ 1975, so với Uyên Thao chân ướt chân ráo mới tới, người bạn đồng tuổi này đã tạo được một vị thế không nhỏ trong cộng đồng. Tuy có nhiều ưu thế hơn bạn nhưng Trần Phong Vũ không bao giờ kiêu ngạo, ngược lại, bằng lòng giữ vai trò "thứ hai" trong Tủ Sách Tiếng Quê Hương. Và vai trò đó cũng chẳng có gì huy hoàng. Đó là những lúc phải nai lưng khiêng hàng chục thùng sách từ bãi vận chuyển về kho khi không tìm được người khuân vác. Đó là những lúc phải kiểm kê hàng trăm thùng sách trong kho bị thấm nước hay bị chuột gặm. Chưa kể những lúc khiêng khiêng vác vác trong mỗi lần ra mắt sách các nơi. Hết thảy các việc nặng nhọc ấy đều được làm bởi một ông lão ngoài 80! Nhưng nhờ Chúa thương, Trần Phong Vũ vẫn giữ được vóc dáng khỏe khoắn và giọng nói sang sảng khi tôi gõ những dòng chữ này. *** Dẫu cho tôi không giúp người tìm ra giải pháp Nhưng ít ra cũng chia sớt chút ưu phiền Để mai ngày người gõ cửa tìm quên Tôi sung sướng đón người, không ăn năn, tủi thẹn. (Mở Cửa)

54 Bốn câu thơ trên do chính Trần Phong Vũ viết1, bộc lộ rõ nhất tính khiêm nhường của ông. Suốt cuộc đời, ông luôn tìm cách đem lại "hòa bình-công lý" cho dân tộc, nhưng rồi chỉ khiêm tốn cho rằng đó là việc làm hết sức nhỏ nhoi. Câu thơ cuối, đánh động tôi nhiều hơn. Trong Kinh Dịch, có nói tới chữ "Bất Hối" - không hối hận - coi đó như mục đích cần hướng tới trong việc làm. Ví dụ: "Gây chiến là điều không thể tránh, nhưng cố gắng đừng để hối hận." Ở đây, lợi lộc, quyền uy, tự hào, là những thứ không nên hướng tới nếu so sánh với cái giá phải trả bằng xương máu đồng loại. Ở đây, chỉ có một mong muốn: Không hối hận, không ăn năn vì đã làm quá đáng những điều cần làm. Tương tự, Trần Phong Vũ không cầu mong thịnh vượng, hạnh phúc. Ông chỉ mong đừng ăn năn, tủi thẹn vì, vô tình hay cố ý, đã làm thiếu những điều cần làm. *** Thế hệ đi sau học được gì từ thế hệ đi trước? Ngày nay, các sự kiện chung quanh ta biến đổi nhanh đến mức chóng mặt. Những kiến thức ta học được chỉ sau một thời gian ngắn là trở thành lỗi thời. Nhưng, vẫn có những thứ không bao giờ cũ, không bao giờ lỗi thời, đó là những đức tính làm nên nhân cách, mà khiêm nhường là một trong những đức tính ấy. "Niềm Hy Vọng" cho Việt Nam, phải chăng là hy vọng về một Việt Nam tương lai được dựng xây bằng những con người Việt Nam với nhân cách đích thực? Trịnh Bình An Mùa Đông 2018 *** "Việt Nam Nỗi Đau & Niềm Hy Vọng" Sách dày 664 trang, in tại Đài Loan, đóng chỉ, bìa cứng, ấn phí 30 Mỹ kim. Mọi chi tiết về tác phẩm, tác giả và Tủ Sách Tiếng Quê Hương, xin liên lạc về: * Tủ Sách Tiếng Quê Hương - P.O Box 4653 Falls Church, VA uyenthaodc@gmail.com * Mr. Trần tphongvu50@gmail.com - ĐT: (949) Trích thi tập Dấu Chân Trên Cát do Tin Vui ấn hành lần đầu năm 1992 ở Nam California. Sau đó được Tủ Sách Tiếng Quê Hương chọn đưa vào Tuyển Tập Trần Phong Vũ cùng với truyện ngắn Quê Hương Còn Đó và tâm bút Bên Vực Tử Sinh xuất bản năm 2012.

55 CUỐI CÙNG A FAREWELL Cuối cùng người bỏ tôi Chiều mênh mông phố núi Nắng quái vàng lưng đồi Lệ từng giòng buồn tủi Người đi quên giã từ Hoa ngậm ngùi sân vắng Bầy sẻ nhỏ vô tư Hồn đau thương chĩu nặng Người đâu còn chốn này Khóm lan gầy ủ rũ Mảnh vườn cũ heo may Bước chân chùng bỡ ngỡ Ơi hạnh phúc trăm năm Nửa đường chim gẫy cánh Người giờ xa mù tăm Cố tìm, chăn gối lạnh Cuối cùng người bỏ tôi Đêm mịt mùng ngõ trúc Tiếng vạc khuya bồi hồi Nước mắt đầy thao thức. You have left me at last Evening spreads thin over the mountain town The sunset s glow lingers on the golden hillslopes My sulking tears roll down. You left me without saying the last words Flowers are forlorn in the deserted courtyard Little sparrows are playing innocently Sorrow weights heavily in my heart You are no longer in this place The frail orchids withered A dry gale blows in the old garden My steps are slows and bewildered O, wish of a happy hundred years Midway the bird s wings broke You are now so far away I try to search, only to find the pillows cold You at last have left me Dark night covers the bamboo lane The night heron s crowing Tears well up my eyes as I lie awake Lan Đàm (Translated by Phạm Trọng Lệ, 1997) (Trích trong tập thơ Lan Đàm, 2005)

56 LTS: Nữ sĩ Vi Khuê Trần Trinh Thuận đã cộng tác gắn bó nhiều năm với Cỏ Thơm. Tác giả Lê Xuân Nhuận viết một bài đã lâu, có nhắc kỷ niệm thời xưa với Bà và cho phép đăng lại trên Nguyệt San Cỏ Thơm số 9 này. Mời quý vị xem để nhớ về Huế, những khuôn mặt văn thi nhạc sĩ, chính trị, quân sự v v cùng những biến cố thời kỳ đầu của nền Đệ Nhất Cộng Hòa. NỮ-SĨ VI KHUÊ Lê Xuân Nhuận Trụ Sở Ðài Phát-Thanh Huế tọa-lạc ngay trên bờ Hữu-Ngạn của Sông Hương, cạnh mé Tây của đầu Cầu Trường-Tiền, đối-diện Đại-Khách-Sạn Morin bên kia Đường Lê-Lợi sát góc Đường Duy-Tân. Thuở ấy, chưa có các Ðài cấp Tỉnh, Ðài Huế là Tiếng Nói chung của cả Miền Trung, nên máy phát rất mạnh, không thua Ðài Quốc-Gia và Ðài Pháp-Á (Radio France-Asie) của Pháp ở Sài-Gòn, nghe được cả ở Miền Bắc lẫn Miền Nam Việt-Nam. Cả nước chưa có hệ-thống truyền-hình; cả Miền Trung chỉ có vài ba tờ nhật-báo ở Huế mà thời-sự thì dựa theo tin-tức đọc chậm của Ðài Sài-Gòn. Trong tình-hình đó, Ðài Huế là món ăn tinh-thần hằng ngày của đồng-bào Miền Trung, và của cả những người ở phiá ngoài Tỉnh Thanh-Hoá và ở phiá trong Tỉnh Bình-Thuận mà có gốc-gác hoặc liên-hệ đời sống ở Miền Trung. Ngoài những tiếng hát của các nam+nữ ca-sĩ mà một số về sau vào Sài-Gòn thì trở thành danh-ca của toàn-dân, giọng bình và ngâm thơ của các thi+kịch-sĩ tên-tuổi một thời, tiếng hát của các danh-ca quốc-tế trong các chương-trình nhạc ngoại-quốc do thính-giả yêu-cầu, và giọng đọc xì-xồ của mấy người Pháp trong chương-trình vô-tuyến của Service d Information, những ai đã từng nghe Ðài Huế cũng đều xác-nhận rằng người nữ-xướng-ngôn chính của Ðài này có một giọng đọc truyền-cảm vô-cùng. Giọng đọc của người con gái Huế ấy chẳng những dịu-dàng, ngọt-ngào, ấm-cúng, hấp-dẫn, mà còn trí-thức, vì không bao giờ vấp phạm lỗilầm khiến thính-giả khó chịu hoặc làm sai lạc ý-nghiã của câu văn. Những người hiếu-kỳ đi ngang qua Ðài Huế thường để ý thấy có một thiếu-nữ be-bé xinh-xinh, cư-ngụ trong một căn phòng khiêm-tốn ở tầng trên của một buồng-kho bên hông trụ-sở Ðài. Một cầu thang nhiều bậc xi-măng từ mặt đất bắc lên cửa phòng làm cho căn phòng có vẻ cao hơn, khiến các thanh-niên ái-mộ đặt cho người-đẹp và căn phòng ấy cái mỹ-danh nàng bồ-câu trên chuồng bồ-câu. Ðó chính là cô xướng-ngôn nói trên. Sau ngày hồi-cư vào đầu năm 1947, tôi thường đến Ðài Huế để góp phần vào các chương-trình kịch vô-tuyến hằng tuần, kể cả việc trình-bày một số kịch thơ dã-sử và xã-hội của tôi, trong đó nhạc-sĩ Trịnh Văn Ngân là một trong những cây ngâm tuyệt-vời. Do đó, tôi quen biết nàng bồ-câu trên chuồng bồ-câu. Tên nàng là Trần Trinh Thuận, tức nữ-sĩ Vi Khuê, một biên-tập-viên chính-ngạch có giọng nói trời cho nên kiêm luôn phần-vụ xướng-ngôn. Tuy Vi-Khuê làm việc ở một cơ-quan thông-tin tuyên-truyền đậm màu chính-trị, nhưng những bài thơ của nàng hồi đó chỉ là tâm-tình của bạn gái ở lứa tuổi hai mươi, dễ thương như con nai vàng ngơ-ngác, đạp trên lá vàng khô. *** Tôi thì lăn xả vào giữa tình-hình rối-ren cuả Quê Hương. Dù đã từng bị giặc Pháp tù đày, tôi vẫn giao-du tuy không đồng-ý với Hồng Quang, chủ-nhiệm báo Ý Dân, là người chỉ chọn vũ-lực để chống chủ-nghiã thực-dân; và vẫn cộng-tác tuy không thuận-tình với Phạm

57 Bá Nguyên, chủ-nhiệm báo Công Lý, là kẻ nhận Ðệ-Tứ thay cho Ðệ-Tam. Tôi lui+tới với Duy Sinh nhưng chưa yên tâm vì huyền-thoại văn-hoá điệp-báo của Nguyễn Bách Khoa. Tôi rất đau lòng vì đồng-bào đói khổ, nhưng chỉ hiệu-chính giùm thi-pháp chứ không tán-thành nội-dung khích-động giai-cấp đấu-tranh trong thi-tập Tiếng Nói của Dân Nghèo cuả Vân Sơn PMT (Phan Mỹ Trúc). Tôi thân+thương Trụ Vũ và Quách Thoại nhưng không hợp tính với họ vì lối sống phóng-túng của hai nghệ-sĩ thân-nhân ấy của Vi Khuê. Tôi tiếp-xúc với tác-giả nhưng không khép mình trong triết-thuyết bi-quan trong Con Thuyền Không Bến cuả Nguyễn Vũ Ban. Tôi thả hồn lên cõi siêu-nhiên nhưng không bước vào nương nhờ Cửa Thiền trong Không Bến Hạn cuả Huyền Không. Tôi ủng-hộ cả hai đường-lối phục-hồi độc-lập quốc-gia: công-nghiệp kháng-chiến vũ-trang chân-chính của người dân, và nỗ-lực ngoại-vận ôn-hoà của các chính-trị-gia không-cộng-sản trong lòng Thế-Giới Tự-Do. Riêng ở phiá bên này lằn ranh, tôi nhận thấy Cựu-Hoàng Bảo Ðại thì quá yếu mềm mà Đế-Quốc Pháp thì còn luyến tiếc giấc mơ đô-hộ Việt Nam, nên viết cuốn truyện dã-sử Trai Thời Loạn để gửi gắm ý mình, và kếtquả là tôi bị cơ-quan An-Ninh Quốc-Gia bắt giam; sau nhờ có chính-khách Cao Văn Chiểu, Giám-Đốc Thông-Tin Lê Tảo, cùng nhiều nhân-sĩ khác, can-thiệp với Thủ-Hiến Phan Văn Giáo, tôi mới được thả ra. Ðể tạo một thế đứng vững-vàng hơn, tôi thành-lập Thi+Văn Ðoàn Xây-Dựng, xuất-bản các tác-phẩm của mình và của các bạn từ Bắc chí Nam. Mới bắt đầu thì Nhất Hiên (Phan Nhật Hiến) bỏ theo Việt Minh, và nửa chừng thì Như Trị (Bùi Chánh Thời) cũng nhảy lên chiến-khu. Tôi hướng về nền dân-chủ và lòng hào-hiệp cuả Hoa Kỳ như tia sáng ở cuối đường hầm. *** Tháng 4 năm 1954, tôi vào phục-vụ tại Phòng 5 Bộ Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu với tư-cách văn-nghệ-sĩ & ký-giả bị/được động-viên chuyên-môn. Lê Ðình Thạch và Huy Vân thì kỳ-cựu, Tô Kiều Ngân gốc Nha Thông-Tin cũng đã thành quân-nhân. Tchya (Ðái Ðức Tuấn) và Nhất Lang thì được đồng-hoá sĩ-quan. Ngoài việc viết bài cho báo Tiếng Kèn, cho các đơn-vị Võ-Trang Tuyên-Truyền ở tuyến đầu, và cho chính tôi đi vận-động trong dân-nhân, tôi còn là phóng-viên chiến-tranh và biên-tập-viên chính cuả Ðài Tiếng Nói Quân Ðội tại Miền Trung. Do chương-trình phát-thanh này, mà tôi là giám-đốc, tôi mới đặt phòng-giấy ngay tại trụ-sở của Ðài Phát-Thanh Huế, và gặp mặt Vi Khuê thường-xuyên. Thay chỗ nhạc-sĩ Anh Chương, tôi cử Lâm Tuyền làm Trưởng Ban Tân-Nhạc; nhưng rồi tôi làm lơ cho Lâm Tuyền đào-ngũ vì anh quá chán chuyện đời. Tôi đưa Văn Giảng lên thay. Hà Thanh mới bắt đầu vào nghề. Những lần xe Jeep bị hư, tôi đạp xe-đạp qua chở Kim Tước từ cư-xá Nha Thông-Tin ở bên kia cầu Trường Tiền. Cặp Châu-Kỳ Mộc-Lan của giới ca-nhạc, cũng như cặp Hoàng-Pha Phương-Khanh của giới văn+thơ, cũng đã từng ở đây. *** Rồi Thoả-Ước Geneva ra đời. Trong hội-nghị quốc-tế ấy, có ba nhân-vật Việt-Nam đã được thế-giới chú ý hàng đầu: Cô Thiên-Hương, con gái của nhà văn Hồ Hữu Tường, là nữ ký-giả duy-nhất, nói được nhiều ngoại-ngữ và trẻ đẹp nhất trong giới truyền thông; Cụ Võ-Thành-Minh, một lão-thi-sĩ, từ Huế đến, đã bí-mật vượt hàng rào Cảnh-Sát Thụy-Sĩ vào cắm trại trên Bờ Hồ Leman trước hội-đường, tuyệt-thực thổi sáo nói lên nỗi lòng của người dân Việt-Nam mong-muốn Thống-Nhất và khao-khát Tự-Do; và Ông Nguyễn-Quốc-Ðịnh, Ngoại-Trưởng cầm đầu Phái-Ðoàn Quốc-Gia Việt-Nam của chính-phủ Bảo Ðại, đã từ-chức để khỏi ký tên vào văn-bản thừa-nhận việc đất nước bị qua-phân. Thủ-Tướng Ngô Ðình Diệm cử Ông Trần-Văn-Ðỗ đến thay. Pháp và Việt-Minh thoả-thuận ngưng bắn, lấy vĩ-tuyến 17 ngang sông Bến Hai làm ranh-giới Bắc Nam. ***

58 Ðại-Tá Trương Văn Xương, Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu, thuộc cánh Tổng-Tham-Mưu-Trưởng là Trung- Tướng Nguyễn Văn Hinh (con của cựu Thủ-Tướng Nguyễn Văn Tâm, thân-pháp), mở một chiến-dịch đưa quân từ Huế vào tiếp-thu các Tỉnh phiá trong. Theo chương-trình chính-thức thì Thủ-Tướng Diệm sẽ từ Sài-Gòn ra chủ-toạ lễ thiết-lập Chính-Quyền Quốc-Gia tại vùng đất mới lấy lại này. Theo kế-hoạch riêng của cặp Hinh+Xương thì Diệm, trên đường đi từ Huế vào Quảng-Ngãi, sẽ bị lính và dân dàn chào bằng tiếng hô Đả Đảo cùng với trứng thối và cà chua. Câu hỏi nổi bật là Mười vé phi-cơ cho gia-đình họ Ngô, hay là mạng sống cuả cả trăm ngàn binh sĩ Quốc-Gia? Các bức tường vẽ khẩu-hiệu đã được xây lên; và biểu-ngữ, bíchchương, cùng truyền-đơn liên-hệ đã được chuẩn-bị sẵn dọc đường rồi. Phòng 5 Quân-Khu đương-nhiên đảm-trách công-tác tác-động tinh-thần này. Thành-Phố Huế ngẫu-nhiên được chia thành hai trận-tuyến. Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu thì đóng trong Ðại- Nội, phiá Bắc của Sông Hương; nhà Ông Ngô-Ðình-Cẩn, trung-tâm quy-tụ cuả gia-đình họ Ngô, thì nằm trên Xóm Phú-Cam, phiá Nam của Sông Hương. Bộ-phận Tiếng Nói Quân-Ðội của tôi lại đặt trụ-sở tại Ðài Huế, trên bờ phiá Nam. Ðể biểu-dương lực-lượng, Quân-Khu phái đến hai chiếc xe-tăng, án-ngữ hai bên sân, trước Ðài Phát-Thanh. Các chương-trình vô-tuyến dân-chính chỉ có nội-dung lập-lờ, thông-tin hàng-hai. Ở Quảng-Ngãi, cán-bộ Việt Minh gài lại xúi giục dân-chúng phản-kháng lực-lượng tiếp-thu, vì thấy vẫn có Cố-Vấn Pháp trong hàng-ngũ Quốc-Gia; súng nổ, người chết; Ủy-Hội Quốc-Tế Kiểm-Soát xen vào. Ðảng Cần-Lao, qua nhạc-sĩ Ngọc Linh, móc nối tôi. Tôi không theo đảng-phái nào hết, nhưng quyết-định ủng-hộ Thủ-Tướng Diệm, với chủ-trương Ðả Thực, Bài Phong, Diệt Cộng, để được sự giúp-đỡ cuả Hoa-Kỳ. Quốc-gia giàu mạnh nhất thế-giới này đã dìu-dắt Tây- Ðức, nâng-nhấc Nhật-Bản, và cứu-vớt Ðại-Hàn. Trung-Tá Nguyễn Văn Bông, Tư-Lệnh Mặt Trận Nam Ngãi, đã phát-biểu với Trung-Tá Nguyễn Văn Tố, Phó Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu, trong khi ổng lái xe ra đón Tố vào: Mình cộng-tác với thằng giàu thì hẳn sướng hơn phục-vụ cho thằng nghèo! Tôi thảo truyền-đơn, tài-liệu, viết bài tuyên-truyền cho chí-sĩ họ Ngô. Bộ Tham-Mưu của Xương không tin-tưởng ở tôi. Họ lập hẳn một Ðài Phát-Thanh riêng, trong Thành-Nội - dân-chúng gọi là Đài bí-mật - để tự mình phổ-biến lập-trường chống-diệm và hô-hào dân-chúng nổi lên. Không còn bị Cấp Trên ràng buộc, tôi công-khai dùng Tiếng Nói Quân Ðội để hậu-thuẫn cho Diệm và Hoa-Kỳ. Hồi ấy, chỉ có một số trong giới Nho-học lớn-tuổi nghe danh Ông Ngô-Ðình-Khả, còn đa-số dân-chúng nói chung thì ít ai biết tên Ông Ngô-Ðình-Diệm, ngoại-trừ một nhóm trong giới Kitô-Giáo có đọc tờ báo Tinh Thần thời-gian gần đó. Chương-trình phát-thanh của tôi có ảnh-hưởng rất lớn trong quần-chúng, vì làn sóng của Ðài Huế phát đi rất mạnh và xa, trong lúc Ðài bí-mật thì nhỏ và yếu, chỉ lẩn-quẩn vùng gần, lại khi-có khi-không. Tôi đã lèo-lái để người dân xứ Huế, nghe Đài của tôi và trông thấy hai chiếc xe-tăng trấn đóng trước Ðài mà tưởng và tin là phe mạnh nhất trong Quân-Lực đã đứng hẳn qua phía Diệm, nên biệt-phái chiến-xa đến cho tôi để bảo-vệ Tiếng Nói của mình, chống lại phe yếu thế Hinh Xương. Toàn-quốc, nhất là Sài-Gòn, hướng về xứ Huế, gốc-gác của họ Ngô, lấy đó làm chỉ-dấu mà lên tinh-thần. Từ đó, các phần-tử thân-diệm mới dám đứng ra khỏi vòng giới-hạn của mình mà hoạt-động rộng-rãi trước mắt mọi người. *** Trong những tháng ngày gay-cấn ấy, cứ mỗi lần từ các cuộc hành-quân hoặc từ các hoạt-vực bên ngoài trở về với phòng-giấy tại Ðài, tôi lại cảm thấy nhẹ-nhõm cả người, khi gặp mặt lại những nữ-nghệ-sĩ trẻ đẹp tươi vui, như bướm, như hoa, tô thắm cuộc đời. Trong vườn thanh+sắc ấy, Vi Khuê của giới thi+văn vẫn gầngũi với tôi hơn các bạn bên giới cầm+ca. Nhưng nàng bồ-câu vẫn vô-tư-lự như mọi ngày, đâu biết đầu-óc tôi đã bỏng-rát những tính-toán mưu-mô, thân-xác tôi đã bầm-dập những gian-nan nguy-khốn, và chỉ trở về vănphòng để thư-giãn cho những căng-thẳng thần-kinh.

59 *** Thủ-Tướng Ngô Đình Diệm thắng phe Hinh+Xương. Hoa-Kỳ mở Phòng Thông-Tin tại Đại-Khách-Sạn Morin. Giám-Ðốc Thompson A. Grunwald là viên-chức dân-sự Mỹ đầu tiên đặt chân đến Miền Trung. Tôi tổ-chức dạy tiếng Anh trên Ðài, có Tôn Thất Ðát phụ-lực; tham-gia thường xuyên là Thompson, và bất-thường là bất-cứ người ngoại-quốc nào nói tiếng Anh mà tôi gặp được, bắt đầu từ Đại-Tá Richardson, Trưởng Phái-Ðoàn quân-sự Hoa-Kỳ T.R.I.M. Lớp dạy tiếng Anh của tôi là lớp đầu tiên trong lịch-sử dạy tiếng Anh qua làn sóng truyền-thanh cho thính-giả Việt-Nam. Nguyễn Cửu Tú (Phó Giám-Đốc Đài), Thompson và Nhuận Ðại-Tá Nguyễn Quang Hoành lên thay Trương Văn Xương, rồi vì bất-đồng chính-kiến nên lại nhường chỗ cho Thiếu-Tướng Lê Văn Nghiêm. Ðại-Úy Ngô Văn Hùng thay thế nhạc-sĩ Ngọc Linh, làm Trưởng Phòng 5. Văn Giảng ra đi, tôi cử Lê Trọng Nguyễn lên thay. Nguyễn vừa dịch tài-liệu vừa sáng-tác nhạc; bên cạnh giai-phẩm Nắng Chiều là Hoan-Hô Lê Thiếu-Tướng theo lệnh của Hùng (bắt chước Hoan Hô Ngô Thủ-Tướng ). Ðể giúp Tôn Thất Ðậu chọn nhạc ngoại-quốc do thính-giả yêu-cầu, tôi liên-lạc với hàng chục Toà Ðại-Sứ ở Sài-Gòn, viết lời mở đầu về nền âmnhạc của mỗi nước, và đặc-tính của mỗi bản nhạc, để giới-thiệu trước khi trình-bày. Giáo-Sư Lê Hữu Mục có đến chơi đàn; nữ-sĩ Như Thu đến góp bài; thi-sĩ Hồ Ðình Phương đến ngâm thơ. Trình-bày Mục Thi-Ca của tôi là Trần Anh Tuấn, Ðinh Lợi, Lan Hương, và Tâm Thanh (Tôn Nữ Kim Ninh). *** Ở các Tỉnh Cao-Nguyên và miền núi Tỉnh Quảng-Ngãi, phong-trào đòi tự-trị của người Thượng nổi lên. Chính-Quyền Diệm gom các phần-tử chủ chốt Thượng Tự-Trị về tập-trung ở đầu Cầu Nam-Giao. Một Nha Chiến-Tranh Tâm-Lý được lập nên, đặt trụ-sở ở đầu Cầu Phú-Cam. Đại-Úy Hùng kiêm-nhiệm Nha này. Tôi cũng kiêm thêm một số phần-vụ ở cơ-quan này, nên dời bàn-giấy đến đây. Bộ Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu dời tổng-hành-dinh qua Hữu-Ngạn sông Hương. Nước Việt-Nam Cộng-Hoà, với sự hậu-thuẫn của Hiệp-Chủng Quốc Hoa-Kỳ, được Thế-Giới Tự-Do nhìn-nhận. *** Trong những năm trẻ-trung của Nền Ðệ-Nhất Cộng-Hòa ấy, Liên-Xô, Hoa-Cộng và Cộng-Sản Bắc-Việt, là những bên chủ-trương chia đôi đất nước Việt-Nam, chưa sẵn-sàng thực-hiện vũ-trang xâm-lược Miền Nam, mà Hoa-Kỳ thì viện-trợ tối-đa cả tinh-thần lẫn vật-chất cho con bài của mình và cái tiền-đồn mới lập này của họ ở Ðông Nam Á, nên tình-hình an-ninh khả-quan, chế-độ bắt đầu vững-vàng. Thế là nhiều người liền tranh nhau mưu-quyền thủ-lợi riêng. Hầu hết chiến-công giữ nước, cũng như thành-tích dựng nước, được dùng để dâng lên Ngô Tổng-Thống, chỉ là những cử-chỉ qụy-lụy, những lời-lẽ tâng-

60 bốc, những thái-độ tôn-thờ, dành cho toàn-thể gia-đình họ Ngô, được các tay chân thân-tín của Cụ xét thấy êm tai đẹp mắt nên tường-trình lên mà thôi. Ông Ngô-Ðình-Khôi, bào-huynh của Diệm, từ-trần đâu cả chục năm trước kia, không ai biết đến; nay dời mộ-phần thì có cả tá cấp-cao chức-lớn gây lộn nhau để giành làm Trưởng Nam danh-dự hầu-cận bên quan-tài; nhiều năm về sau, hễ nhắc đến ông, nhiều kẻ còn khóc-lóc thảm-thương. Ông Ngô-Ðình-Luyện làm đại-sứ tận bên nước Anh, người dân không hề thấy mặt, thế mà khi nhắc đến ổng thì ai nấy đều vẽ-vời ra vô-vàn tài-cao đức-trọng, để ngợi-ca cho vừa lòng thế-gia. Huống chi các Cố Vấn hùng-cứ trong nước mà uy-quyền có khi lấn át cả ông anh. Dù không muốn nhập-cuộc, đa-số vẫn phải nhắc đi nhai lại, để được yên thân, những sáongữ đã thành công-thức chót lưỡi đầu môi: Nhờ ơn Ngô Tổng-Thống và các bào-huynh, bào-đệ cuả Người! Thế là lắm kẻ được đặc-cách tiến-chức thăng-quan. Trung-Tướng Thái Quang Hoàng thay thế Lê Văn Nghiêm. Nhà văn Bùi Tuân trở thành Dân-Biểu, không còn viết thuê xã-luận cho Ðài của tôi, mà diện lễ-phục lái xe-hơi đi diễu khắp phố-phường. Nhạc-sĩ Ngô Ganh không còn lập-dị, mặc bộ com-lê may bằng dạ chăn đi dưới nắng hè, bên trong là chiếc áo ngủ cổ kiềng mà mỗi lần đi đâu thì chỉ cần gài thêm vào đó một cái cổ áo trắng có đính sẵn ca-vát là khỏi phải tốn thêm nguyên cả chiếc áo sơ-mi; bây giờ ảnh làm Quản-Ðốc Ðài, kiêm Ðại- Diện Nhân-Dân Miền Trung, ngồi chung dãy ghế danh-dự với Ðại-Biểu Chính-Phủ, Tư-Lệnh Quân-Khu, v.v... trong những buổi lễ công-cộng trên khán-đài Phu Văn Lâu. Trong lúc đó, tôi bị cơ quan An-Ninh Quân-Ðội thẩm-vấn tới, điều-tra lui. Họ vin vào cớ tôi đã là Trưởng Ðài Quân-Ðội từ khi còn Hinh+Xương. Một hôm, Tổng-Thống Diệm ra Huế và ở lại đêm. Sáng sau, tôi nghe hàng-xóm kháo chuyện với nhau: May mà bắt được, chứ không thì quân khủng-bố đã ám-hại Tổng Thống đêm qua rồi! Ðến sở, tôi hỏi Đại-Úy Ngô Văn Hùng thực/hư thế nào; ổng liền gọi điện-thoại cho An-Ninh Quân-Đội, và cơ-quan này đến bắt tôi. Truy-cứu mới biết: chính-quyền sở-tại và thân-tộc có tổ-chức nhiều vòng đai an-ninh xung quanh nhà-thờ Phú Cam, nơi Diệm đến tiếp-xúc với giáo-dân; có một nhân-viên chìm, thuộc vòng-đai trong, vì đến trễ nên bị chận soát ở vòng-đai ngoài; thấy y có vũ-khí giấu trong người, đồng-bào tưởng lầm là Việt Minh. Chỉ có thế thôi, nhưng vì Diệm đã được thần-thánh-hoá, nên câu hỏi của tôi, dù là để phối-kiểm với mục-đích dùng Đài Quân-Đội mà trấn-an dư-luận đồng-bào, cũng đã bị xem là một sự xúc-phạm tày trời. Ngày xưa, phần lớn văn-nghệ-sĩ đều phục-vụ trong ngành truyền-thông, nên tôi đã từng mong được chuyển nghề qua làm việc trong cơ-quan Thông Tin, để được quần-chúng độc-giả khán+thính-giả trọng-vọng hơn. Bây giờ đã ở trong ngành Tác Ðộng Tinh Thần, dù của Quân Lực nhưng cũng là thông-tin tuyên-truyền, tôi mới thấy mặt trái của tấm huy-chương. Lần đó, nhà bác-học Bửu Hội, thân-thích của Cựu-Hoàng Bảo Đại, nhân dịp từ Pháp về thăm nhà, đến nói chuyện về y-học với đồng-bào Huế tại Rạp Chiếu Bóng Morin. Một số văn+thi-sĩ tùng-sự tại Nha Thông-Tin Trung-Phần đã nêu lên nhiều câu hỏi về thời-sự, mục-đích là để gài Hội phải phát-ngôn ủng-hộ Diệm, hoặc ngược lại thì có bằng-chứng để dễ ra tay. Mặc dù Hội đã nhấn mạnh rằng ông không về Việt Nam với mục-đích chính-trị, và xin miễn đề-cập đến các vấn-đề ngoài phạm-vi y-học, đồng-thời số đông trong cử-tọa cũng đã huýt gió phản-đối những câu hỏi lạc-đề, nhưng nhà văn Ðỗ Tấn vẫn trơ-tráo đứng dậy đặt thêm cho được vài câu hỏi nữa. Bác-Sĩ Trần Văn Thọ, Tổng Giám-Ðốc Thông-Tin, mà còn tranh tài với Bác-Sĩ Trần Kim Tuyến, Giám-Ðốc Nha Nghiên-Cứu (tức cơ-quan Tình-Báo) thuộc Phủ Tổng-Thống; thảo nào mà nhà-văn này cũng không chịu lép vế các nhà-văn khác trong thành-tích bao vây những ai bị nghi là, bị cho là có thể đối-kháng chế-độ đươngquyền. Một số nhà-thơ giành nhau chức-vụ lãnh-đạo ngành Thông-Tin, khởi đầu bằng địa-vị Chủ-Tịch Hội Văn- Nghệ-Sĩ & Ký-Giả Miền Trung. Nhà-thơ Đỗ Tấn Xuân nhai lại cái bã Tố Hữu tán-tụng Staline, in hẳn cả một tập thơ - nhan đề Mùa Hoa Sim Nở - trong đó có câu Tiếng đầu lòng con gọi: Cụ Ngô! Họ sợ vướng tôi nên tìm cách loại tôi, lùng thu thi-tập Ánh Trời Mai của tôi, v.v...

61 Thế nhưng hầu hết các nam+nữ tân+cổ+nhạc thi+ca+kịch-sĩ cộng-tác với tôi thì chỉ thấy tôi là một nhà thơ trẻ trai, hiền-lành, hòa-đồng với họ trong từng bộ-môn, chứ không biết gì về những khó-khăn của tôi. Họ cũng không quan-tâm gì đến mục-đích chính-trị của Ðài, mà lại đinh-ninh rằng trọng-tâm hoạt-động và lý-do cùng ý-nghĩa của sự hiện-diện của Ðài chỉ là phần diễn-ngâm ca-tấu giải-trí văn-nghệ mà họ cống-hiến cho số thính-giả gần xa ái-mộ họ mà thôi. Vi Khuê thì trầm-lặng hơn họ và có một thế đứng riêng. Nàng không ca hát nhưng số khán+thính-giả địaphương hằng ngày háo-hức đến xúm dán mũi vào cửa kính để xem tận mắt các nữ-danh-ca hát thật cũng như dượt bài, đều không bỏ lỡ cơ hội nhìn ngắm cô biên-tập-viên duyên-dáng của Ðài. Các người-đẹp trình-diễn thì chỉ xuất-hiện vào giờ có chương-trình liên-quan, còn Vi Khuê thì có mặt ở đó suốt ngày, để những lúc trở về Ðài tôi nhìn thấy nàng mà dịu-vợi ưu-tư... *** Thế rồi tôi giã-từ quân-ngũ, rời khỏi Ðài, ra ngoài hoạt-động văn-nghệ nhiều hơn trong một môi-trường rộng-lớn và khoảng-khoát hơn. Ngoài các nỗ-lực tích-cực trong Quân-Ðội và sau đó là trong ngành Cảnh-Sát Công-An, tôi còn hăng say dùng hoạt-động văn-nghệ riêng tư để góp phần xây-dựng và củng-cố chế-độ Ðệ-Nhất Cộng-Hoà, thí-dụ: viết báo, đi thuyết-trình trong Cảnh-Sát & Công-An và ngoài dân-chúng; sáng-tác và trình-diễn khắp nhiều Tỉnh vở kịch thơ Gươm Chính-Nghiã của tôi đề-cao Tổng-Thống Ngô Ðình Diệm, kêu gọi sĩ-phu khắp nơi, đặc-biệt từ Miền Bắc, về với Chính-Nghiã Miền Nam; sáng-tác và xuất-bản tập thơ Tuần Trăng Mật vinh-danh tình yêu vợ+chồng, phù-hợp với nguồn cảm-hứng từ Luật Gia-Ðình của Bà Ngô-Ðình Nhu... Tôi giữ Mục Vườn Thơ trên tuần-báo Rạng Ðông của Lê Hữu Mục, họp làm đặc-san với Tôn Thất Dương Tiềm, xuất-bản thơ của các bạn gần xa và của chính mình, kết-thân với các nhóm như Hồ Mộng Thiệp, Thanh Phượng, Anh Ðộ, Tô Như, Quốc Dân... ở Ðà-Nẵng; đồng nhóm Xây-Dựng là Xuân Huyền, Tường Vi, Huyền Chi, Hoài Minh, Bàng Bá Lân, v.v... ở Sài-Gòn. Trong đó, tôi giữ mục Hội Thơ (do Hồ Đình Phương trung-gian) trên tuần-báo Văn-Nghệ Tiền-Phong của Hồ Anh, và có nhạc-sĩ Lê Mộng Bảo giúp phần ấn-loát phát-hành sách và đặc-san. Tôi tái-tổ-chức họp bạn hằng tuần; ngày xưa thì có Nhân Hậu, Vĩnh Thao, Hạnh Lang, Trúc Lang, Võ Ngọc Trác, Xuân Dưỡng, Giang Tuyền, Kiêm Minh, Lê Mộng Hoà, Nhân Nam, v.v...; bây giờ thì có Hoàng Hương Trang, Tuyết Lộc, Kim Lan, Nguyên Xuân Tứ, Hữu Ðỗ, Khang Lang, Hoài Tâm, Hương Thu, Xuân Nghị, Thanh Thuyền, Thế Viên, v.v...; có lần có cả Trần Minh Phú từ Hàng Me đến, Diên Nghị từ đơn-vị về, Hồ Ðình Phương từ Long-An ra... Ðại-Hội Văn-Hoá Toàn-Quốc dưới thời Ðệ-Nhất Cộng-Hoà (khai-mạc ngày 11 tháng 1 năm 1957) đã đem lại cho tôi một phần thưởng tinh-thần: Xây-Dựng cuả tôi được nhìn-nhận là một cành của Cây Ða Văn-Hiến Việt-Nam. Trong thời-gian đó, Vi Khuê lên xe hoa. Và đôi uyên-ương đưa nhau lên xây tổ ấm trên đồi núi Ðà-Lạt sương mù, bỏ lại chuồng bồ câu trống lạnh như nỗi thiếu vắng trong lòng của những ai ai... *** Sau khi bản-thân tôi gặp nhiều khó-khăn vì không chịu cải-đạo; sau khi người ta giết chết cả hai vợ+chồng thầu-khoán Nguyễn Văn Yến; sau khi người ta dùng ngay phòng họp là nơi tôi hướng-dẫn học-tập Ðạo-Ðức của Ngô Tổng-Thống cho các cấp chỉ-huy Cảnh-Sát Huế trong các buổi học-tập Chính-Trị và Công- Dân Giáo-Dục hằng tuần, để làm nơi tra khảo và giết chết thầu-khoán Nguyễn Ðắc Phương rồi ném xác xuống sân tri-hô là Phương nhảy lầu tự tử; sau khi nhận được vô-số bài-vở của anh+chị+em Cảnh-Sát Công-An gửi về tôi để xin đăng lên tờ nội-san Phục Vụ do tôi chủ-biên, nội-dung tố-cáo nhiều, quá nhiều, hành-động thamlam, tàn-bạo, kể cả giết người, dựa quyền cuả ông Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn; v.v... Do đó, tôi đã liều-lĩnh công-khai nêu lên một số khuyết-điểm của chế-độ họ Ngô, trong một buổi học-tập tại cơ-quan vào ngày Lễ Hai Bà Trưng ( ).

62 Biến-cố này đã gây chấn-động cả Miền Trung. Kết-qủa là tôi bị quản-thúc điều-tra ba tháng, gây tranh-cãi giữa hai ông Cố-Vấn Cẩn và Nhu... Rồi tôi bị đày lên Cao Nguyên vùng nước độc và nguy-hiểm với bụi đỏ mù trời. Đời sống chính-trị tạo thi-hứng cho tôi sáng-tác và đăng báo rời-rạc các bài thơ mà sau Cách-Mạng mới được gom lại ấn-hành thành tập Với Thượng-Ðế, tập thơ thứ bảy cuả mình. *** Qua đến Ðệ-Nhị Cộng-Hoà, tôi cũng lại gặp rắc-rối, vì tôi công-khai phản-đối những sai trái, nhất là chiều-hướng quân-phiệt trong chế-độ Nguyễn Văn Thiệu, bằng một bức thư trần-tình gửi lên Cấp Trên. Sau cùng tôi được (hay bị?) đưa về lại Miền Trung để giải-quyết giùm (và tôi đã giải-quyết được) những khó-khăn nội-bộ tại vùng đất này mà trước đó Trung-Ương hầu như bó tay... Giờ đây, tôi trở về Huế lại. Ngồi trên ghế đá công-viên trước Ðài Phát-Thanh Huế, tôi nhắm mắt mường-tượng những gì đã xảy ra tại đây vào buổi tối phản-ứng của giới Phật-Tử bị cấm treo cờ Phật-Giáo vào ngày lễ Phật, PhậtGiáo-Đồ tập-trung, chất nổ, người chết, sức mạnh quần-chúng... Rồi lịch-sử đã sang trang... Lắc đầu xua đi những ảnh-hình thế-sự, tôi thả hồn sống lại quãng đời thơ trẻ đã qua. Những khuôn mặt cuả Huế một thời, mà tôi nhớ thêm: các nhà văn Bửu Kế, Phan Khoang...; các nhà thơ Phan Văn Dật, Nguyễn Anh, Tô Kiều Ngân...; nhà khảo-cứu Bửu Cầm; hoạ-sĩ Phi Hùng; nhà dựng kịch Lê Hữu Khải; các kịch-sĩ Vũ Ðức Duy, Vĩnh Phan, Minh Mão, Hà Nguyên Chi...; các nhạc-sĩ Nguyễn Hữu Ba, Lê Quang Nhạc, Ưng Lang, Hoàng Thi Thơ, Lê Tất Vịnh, Hoàng Nguyên...; các ca-sĩ Minh Trang, Thanh Nhạn, Tôn Thất Niệm, Ngọc Cẩm Nguyễn Hữu Thiết, Bạch Yến, Thiện Nhân, Hương Việt, Diệu Hương... Tôi không gặp lại Phương Như, Bằng Trình của Huế, Anh-Ðộ Ðỗ Cẩm Khê của Ðà-Nẵng, và mất liên-lạc với Huyền-Chi từ sau khi nàng lấy chồng. Trước đó, bóng người áo trắng Kiều-Ngọc đã vuột khỏi tầm tay tôi. Nhưng tôi vẫn còn nhớ rõ buổi hoàng-hôn ấy tôi lái xe Lambretta-2-bánh chở Trần Dạ Từ từ khách-sạn Khê-Ký lên Bến-Ngự để anh gặp Nhã Ca, và buổi sáng chủ-nhật kia Hy Văn Mộng đến nhà tôi chơi bị cháu nhỏ tè ướt cả quần khi anh bế nó lên hôn. Có những bạn thân không còn, hoặc còn nhưng phai thân... Nhưng Vi-Khuê thì vẫn còn là một người bạn thân. Cuả vợ+chồng chúng tôi. Trong cuốn lưu-bút Kỷ-Niệm Vàng mà tôi giữ kỹ, bây giờ vẫn còn tờ giấy bạc anh gánh dưa một đồng mới toanh mà Vi-Khuê đã ký tặng mừng tuổi tôi vào dịp Tết năm nào. Hình-ảnh ấy càng đậm nét khi nàng đưa Vân-Anh, cả hai phất-phơ tà áo màu qua cánh đồng An-Cựu vàng rực mùa lúa gie, đến thăm tôi vào thuở ban đầu, để rồi sau đó thì nàng làm chứng-nhân cho cuộc lễ thành-hôn của tôi với người bạn thân ấy của nàng. *** Giờ đây Thành-Phố Huế đã bị giáng bậc xuống làmthị-xã, tước mất - ngoại-trừ về phần văn-hóa và lịchsử - cái địa-vị thủ-phủ của Miền Trung; hoa-khôi Ðồng Khánh ngày càng hiếm-hoi; Ðài Huế xuống cấp làm Ðài Tỉnh nhỏ; các xướng-ngôn-viên và ca-sĩ chỉ gợi tiếc những giọng oanh vàng và hương sắc ngày xưa... Ðệ-Nhất Cộng-Hoà thế kia, Ðệ-Nhị Cộng-Hoà thế này. Mỗi chế-độ có những vấn-đề khác nhau, nhưng đều giống nhau ở vận nước chông-chênh.

63 Liệu những biến-thiên của cuộc đời sẽ còn đem lại những đổi thay nào khác nữa cho Đồng-Bào, cho Quê-Hương? Huế vẫn còn đây, Ðài Huế vẫn còn đây, và tôi trở về ngồi đây. Nhưng tôi không còn tìm thấy lại được, sau mỗi chặng đường - cũng vẫn gian-nan một mình chống-chọi với ma-quỷ còn sót lại trong thời buổi mới - sự thanh-thản, dù trong chốc-lát, cho tâm-hồn mình, như những ngày nào xa xôi... LÊ XUÂN NHUẬN Gia đình nữ sĩ Vi Khuê Viện Đại Học Đà Lạt trước 1975

64 MỎNG MANH CÁNH BƯỚM Nhạc: Nguyễn Thường Duy Lời: Thường Duy & Trường Đinh FRAGILE WINGS OF A BUTTERFLY Sorrows recall like rain-stain in the eyes Endless whisper from memory Burst into tears as I bite my lips Grieve through the night as I try to redraw your smile From awake remembrance, story of your beautiful wings Heart drowns in pain as I listen to the hurt of its beats Shatter once again, shatter once again Sky cries as I miss your smiles On that darkened day, our clouds changed shapes In sudden time you lost your own way Left me alone bitterly unheard Sadly soulful winds face down to set sail upon mournful waves Ocean foams scatter into grief, into grief Many unforgetful nights, I sheltered in shadows alone As I tried hard to repaint the colour of your thin wings Tears curtained my eyes, tears curtained my eyes You were so far to be touched from my hands Like farewell leaves losing last words I can't search alone for our dreams of Honey Sea Without you in life... Without you in life... Without you in life... Without you in life... Without you in life... Without you in life... Trường Đinh UK, sương mù già 2018 Nỗi đau còn đây Dòng lệ nóng vẫn hoen mi sầu Thì thầm suốt đời trong ký ức tôi Nỗi đau đầy vơi Để rồi nhớ nhau suốt đời Nỗi đau trong đêm Nụ cười ai xa xôi bay quanh giấc mơ Khơi dậy bao sầu nhớ ngày qua Chuyện đời đã chắp cánh hoa vô thường Đau xót trong tim Nhịp đập vô tình ai còn nức nở khóc giữa đêm Đã vỡ tan lòng nhau Tháng năm ôi niềm đau Thiên thu ơi thương nhớ đôi mắt ai Khi chúng ta chia tay Mây đen cũng ngập trời Một phút giây thôi Xa cách mãi thiên thu Thế gian mình tôi, đắng cay nay mình tôi Gió ơi bay về đâu Buồm đã khuất xa chân trời Đã theo sóng ra khơi Cuốn bao nhiêu nỗi đau trong đại dương... trong đại dương... Biết bao kỷ niệm về trong đêm khuya âm thầm Ôi bóng đêm lặng câm Nỗi niềm nhớ thương trao về ai Một áng mây trong chiều đã sắp tan Nước mắt rơi tràn mi... Nước mắt rơi tràn mi... Thôi nay đã xa Còn nữa đâu cơn mê say Như cánh bướm bay tiếc thương cuối trời Đêm nay không còn ai mơ giấc mơ đắm say tình yêu Mãi mãi không còn nhau... Mãi mãi không còn nhau... Mãi mãi không còn nhau... Mãi mãi không còn nhau... Mời nghe Fragile wings of a butterfly trong phần nhạc

65

66 Mời nghe Em Hà Nội trong phần nhạc

67

68 NGUYỆT SAN CỎ THƠM ONLINE SỐ 9 NĂM 2018

KINH PHÁP CÚ Illustrated Dhammapada Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka Tâm Minh Ngô Tằng Giao CHUYỂN DỊCH THƠ

KINH PHÁP CÚ Illustrated Dhammapada Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka Tâm Minh Ngô Tằng Giao CHUYỂN DỊCH THƠ KINH PHÁP CÚ Illustrated Dhammapada Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka Tâm Minh Ngô Tằng Giao CHUYỂN DỊCH THƠ KINH PHÁP CÚ MINH HỌA: Mr. P. Wickramanayaka (Illustrated Dhammapada) CHUYỂN DỊCH THƠ:

Chi tiết hơn

Mấy Điệu Sen Thanh - Phần 4

Mấy Điệu Sen Thanh - Phần 4 Mấy Ðiệu Sen Thanh: Phần 4 PHƯƠNG HẢI SANH Đồng tử Phương Hải Sanh là con của cư sĩ Phương Dưỡng Thu ở Hương Cảng. Dưỡng Thu ưa làm việc phước thiện, sau tuổi trung niên lại chuyên tâm hướng về Tịnh độ.

Chi tiết hơn

Đôi mắt tình xanh biếc 1 THÍCH THÁI HÒA ĐÔI MẮT TÌNH XANH BIẾC NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA VĂN NGHỆ

Đôi mắt tình xanh biếc 1 THÍCH THÁI HÒA ĐÔI MẮT TÌNH XANH BIẾC NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA VĂN NGHỆ Đôi mắt tình xanh biếc 1 THÍCH THÁI HÒA ĐÔI MẮT TÌNH XANH BIẾC NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA VĂN NGHỆ 2 Thích Thái Hòa Đôi mắt tình xanh biếc 3 MỤC LỤC THAY LỜI TỰA... 5 BÁT NHÃ VÀ TÌNH YÊU... 7 NỔI BUỒN MÂY KHÓI...

Chi tiết hơn

LỜI RU CHẠM MẶT TRỜI

LỜI RU CHẠM MẶT TRỜI LỜI RU CHẠM MẶT TRỜI Thích Thái Hòa -----{----- LỜI RU CHẠM MẶT TRỜI Chùa Phước Duyên, Huế - 2016 - NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC Mục lục Hưng và cá...7 Giọt nắng chiều và mướp...10 Cái đẹp từ bên trong...13 Lời

Chi tiết hơn

Chương 16 Kẻ thù Đường Duyệt càng hoài nghi, không rõ họ đang giấu bí mật gì. Tại sao Khuynh Thành không ở bên cạnh nàng, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì

Chương 16 Kẻ thù Đường Duyệt càng hoài nghi, không rõ họ đang giấu bí mật gì. Tại sao Khuynh Thành không ở bên cạnh nàng, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì Chương 16 Kẻ thù Đường Duyệt càng hoài nghi, không rõ họ đang giấu bí mật gì. Tại sao Khuynh Thành không ở bên cạnh nàng, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Nữ thí chủ, Khuynh Thành vốn là một vũ khí chất chứa

Chi tiết hơn

Cúc cu

Cúc cu HỒI XX Oán Thù Tương Báo, Vĩnh Kết Tơ Duyên Vệ Thiên Nguyên đoán chắc là Phi Phụng nên tinh thần vô cùng hưng phấn, chàng liếc mắt nhìn qua thì quả nhiên là nàng, chàng vội kêu lên: - Phi Phụng, nàng đến

Chi tiết hơn

Thơ cậu Hai Miêng Đêm thu bóng nguyệt soi mành, Bâng khuâng dạ ngọc chạnh tình ngâm nga. Xét trong thế sự người ta, Tài ba cho mấy cũng là như không.

Thơ cậu Hai Miêng Đêm thu bóng nguyệt soi mành, Bâng khuâng dạ ngọc chạnh tình ngâm nga. Xét trong thế sự người ta, Tài ba cho mấy cũng là như không. Thơ cậu Hai Miêng Đêm thu bóng nguyệt soi mành, Bâng khuâng dạ ngọc chạnh tình ngâm nga. Xét trong thế sự người ta, Tài ba cho mấy cũng là như không. Cho hay thiên địa chí công, Dữ lành báo ứng vô cùng

Chi tiết hơn

Phần 1

Phần 1 Phần 4 Chương 13 Việc Đã Thành Công Hì hì! Nữ tử ngồi trên giường, khuôn mặt tươi cười, thấy nam nhân tới gần giường, đột nhiên bướng bỉnh ôm thắt lưng nam tử kéo xuống một cái, tay nhỏ bé liền Ba ba đánh

Chi tiết hơn

Phần 1

Phần 1 Phần 13 Chương 61 Xúc Nghịch Lân Giả Tử Nâng chân nhỏ lên, một cước đá văng ra, người phụ nữ kia ngã trên mặt đất, trong miệng phun ra một ngụm máu. Không ngó ngàng tới bà ta, bàn tay nhỏ nhấc thằng nhóc

Chi tiết hơn

HỒI I:

HỒI I: MỞ ĐẦU TÓM LƯỢC CỐT TRUYỆN XÁC CHẾT LOẠN GIANG HỒ Tiêu Lĩnh Vu, con một vị quan hồi hưu mắc phải tuyệt chứng Ngũ Âm Tuyệt Mạch, đáng lẽ chỉ sống đến hai mươi tuổi là cùng. Phụ thân chàng đi chơi thuyền

Chi tiết hơn

SÓNG THẦN PHAN RANG MX Tây Đô Lâm Tài Thạnh. Theo nhịp sống, người ta tự chọn phương hướng để đi, bằng nhiều cách khác nhau, lưu giữ hay xóa đi quá kh

SÓNG THẦN PHAN RANG MX Tây Đô Lâm Tài Thạnh. Theo nhịp sống, người ta tự chọn phương hướng để đi, bằng nhiều cách khác nhau, lưu giữ hay xóa đi quá kh SÓNG THẦN PHAN RANG MX Tây Đô Lâm Tài Thạnh. Theo nhịp sống, người ta tự chọn phương hướng để đi, bằng nhiều cách khác nhau, lưu giữ hay xóa đi quá khứ cũng tùy thuộc vào mỗi người, có điều chắc chắn rằng

Chi tiết hơn

KHUYÊN NGƯỜI NIỆM PHẬT

KHUYÊN NGƯỜI NIỆM PHẬT KHUYÊN NGƯỜI NIỆM PHẬT (Tập 3A- Lời khuyên anh chị em) Tác giả: Cư sỹ Diệu Âm (Minh Trị Úc Châu) 1 MỤC LỤC Khai thị của Liên Tông Thập Nhất Tổ:... 3 Lời Giới Thiệu... 5 Lời Tâm Sự!... 6 Đôi Lời Trần Bạch:...

Chi tiết hơn

No tile

No tile Phần 3 Công việc hôm nay coi như cũng tạm ổn. Vy ngước lên nhìn đồng hồ, mới gần sáu giờ. Hôm nay được về sớm, phải ghé Ngọc Hạnh mới được. Nghĩ thế rồi Vy thu dọn đồ cho gọn gàng. Đeo túi xách lên vai,

Chi tiết hơn

Document

Document Phần 4 Chương 16 Mất Tích Cục công án thành phố Bạch, Nguyễn Vi ngẩng đầu lên liếc nhìn đồng hồ được treo trên vách tường. Khi cô và Trương Ức An bước vào phòng họp, người cảnh sát tiếp bọn họ mang ra

Chi tiết hơn

ẨN TU NGẨU VỊNH Tác giả: HT. THÍCH THIỀN TÂM ---o0o--- Nguồn Chuyển sang ebook Người thực hiện : Nam Thiên

ẨN TU NGẨU VỊNH Tác giả: HT. THÍCH THIỀN TÂM ---o0o--- Nguồn   Chuyển sang ebook Người thực hiện : Nam Thiên ẨN TU NGẨU VỊNH Tác giả: HT. THÍCH THIỀN TÂM ---o0o--- Nguồn http://thuvienhoasen.org Chuyển sang ebook 5-8-2009 Người thực hiện : Nam Thiên namthien@gmail.com Link Audio Tại Website http://www.phatphaponline.org

Chi tiết hơn

Em hãy tưởng tượng và kể lại một cuộc gặp gỡ với một trong các nhân vật cổ tích hoặc truyền thuyết

Em hãy tưởng tượng và kể lại một cuộc gặp gỡ với một trong các nhân vật cổ tích hoặc truyền thuyết Em hãy tưởng tượng và kể lại một cuộc gặp gỡ với một trong các nhân vật cổ tích hoặc truyền thuyết Author : vanmau Em hãy tưởng tượng và kể lại một cuộc gặp gỡ với một trong các nhân vật cổ tích hoặc truyền

Chi tiết hơn

Hạnh Phúc và Đau Khổ Chư Thiên và loài người Suy nghĩ về hạnh phúc Ước mong được hạnh phúc Chân hạnh phúc là gì? (1) Bốn câu thi kệ này được trích tro

Hạnh Phúc và Đau Khổ Chư Thiên và loài người Suy nghĩ về hạnh phúc Ước mong được hạnh phúc Chân hạnh phúc là gì? (1) Bốn câu thi kệ này được trích tro Hạnh Phúc và Đau Khổ Chư Thiên và loài người Suy nghĩ về hạnh phúc Ước mong được hạnh phúc Chân hạnh phúc là gì? (1) Bốn câu thi kệ này được trích trong bài «Kinh Hạnh Phúc» mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni

Chi tiết hơn

Pháp ngữ của hòa thượng Tuyên Hóa - Phần 2

Pháp ngữ của hòa thượng Tuyên Hóa - Phần 2 Bạn nên thâm nhập tu trì một pháp môn: Người tọa thiền thì phải chuyên tâm trì chí học thiền tông. Người học giáo thì phải chuyên tâm trì chí học Giáo tông. Người học luật thì phải chuyên môn học Luật

Chi tiết hơn

Microsoft Word - doc-unicode.doc

Microsoft Word - doc-unicode.doc TU THIỀN Giảng tại Hội Liên Hiệp Khoa Học Kỹ Thuật - Hà Nội - 1996 Hôm nay chúng tôi nói về đề tài Tu Thiền. Bởi vì hiện thời nhiều người đang khao khát tu thiền mà chưa biết thiền nào là thiền chánh,

Chi tiết hơn

Phân tích tác phẩm Một người Hà Nội (Nguyễn Khải) – Văn mẫu lớp 12

Phân tích tác phẩm Một người Hà Nội (Nguyễn Khải) – Văn mẫu lớp 12 Phân tích tác phẩm Một người Hà Nội (Nguyễn Khải) - Văn mẫu lớp 12 Author : Nguyễn Tuyến Phân tích tác phẩm Một người Hà Nội (Nguyễn Khải) - Bài số 1 Nguyễn Khải là nhà văn giỏi quan sát chuyện đời, chuyện

Chi tiết hơn

ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN Giảng giải: Đại Sư Ấn Quang Việt dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa PHẦN MƯỜI HAI 19

ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN Giảng giải: Đại Sư Ấn Quang Việt dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa PHẦN MƯỜI HAI 19 ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN Giảng giải: Đại Sư Ấn Quang Việt dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa PHẦN MƯỜI HAI 19. LỜI TỰA CHO BỘ TỊNH ĐỘ THÁNH HIỀN LỤC (Năm Dân Quốc 22 1933). Pháp Môn Tịnh Độ rộng

Chi tiết hơn

Tác Giả: Sói Xám Mọc Cánh Người Dịch: Đỗ Thu Thủy HOÀI NIỆM Chương 6 Hai chị em lôi kéo nhau lên lầu, vừa mở cửa đã thấy mẹ Phùng đang ngồi đợi con tr

Tác Giả: Sói Xám Mọc Cánh Người Dịch: Đỗ Thu Thủy HOÀI NIỆM Chương 6 Hai chị em lôi kéo nhau lên lầu, vừa mở cửa đã thấy mẹ Phùng đang ngồi đợi con tr Chương 6 Hai chị em lôi kéo nhau lên lầu, vừa mở cửa đã thấy mẹ Phùng đang ngồi đợi con trai. Thấy con trai và con gái cùng về, trên người cô con gái còn khoác chiếc áo khoác nam sang trọng, mẹ Phùng tưởng

Chi tiết hơn

Kinh Bat Chu Tam Muoi - HT Minh Le Dich

Kinh Bat Chu Tam Muoi - HT Minh Le Dich Kinh Bát Chu Tam Muội Ðời Tùy Tam Tạng, Khất Ða và Cấp Ða Việt dịch: HT Minh Lễ Nguồn http://niemphat.com/ Chuyển sang ebook 21-6-2009 Người thực hiện : Nam Thiên namthien@gmail.com Link Audio Tại Website

Chi tiết hơn

mộng ngọc 2

mộng ngọc 2 PHẦN BA Bỗng dưng thật yên ắng, Lam Phương rúc vào cái vỏ của cô, cô đang học thi, thỉnh thoảng mới đi tìm Phú Quang hỏi anh những chỗ khó hiểu. Phú Quang vừa đỡ phiền phức vừa không bận tâm. Nhưng chiều

Chi tiết hơn

Microsoft Word - Tuyen tap 15 bai Tho Phat Dan PL TNTMacGiang.doc

Microsoft Word - Tuyen tap 15 bai Tho Phat Dan PL TNTMacGiang.doc Nhân Mùa Phật Đản 2634 Phật lịch 2554 Năm Canh Dần 2010 Chúng tôi đã viết được 15 bài như dưới đây, chân thành dâng lên Đức Phật, nguyện cầu Pháp Pháp trường tồn, chúng sanh độ tận, thế giới hòa bình,

Chi tiết hơn

PHÓNG SANH VẤN ĐÁP

PHÓNG SANH VẤN ĐÁP CÔNG ĐỨC PHÓNG SINH Pháp sư Viên Nhân 1 MỤC LỤC MỤC LỤC... 2 LỜI NÓI ĐẦU... 6 PHẦN I. CÔNG ĐỨC PHÓNG SINH... 14 LỜI DẪN... 14 CHUƠNG I: PHÓNG SINH LÀ GÌ?... 20 Phóng sinh có những công đức gì?... 22 CHUƠNG

Chi tiết hơn

Microsoft Word - 25-AI CA.docx

Microsoft Word - 25-AI CA.docx 1 Thành Hoang Phế (Theo mẫu tự Hê-bơ-rơ) 1 Kìa thành phố một thời đông người nhộn nhịp, Nay thưa người đơn chiếc đìu hiu! Kìa nàng vốn đại đô các nước, Giờ trở thành góa phụ cô đơn! Kìa nàng vốn nữ hoàng

Chi tiết hơn

Phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn – Văn mẫu lớp 9

Phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn – Văn mẫu lớp 9 Phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn - Văn mẫu lớp 9 Author : Nguyễn Tuyến Phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn - Bài số 1 Với quan niệm Văn dĩ tải đạo đã trở thành chức năng phản ánh của văn

Chi tiết hơn

PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA

PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA NAM MÔ ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT KINH BẢN NGUYỆN CỦA BỒ TÁT ĐỊA TẠNG SA MÔN: THÍCH ĐẠO THỊNH HỘI TẬP NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC 5 PHẦN NGHI LỄ ( Mọi người đều tề chỉnh y phục đứng chắp tay đọc ) Chủ lễ xướng:

Chi tiết hơn

Tình Thương Nhân Loại 1 Điển Mẹ Diêu Trì Rằm tháng sáu Nhâm Thìn, 2012 Nước Việt Nam một miền linh địa Có rồng vàng thánh địa mai sau Nước Nam hơn cả

Tình Thương Nhân Loại 1 Điển Mẹ Diêu Trì Rằm tháng sáu Nhâm Thìn, 2012 Nước Việt Nam một miền linh địa Có rồng vàng thánh địa mai sau Nước Nam hơn cả Tình Thương Nhân Loại 1 Điển Mẹ Diêu Trì Rằm tháng sáu Nhâm Thìn, 2012 Nước Việt Nam một miền linh địa Có rồng vàng thánh địa mai sau Nước Nam hơn cả nước Tàu Trung ương ba cõi người mau rõ tường 4 Điển

Chi tiết hơn

No tile

No tile PHẦN 3 Xóm Bình Khang từ đó không còn biến động, mọi người không còn nghe tiếng cô Ba Phượng nửa đêm ngồi xoã tóc hát điệu Nam Ai hay xuống sáu câu vọng cổ nghe thật ai oán đau thương. Còn ở gánh hát Long

Chi tiết hơn

Microsoft Word - 08-toikhongquen

Microsoft Word - 08-toikhongquen TÔI KHÔNG QUÊN **** Năm năm dư đã trải qua, Lòng thương nhau vẫn mặn mà lòng thương. Khổ lao dù mấy cũng là, 8. Việc tu khuyên cứ rán mà lo tu. Xem nhau như thể ruột rà, Khi ai chạm đến thì là biết đau.

Chi tiết hơn

 Phần 3 Lam Huyên vui chân trên phố, trời chiều hôm nay trong xanh và phố phường dường như đông đúc hơn. Được một đoạn đường ngắn, Huyên nhận ra bên kia đường, Văn ngồi trên xe, môi thấp thoáng nụ cười.

Chi tiết hơn

Microsoft Word - thientongtrucchi-read.doc

Microsoft Word - thientongtrucchi-read.doc THIỀN TÔNG TRỰC CHỈ A. MẬT TRUYỀN THAM THIỀN YẾU PHÁP Hạ thủ công phu tu thiền, điều cốt yếu thứ nhất phải lập chí vững chắc. Bởi vì chí là vị nguyên soái của khí lực. Nếu người lập chí vững chắc, như

Chi tiết hơn

Document

Document Phần 28 "N Chương 55 Nhỏ máu nghiệm thân "Nương tử, cũng đã hơn nửa năm, không có tin tức gì của Sở Hà cũng không biết hiện tại đã đến kinh thành chưa." Tằng Tử Phu lau tay, quay đầu cười cười với Thạch

Chi tiết hơn

ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TĂNG QUẢNG CHÁNH BIÊN ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TĂNG QUẢNG CHÁNH BIÊN Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa Giảo chánh: Minh

ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TĂNG QUẢNG CHÁNH BIÊN ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TĂNG QUẢNG CHÁNH BIÊN Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa Giảo chánh: Minh ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TĂNG QUẢNG CHÁNH BIÊN Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa Giảo chánh: Minh Tiến và Huệ Trang PHẦN BA 28. THƯ TRẢ LỜI CƯ SĨ X Ở VĨNH GIA Thư thứ hai Sách Di Đà Trung Luận, dù

Chi tiết hơn

Cảm nghĩ về người thân – Bài tập làm văn số 3 lớp 6

Cảm nghĩ về người thân – Bài tập làm văn số 3 lớp 6 Cảm nghĩ về người thân - Bài tập làm văn số 3 lớp 6 Author : hanoi Cảm nghĩ của em về người thân (ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, bạn, thầy, cô giáo ) - Cảm nghĩ về ông nội Thế mà đã hai năm kể từ ngày ông

Chi tiết hơn

1 Triệu Châu Ngữ Lục Dịch theo tài liệu của : Lư Sơn Thê Hiền Bảo Giác Thiền Viện Trụ Trì Truyền Pháp Tứ Tử Sa Môn Trừng Quế Trọng Tường Định. Bản khắ

1 Triệu Châu Ngữ Lục Dịch theo tài liệu của : Lư Sơn Thê Hiền Bảo Giác Thiền Viện Trụ Trì Truyền Pháp Tứ Tử Sa Môn Trừng Quế Trọng Tường Định. Bản khắ 1 Triệu Châu Ngữ Lục Dịch theo tài liệu của : Lư Sơn Thê Hiền Bảo Giác Thiền Viện Trụ Trì Truyền Pháp Tứ Tử Sa Môn Trừng Quế Trọng Tường Định. Bản khắc của : Minh Thanh Và bản của : James Green. Dịch giả

Chi tiết hơn

1 Những chuyện niệm Phật cảm ứng, nghe được. 1- Sát sanh bị đoản mạng. Tác giả : Cư sĩ Lâm Khán Trị Dịch giả : Dương Đình Hỷ Cổ đức có nói : Tâm có th

1 Những chuyện niệm Phật cảm ứng, nghe được. 1- Sát sanh bị đoản mạng. Tác giả : Cư sĩ Lâm Khán Trị Dịch giả : Dương Đình Hỷ Cổ đức có nói : Tâm có th 1 Những chuyện niệm Phật cảm ứng, nghe được. 1- Sát sanh bị đoản mạng. Tác giả : Cư sĩ Lâm Khán Trị Dịch giả : Dương Đình Hỷ Cổ đức có nói : Tâm có thể tạo nghiệp, tâm có thể chuyển nghiệp, nghiệp do tâm

Chi tiết hơn

36

36 36 Em có phải là chiều thu êm ái Để lòng ta vuơng vấn mỗi chiều Vắng em lòng chạnh cô liêu Ôi xiêm áo và nồng hương tóc rối. Buổi hôm ấy, chiều chưa sụp tối Mà trăng vàng đã tỏa đầu non Xa xa mầu hạ héo

Chi tiết hơn

PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY THERAVĀDA VÔ THƯỜNG KHỔ NÃO VÔ NGÃ Soạn giả TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG HỘ TÔNG (VAṄSARAKKHITA MAHĀTHERA) Biển trầm khổ sống bồn

PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY THERAVĀDA VÔ THƯỜNG KHỔ NÃO VÔ NGÃ Soạn giả TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG HỘ TÔNG (VAṄSARAKKHITA MAHĀTHERA) Biển trầm khổ sống bồn PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY THERAVĀDA ----- VÔ THƯỜNG KHỔ NÃO VÔ NGÃ Soạn giả TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG HỘ TÔNG (VAṄSARAKKHITA MAHĀTHERA) Biển trầm khổ sống bồng lai láng Kiếp phù sanh đáng chán biết bao, Tấm thân

Chi tiết hơn

MỘT CÁCH NHÌN VỀ MƯỜI BA NĂM VĂN CHƯƠNG VIỆT NGOÀI NƯỚC ( ) (*) Bùi Vĩnh Phúc Có hay không một dòng văn học Việt ngoài nước? Bài nhận định dướ

MỘT CÁCH NHÌN VỀ MƯỜI BA NĂM VĂN CHƯƠNG VIỆT NGOÀI NƯỚC ( ) (*) Bùi Vĩnh Phúc Có hay không một dòng văn học Việt ngoài nước? Bài nhận định dướ MỘT CÁCH NHÌN VỀ MƯỜI BA NĂM VĂN CHƯƠNG VIỆT NGOÀI NƯỚC (1975 1988) (*) Bùi Vĩnh Phúc Có hay không một dòng văn học Việt ngoài nước? Bài nhận định dưới đây là một trả lời cho câu hỏi ấy. Nó đã được những

Chi tiết hơn

Tác Giả: Cửu Lộ Phi Hương Người Dịch: Lục Hoa KHÔNG YÊU THÌ BIẾN Chương 50 Lửa bùng lên chỉ trong nháy mắt, nhanh chóng lan tới những nơi bị xăng tưới

Tác Giả: Cửu Lộ Phi Hương Người Dịch: Lục Hoa KHÔNG YÊU THÌ BIẾN Chương 50 Lửa bùng lên chỉ trong nháy mắt, nhanh chóng lan tới những nơi bị xăng tưới Chương 50 Lửa bùng lên chỉ trong nháy mắt, nhanh chóng lan tới những nơi bị xăng tưới đến, không gì cản nổi. Giàn giáo, gỗ, sơn và những vật dễ bắt lửa bày la liệt trong căn hộ đang được trang trí, chẳng

Chi tiết hơn

Tác Giả: Hoàng Thu Dung MỘT NGÀY MÙA ĐÔNG Phần I Thùy Dương đứng một mình trên bãi cát, đưa mắt nhìn xa ra chân trời. Mặt biển xanh ngăn ngắt, trong v

Tác Giả: Hoàng Thu Dung MỘT NGÀY MÙA ĐÔNG Phần I Thùy Dương đứng một mình trên bãi cát, đưa mắt nhìn xa ra chân trời. Mặt biển xanh ngăn ngắt, trong v Phần I Thùy Dương đứng một mình trên bãi cát, đưa mắt nhìn xa ra chân trời. Mặt biển xanh ngăn ngắt, trong veo đến ngây ngất. Nước tràn lên vuốt ve bờ cát rồi lại lùi ra biển. Thùy Dương tháo giày để trên

Chi tiết hơn

NHÀ THƠ HỮU LOAN, LẦN GẶP MẶT Cung Tích Biền Sau tháng Tư 1975, tôi có dịp gặp gỡ các văn nghệ sĩ từ miền Bắc vào Nam. Những cuộc gặp lẫn gỡ này, cái

NHÀ THƠ HỮU LOAN, LẦN GẶP MẶT Cung Tích Biền Sau tháng Tư 1975, tôi có dịp gặp gỡ các văn nghệ sĩ từ miền Bắc vào Nam. Những cuộc gặp lẫn gỡ này, cái NHÀ THƠ HỮU LOAN, LẦN GẶP MẶT Cung Tích Biền Sau tháng Tư 1975, tôi có dịp gặp gỡ các văn nghệ sĩ từ miền Bắc vào Nam. Những cuộc gặp lẫn gỡ này, cái đinh đóng vô đầu, vui ít buồn nhiều. Vui, là gặp được

Chi tiết hơn

CHƯƠNG 1

CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 1 TÂM ĐIỂM CỦA THIỀN ĐỊNH Tương truyền rằng ngay sau khi rời gốc bồ đề, ra đi lúc mới vừa thành Phật, Ðức thế tôn đã gặp trên đường một du sĩ ngoại giáo. Bị cuốn hút bởi phong thái siêu phàm cùng

Chi tiết hơn

TÁM QUY LUẬT CỦA NGƯỜI PHIÊN DỊCH KINH ĐIỂN PHẬT HỌC 1. Người dịch phải tự thoát mình ra khỏi động cơ truy tìm danh lợi. 2. Người dịch phải tu dưỡng t

TÁM QUY LUẬT CỦA NGƯỜI PHIÊN DỊCH KINH ĐIỂN PHẬT HỌC 1. Người dịch phải tự thoát mình ra khỏi động cơ truy tìm danh lợi. 2. Người dịch phải tu dưỡng t TÁM QUY LUẬT CỦA NGƯỜI PHIÊN DỊCH KINH ĐIỂN PHẬT HỌC 1. Người dịch phải tự thoát mình ra khỏi động cơ truy tìm danh lợi. 2. Người dịch phải tu dưỡng thân tâm, dứt bỏ thói cao ngạo. 3. Người dịch phải tự

Chi tiết hơn

Microsoft Word - emlatinhyeu14.doc

Microsoft Word - emlatinhyeu14.doc CHƯƠNG XIV Nhu Phong trở về nhà, lúc cha mẹ cô không ngờ đến vì chị Hương không hề hé môi gì với ông bà Công Đạt chuyện chị đến gặp Nhu Phong. Chị không dám nói cho ông bà chủ biết, chẳng qua chị sợ Nhu

Chi tiết hơn

Vỡ Hoang Trước Bình Mình Cung Tích Biền Đêm động phòng hoa chúc mà không thể làm tình, có chăng chuyện xảy ra với một gã liệt dương đặt bày cưới vợ. C

Vỡ Hoang Trước Bình Mình Cung Tích Biền Đêm động phòng hoa chúc mà không thể làm tình, có chăng chuyện xảy ra với một gã liệt dương đặt bày cưới vợ. C Vỡ Hoang Trước Bình Mình Cung Tích Biền Đêm động phòng hoa chúc mà không thể làm tình, có chăng chuyện xảy ra với một gã liệt dương đặt bày cưới vợ. Còn thì. Nhưng đôi khi Chú rể trẻ cố chống mí mắt trong

Chi tiết hơn

Chiều Trên Phá Tam Giang Trần Thiện Thanh Chiều Trên Phá Tam Giang anh chợt nhớ em nhớ ôi niềm nhớ ôi niềm nhớ đến bất tận em ơi! em ơi! Giờ này thươn

Chiều Trên Phá Tam Giang Trần Thiện Thanh Chiều Trên Phá Tam Giang anh chợt nhớ em nhớ ôi niềm nhớ ôi niềm nhớ đến bất tận em ơi! em ơi! Giờ này thươn Chiều Trên Phá Tam Giang Trần Thiện Thanh Chiều Trên Phá Tam Giang anh chợt nhớ em nhớ ôi niềm nhớ ôi niềm nhớ đến bất tận em ơi! em ơi! Giờ này thương xá sắp đóng cửa người lao công quét dọn hành lang

Chi tiết hơn

Bao giờ em trở lại

Bao giờ em trở lại PHẦN MƯỜI Rừng về đêm thật lạnh, gió thổi cành lá xào xạc. Tiếng dế rồi tiếng côn trùng và tiếng của loài thú đi ăn đêm. Thúy An nằm cạnh Đông Quân. Những cảm xúc và khao khát thuở nào bây giờ chìm lắng,

Chi tiết hơn

KINH ĐẠI BI Tam tạng pháp sư Na Liên Đề Da Xá dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Cao-Tề ( ). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra

KINH ĐẠI BI Tam tạng pháp sư Na Liên Đề Da Xá dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Cao-Tề ( ). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra KINH ĐẠI BI Tam tạng pháp sư Na Liên Đề Da Xá dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Cao-Tề (550-577). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn và chú thích, tại Canada, năm 2016. 1 Đệ

Chi tiết hơn

ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN Giảng giải: Đại Sư Ấn Quang Việt dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa PHẦN MƯỜI TÁM 17

ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN Giảng giải: Đại Sư Ấn Quang Việt dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa PHẦN MƯỜI TÁM 17 ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN Giảng giải: Đại Sư Ấn Quang Việt dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa PHẦN MƯỜI TÁM 17. KHUYÊN KHẮP MỌI NGƯỜI KÍNH TIẾC GIẤY CÓ CHỮ VÀ TÔN KÍNH KINH SÁCH (Năm Dân Quốc 24-1935).

Chi tiết hơn

Microsoft Word TÀI LI?U GIÁO D?C CHÍNH TR? TU TU?NG P2.doc

Microsoft Word TÀI LI?U GIÁO D?C CHÍNH TR? TU TU?NG P2.doc HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM TÀI LIỆU GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG (Dành cho hội viên, phụ nữ) Tháng 12/2015 1 MỘT SỐ CÂU CHUYỆN VỀ BÁC HỒ VỚI PHỤ NỮ Không có chỗ cho Bác gái đứng à? Ngày 26 tháng 12

Chi tiết hơn

Tả cảnh mặt trời mọc trên quê hương em

Tả cảnh mặt trời mọc trên quê hương em Tả cảnh mặt trời mọc trên quê hương em Đề bài: Em hãy viết bài văn tả cảnh mặt trời mọc trên quê hương em ở mà em đã có dịp quan sát kĩ. Hè vừa qua, em được mẹ cho về thăm quê ngoại ở Thạch Thất, Sơn Tây.

Chi tiết hơn

Microsoft Word - thamthienyeuchi-read.doc

Microsoft Word - thamthienyeuchi-read.doc THAM THIỀN YẾU CHỈ I. ĐIỀU KIỆN QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TIÊN CỦA SỰ THAM THIỀN. Mục đích tham thiền là cầu được minh tâm kiến tánh. Muốn thế, phải gạn lọc các thứ nhiễm ô của tự tâm, thấy rõ mặt thật của tự tánh.

Chi tiết hơn

Phần 1

Phần 1 Phần 5 Chương 21 Đàm Phán Kịch Liệt Trong hai con mắt không nhìn thấu của đứa trẻ tầm tám, chín tuổi đang bốc lên một chút lửa giận. Thật đáng yêu! Đáng yêu đến nỗi khiến người khác không nhịn được muốn

Chi tiết hơn

Từ Mỹ về Rừng Thăm Bạn Lâm Chương Lúc mới đến, tôi hỏi: - Đào hố để làm gì? Anh nói: - Bắt khỉ. Tôi ngạc nhiên: - Bắt khỉ? - Ừ, bắt khỉ. - Để ăn thịt?

Từ Mỹ về Rừng Thăm Bạn Lâm Chương Lúc mới đến, tôi hỏi: - Đào hố để làm gì? Anh nói: - Bắt khỉ. Tôi ngạc nhiên: - Bắt khỉ? - Ừ, bắt khỉ. - Để ăn thịt? Từ Mỹ về Rừng Thăm Bạn Lâm Chương Lúc mới đến, tôi hỏi: - Đào hố để làm gì? - Bắt khỉ. Tôi ngạc nhiên: - Bắt khỉ? - Ừ, bắt khỉ. - Để ăn thịt? - Khỉ ốm, chỉ có da bọc xương. Thịt khỉ lại tanh, không ai

Chi tiết hơn

Lam Te Ngu Luc - HT Nhat Hanh

Lam Te Ngu Luc - HT Nhat Hanh 1 Lâm Tế Ngữ Lục Th ích Nhất Hạnh Dịch www.thuvienhoasen.org Mục Lục Dạy Chúng 1 - Thiền Sư dạy 2 - Thiền Sư khai thị chúng như sau 3 - Thiền Sư khai thị Hỏi : Thế nào là Bụt, thế nào là Ma? Hỏi : Thế

Chi tiết hơn

Thơ NGUYỄN KINH BẮC

Thơ NGUYỄN KINH BẮC Xin mời các bạn yêu thơ thăm Vườn Thơ của Thi Sĩ Nguyễn Kinh Bắc. NGUYỄN KINH BẮC Sinh quán Bắc Ninh Hiện cư ngụ tại thành phố Philadelphia, Tiểu Bang Pennsylvania, Hoa Kỳ. Góp mặt trong các tuyển tập

Chi tiết hơn

Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xưa qua bài Tự tình II của Hồ Xuân Hương và Thương vợ của Trần Tế Xương – Bài tập làm văn số 2 lớp 11

Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xưa qua bài Tự tình II của Hồ Xuân Hương và Thương vợ của Trần Tế Xương – Bài tập làm văn số 2 lớp 11 Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xưa qua bài Tự tình II của Hồ Xuân Hương và Thương vợ của Trần Tế Xương - Bài tập làm văn số 2 lớp 11 Author : hanoi Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xưa qua bài

Chi tiết hơn

Phân tích nhân vật Liên trong tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam

Phân tích nhân vật Liên trong tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam Thạch Lam Author : elisa Thạch Lam - Bài số 1 Hai đứa trẻ của Thạch Lam được viết vào năm 1938, nhân vật Liên là một nhân vật mà tác giả đã khai thác rõ nhất về tâm trạng cũng như nội tâm. Dù đó chỉ là

Chi tiết hơn

Kể lại một chuyến đi tham quan hay du lịch cùng các bạn trong lớp – Văn hay lớp 7

Kể lại một chuyến đi tham quan hay du lịch cùng các bạn trong lớp – Văn hay lớp 7 Kể lại một chuyến đi tham quan hay du lịch cùng các bạn trong lớp - Văn hay lớp 7 Author : Hồng Thắm Kể lại một chuyến đi tham quan hay du lịch cùng các bạn trong lớp - Bài làm 1 Vậy là kì I năm học 2012-2013

Chi tiết hơn

Nghị luận xã hội về tình yêu quê hương đất nước – Văn mẫu lớp 12

Nghị luận xã hội về tình yêu quê hương đất nước – Văn mẫu lớp 12 Nghị luận xã hội về tình yêu quê hương đất nước - Văn mẫu lớp 12 Author : Kẹo ngọt Nghị luận xã hội về tình yêu quê hương đất nước - Bài làm 1 Đã có thời trong xã hội chúng ta quan niệm một cách đơn giản

Chi tiết hơn

Soạn Giả Thái Thụy Phong Vũ Thất Theo bài tường trình Nghệ thuật Sân khấu Cải lương 80 năm của soạn giả Nguyễn Phương trên trang nhà của nhạc sư Trần

Soạn Giả Thái Thụy Phong Vũ Thất Theo bài tường trình Nghệ thuật Sân khấu Cải lương 80 năm của soạn giả Nguyễn Phương trên trang nhà của nhạc sư Trần Soạn Giả Thái Thụy Phong Vũ Thất Theo bài tường trình Nghệ thuật Sân khấu Cải lương 80 năm của soạn giả Nguyễn Phương trên trang nhà của nhạc sư Trần Quang Hải, sân khấu cải lương được hình thành từ năm

Chi tiết hơn

Bài tập làm văn số 1 lớp 7 - Đề 4

Bài tập làm văn số 1 lớp 7 - Đề 4 Bài tập làm văn số 1 lớp 7 - Đề 3 Bài viết số 1 lớp 7 đề 3: Miêu tả một cảnh đẹp mà em đã gặp trong mấy tháng nghỉ hè (có thể là phong cảnh nơi em nghỉ mát, hoặc cánh đồng hay rừng núi quê em). Dàn bài

Chi tiết hơn

Microsoft Word - V doc

Microsoft Word - V doc TRẦN THÁI TÔNG KHÓA HƯ LỤC Giảng Giải THÍCH THANH TỪ THƯỜNG CHIẾU Ấn hành - P.L : 2540-1996 1 LỜI ĐẦU SÁCH Quyển này ra đời do lòng nhiệt tình, tâm tha thiết mong muốn có một Pho Sách Phật Giáo Việt Nam

Chi tiết hơn

Pha Lê vừa đi lên phòng , cô bắt gặp Ngọc Bạch đang đứng nơi góc hành lang nói chuyện điện thoại với ai đó

Pha Lê vừa đi lên phòng , cô bắt gặp Ngọc Bạch  đang đứng nơi góc hành lang nói chuyện điện thoại với ai đó PHẦN VII Nghi Xuân quẹo phải, rẽ trái rồi lại quẹo phải, cô đi vòng vo như thế đến mỏi nhừ cả chân. Nép vào một góc, cô nín thở. Cái đuôi theo sau cô không còn bám theo nữa. Cởi cái áo đen khoác ngoài

Chi tiết hơn

Phát biểu cảm nghĩ của em về người cha – Văn hay lớp 10

Phát biểu cảm nghĩ của em về người cha – Văn hay lớp 10 Phát biểu cảm nghĩ của em về người cha - Văn hay lớp 10 Author : vanmau Phát biểu cảm nghĩ của em về người cha - Bài làm 1 Đối với bản thân mỗi người, mẹ luôn là người vô cùng quan trọng. Mẹ mang nặng

Chi tiết hơn

CHƯƠNG 4

CHƯƠNG 4 CHƯƠNG 4 NHỮNG MA CHƯỚNG VÀ TRỞ LỰC CỦA THIỀN ĐỊNH Trong kinh điển Phật giáo Nguyên thủy vẫn thường nhấn mạnh đến những trở lực có nguy cơ phương hại cho hành trình tu tập mà gần như không một ai chẳng

Chi tiết hơn

Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông - Hoàng Phủ Ngọc Tường

Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông - Hoàng Phủ Ngọc Tường Tham khảo những bài văn mẫu hay nhất chủ đề Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đề bài: Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Chi tiết hơn

No tile

No tile Hồi 9 Thân cô luyện chưởng Hàng ma. Cứu đại điểu đại điểu giải nạn. Lần này với kinh nghiệm vừa tích lũy. Vương Thế Kỳ không còn xuất thủ loạn xạ nữa. NÓ nhẫn nại đứng trầm người dưới nước và dõi nhìn

Chi tiết hơn

 Phần 10 Nguyên khẽ bước đến bên vợ, khẽ khoác chiếc áo vào bờ vai Hảo, nỗi xúc động trong anh chợt dâng đầy khi nhìn thấy những giọt nước mắt còn đọng lại nơi mi mắt vợ. Ánh cúi xuống thật thấp bên vai

Chi tiết hơn

Microsoft Word - chantinh09.doc

Microsoft Word - chantinh09.doc CHƯƠNG IX Đoàn người đi vào khu nghĩa trang thành hàng dài. Bà Tú đi phía sau mấy người con trai, hai bên có người dìu đi. Sau mấy ngày lo đám, bà thật sự ngã quỵ, đã ngất đi mấy lần. Bà Tuyết thì có vẻ

Chi tiết hơn

Chinh phục tình yêu Judi Vitale Chia sẽ ebook : Tham gia cộng đồng chia sẽ sách : Fanpage :

Chinh phục tình yêu Judi Vitale Chia sẽ ebook :   Tham gia cộng đồng chia sẽ sách : Fanpage : Chinh phục tình yêu Judi Vitale Chia sẽ ebook : http://downloadsachmienphi.com/ Tham gia cộng đồng chia sẽ sách : Fanpage : https://www.facebook.com/downloadsachfree Cộng đồng Google : http://bit.ly/downloadsach

Chi tiết hơn

Document

Document Phần 1 Chương 1 Mèo thành tinh? Lần này Mục Nhạc về nước không hề nói trước với bất kỳ người nào sợ mẹ anh biết nên sáng sớm liền vội vàng thu dọn hành lý, thứ hai... cũng do mẹ anh cứ lải nhải nên có

Chi tiết hơn

Đông Giao chau mày, cầm cuốn sách Huy đang xem dở dang để trên bàn lên

Đông Giao chau mày, cầm cuốn sách Huy đang xem dở dang để trên bàn lên PHẦN VII Đông Giao chau mày, cầm cuốn sách Huy đang xem dở dang để trên bàn lên. Dòng chữ trên cuốn sách làm cho cô phải suy nghĩ. Có phải là anh làm thơ tặng cho Nguyên Phương hay không? Có đôi lúc cô

Chi tiết hơn

Cảm nhận về “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu

Cảm nhận về “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu Cảm nhận về "Phú sông Bạch Đằng" của Trương Hán Siêu Author : vanmau Cảm nhận về "Phú sông Bạch Đằng" của Trương Hán Siêu Bài làm 1 Trương Hán Siêu là một danh sĩ đời Trần, sau lúc qua đời được vua Trần

Chi tiết hơn

À TÌM NHAU Tôn-Nữ Mai-Tâm Cánh hoa Mai tan tác rơi từng mảnh Rũ rượi buồn Tâm héo úa tàn phai Đúng lúc tinh thần Uyển Nhi như đang rơi vào tình trạng

À TÌM NHAU Tôn-Nữ Mai-Tâm Cánh hoa Mai tan tác rơi từng mảnh Rũ rượi buồn Tâm héo úa tàn phai Đúng lúc tinh thần Uyển Nhi như đang rơi vào tình trạng À TÌM NHAU Tôn-Nữ Mai-Tâm Cánh hoa Mai tan tác rơi từng mảnh Rũ rượi buồn Tâm héo úa tàn phai Đúng lúc tinh thần Uyển Nhi như đang rơi vào tình trạng thất vọng cùng tận thì Ngọc Diệu đến. Không đợi, nàng

Chi tiết hơn

Ác cầm, nắm Tráp đối xử Ỷ ỷ lại Uy uy quyền Vi hành vi 1 2 Vĩ vĩ đại Vi sai khác Duy buộc Vĩ vĩ độ Nhất số một 2 3 Dụ củ khoai Â

Ác cầm, nắm Tráp đối xử Ỷ ỷ lại Uy uy quyền Vi hành vi 1 2 Vĩ vĩ đại Vi sai khác Duy buộc Vĩ vĩ độ Nhất số một 2 3 Dụ củ khoai  Ác cầm, nắm Tráp đối xử Ỷ ỷ lại Uy uy quyền Vi hành vi Vĩ vĩ đại Vi sai khác Duy buộc Vĩ vĩ độ Nhất số một Dụ củ khoai Âm âm u Ẩn ẩn dấu Ảnh cái bóng Nhuệ nhọn, sắc Việt vượt qua Viện chi viện Yên khói

Chi tiết hơn

Tùng, Một Chỗ Ngồi Dưới Chân Cầu Thang _ (Nguyễn Vĩnh Nguyên) (Tạp ghi)

Tùng, Một Chỗ Ngồi Dưới Chân Cầu Thang _ (Nguyễn Vĩnh Nguyên) (Tạp ghi) TÙNG, MỘT CHỖ NGỒI DƯỚI CHÂN CẦU THANG SGTT Xuân 2013 - Tùng có một không gian chính, nhiều người biết. Và một góc phụ khiêm cung nằm khuất phía sau quầy phục vụ, ít ai ngồi. Không biết ngày trước thì

Chi tiết hơn

Phần 1

Phần 1 Phần 15 Chương 71 Xe Két một tiếng thắng gấp lại. Lam Nhi, em nói cái gì? Anh khó có thể tin nhìn cô, anh chưa từng nghĩ tới sẽ buông tha cô, mà chính cô cũng đã đồng ý với Đóa Nhi là người một nhà sẽ

Chi tiết hơn

VINCENT VAN GOGH

VINCENT VAN GOGH 1 VIẾT CHO NGƯỜI ĐÃ CHẾT (Bài 75) */ Bài 2. TIẾNG GÕ CỦA ĐỊNH MỆNH I. Sau hơn ba mươi năm dập vùi sóng gió, nhìn lại đời mình như nhìn một bức tranh từng đã vẽ (chứ không còn là đang vẽ), mới thấy rõ ràng

Chi tiết hơn

Code: Kinh Văn số 1650

Code: Kinh Văn số 1650 Code: Kinh Văn số 1650 Luận Về Nhơn Duyên Bích Chi Phật Quyển Thượng Thứ tự Kinh Văn số 1650 - Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 thuộc Luận tập Bộ toàn. Từ trang 473 đến trang 480. - Không rõ

Chi tiết hơn

KINH THUYẾT VÔ CẤU XỨNG

KINH  THUYẾT  VÔ  CẤU  XỨNG KINH THUYẾT VÔ CẤU XƯNG Hán dịch: Ðại Ðường, Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên Chứng nghĩa: Tỳ kheo Thích Ðỗng Minh, Tỳ kheo Thích Tâm Hạnh. --- o0o --- Quyển thứ nhất. 1- PHẨM

Chi tiết hơn

Microsoft Word - Ð? NV9.I.1.doc

Microsoft Word - Ð?  NV9.I.1.doc ĐỀ KIỂM TRA MÔN NGỮ VĂN, HỌC KÌ 1, LỚP 9 Đề số 1 (Thời gian làm bài: 90 phút) A. MA TRẬN (BẢNG HAI CHIỀU) Mức độ Nhận biết Thông hiểu Vận dụng Tổng Thấp Cao Lĩnh vực nội dung TN TL TN TL TN TL TN TL Văn

Chi tiết hơn

LỜI GIỚI THIỆU Chia sẽ ebook : Tham gia cộng đồng chia sẽ sách : Fanpage : C

LỜI GIỚI THIỆU Chia sẽ ebook :   Tham gia cộng đồng chia sẽ sách : Fanpage :   C LỜI GIỚI THIỆU Chia sẽ ebook : http://downloadsachmienphi.com/ Tham gia cộng đồng chia sẽ sách : Fanpage : https://www.facebook.com/downloadsachfree Cộng đồng Google :http://bit.ly/downloadsach Người lãnh

Chi tiết hơn

NGƯỜI CHIẾN SĨ KHÔNG QUÂN PHỤC Tam Bách Đinh Bá Tâm Tôi vốn xuất thân trong một dòng tộc mà ba thế hệ đều có người làm quan văn và không vị nào theo b

NGƯỜI CHIẾN SĨ KHÔNG QUÂN PHỤC Tam Bách Đinh Bá Tâm Tôi vốn xuất thân trong một dòng tộc mà ba thế hệ đều có người làm quan văn và không vị nào theo b NGƯỜI CHIẾN SĨ KHÔNG QUÂN PHỤC Tam Bách Đinh Bá Tâm Tôi vốn xuất thân trong một dòng tộc mà ba thế hệ đều có người làm quan văn và không vị nào theo binh nghiệp cả. Từ cụ cố, cụ nội đến ông thân sinh tôi

Chi tiết hơn

Con Đường Khoan Dung

Con Đường Khoan Dung THÍCH THÁI HÒA MỞ LỚN CON ĐƯỜNG NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC - 2018 - Mở lớn con đường 1 MỤC LỤC Con Đường Khoan Dung... 5 Con Đường Giáo Dục... 11 Kho Báu Vô Tận... 27 Ma Tử... 31 Mở Rộng Không Gian... 34 Hiếu

Chi tiết hơn

Document

Document Phần 3 Chương 9 Chú Mèo Nhỏ Dường như con tim bị điều gì đó khẽ chạm vào. Rớt nửa nhịp. Tạ Liễu Liễu cúi người xuống, nhẹ nhàng che lỗ tai lại. Hình như nơi đó có một cảm giác rất ngột ngạt, mỗi một cái

Chi tiết hơn

Pha Lê vừa đi lên phòng , cô bắt gặp Ngọc Bạch đang đứng nơi góc hành lang nói chuyện điện thoại với ai đó

Pha Lê vừa đi lên phòng , cô bắt gặp Ngọc Bạch  đang đứng nơi góc hành lang nói chuyện điện thoại với ai đó PHẦN V Không hiểu sao Nghi Xuân lại tìm đến đây, cô ngập ngừng rồi đưa tay bấm chuông. Người mở cửa là Đoàn Hùng, anh không chút ngạc nhiên khi nhìn thấy Nghi Xuân: Hôm nay em không đi học à? Em được nghĩ.

Chi tiết hơn

Phân tích bài thơ Xuất Dương lưu biệt của Phan Bội Châu

Phân tích bài thơ Xuất Dương lưu biệt của Phan Bội Châu Phân tích bài thơ Xuất Dương lưu biệt của Phan Bội Châu Author : vanmau Phân tích bài thơ Xuất Dương lưu biệt của Phan Bội Châu Bài làm 1 Phan Bội Châu (1867 1940) là cái tên đẹp một thời. Chúng ta có

Chi tiết hơn

Microsoft Word - mua xuan ve muon- Tran Dan Ha

Microsoft Word - mua xuan ve muon- Tran Dan Ha Mưa Xuân Về Muộn Truyện Ngắn Trần Đan Hà Lâm trở về quê sau một biến động của đất nước, một khúc quanh lịch sử đã trôi qua, nhưng thảm cảnh chiến tranh vẫn còn ám ảnh. Từ những ngày triệt thoái cao nguyên,

Chi tiết hơn

VÔ THƯỜNG Những biến động đàn áp Phật Giáo khởi đầu vào năm 63. Lúc ấy tôi cũng vừa tròn 13 tuổi. Cái tuổi của thắt nơ tóc bím đầy thơ mộng. Thì cũng

VÔ THƯỜNG Những biến động đàn áp Phật Giáo khởi đầu vào năm 63. Lúc ấy tôi cũng vừa tròn 13 tuổi. Cái tuổi của thắt nơ tóc bím đầy thơ mộng. Thì cũng VÔ THƯỜNG Những biến động đàn áp Phật Giáo khởi đầu vào năm 63. Lúc ấy tôi cũng vừa tròn 13 tuổi. Cái tuổi của thắt nơ tóc bím đầy thơ mộng. Thì cũng chính vào những năm tháng thơ mộng nhất của đời tôi,

Chi tiết hơn

Microsoft Word - Tinhyeu-td-1minh.doc

Microsoft Word - Tinhyeu-td-1minh.doc OSHO OSHO Tình yêu, tự do, một mình Love, freedom, alone Công án về mối quan hệ The Koan of Relationships HÀ NỘI 9/2009 OSHO INTERNATIONAL FOUNDATION Tình yêu, tự do, một mình Mục lục Lời giới thiệu...

Chi tiết hơn

Document

Document Chương 1 Lời Tựa Nhà họ Hoa của Hoa Nhi có thành viên mới. Tiểu đáng ghét có một em gái... A! Không biết Tiểu đáng ghét là ai sao, Tiểu đáng ghét là anh trai Hoa, là cháu cưng của dì Hoa, tim gan của ba

Chi tiết hơn

THÍCH CA PHƯƠNG CHÍ Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

THÍCH CA PHƯƠNG CHÍ Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh Thời tiền Đường, Sa Môn Thích Đạo Tuyên ở núi Thái Nhất; Chung Nam soạn thuật. LỜI TỰA Triều Đại tiền Đường có được thiên hạ gần 40 năm, thuần phong dượm hợp;

Chi tiết hơn

Cướp Biển và Trại Pulau Bidong

Cướp Biển và Trại Pulau Bidong Tràm Cà Mau Vào chuyện: Trên một đảo nhỏ nằm giữa biên giới Việt Nam, Cao Miên và Thái Lan, không biết thuộc địa phận nước nào, có một gia đình bốn người vui sống êm đềm. Ba cha con là người địa phương,

Chi tiết hơn

Mộng ngọc

Mộng ngọc PHẦN SÁU Gọi điện thoại cho Minh Huy xong, Quốc An rót rượu ra ly. Anh ngồi quay quay cục nước đá trong ly trầm tư, không biết mẹ dùng cách nào để giúp anh, tuy nhiên Quốc An tin mẹ sẽ giúp mình nên việc

Chi tiết hơn

Microsoft Word - trachvuphattutaigia-read.docx

Microsoft Word - trachvuphattutaigia-read.docx LỜI NÓI ĐẦU Phần đông Phật tử Quy Y Tam Bảo mà chưa ý thức nhiệm vụ mình phải làm gì đối với mình, đối với mọi người, đối với đạo. Hoặc có ít người ý thức lại là ý thức sai lầm, mình lầm hướng dẫn kẻ khác

Chi tiết hơn