Mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập của học sinh lớp 5 tại Hà Nội Hoàng Thu Huyền Trường Đại học Giáo dục Luận văn Thạc sĩ ngà

Kích thước: px
Bắt đầu hiển thị từ trang:

Download "Mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập của học sinh lớp 5 tại Hà Nội Hoàng Thu Huyền Trường Đại học Giáo dục Luận văn Thạc sĩ ngà"

Bản ghi

1 Mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập của học sinh lớp 5 tại Hà Nội Hoàng Thu Huyền Trường Đại học Giáo dục Luận văn Thạc sĩ ngành: Tâm lý học lâm sàng trẻ em và vị thành niên Người hướng dẫn: TS. Đặng Hoàng Minh Năm bảo vệ: 2012 Abstract: Hê thô ng ho a môt sô vâ n đê ly luâṇ cơ ba n vê mô i tương quan giư a tư đa nh giá bản thân và kết quả học tập của học sinh lớp 5. Điê u tra thư c traṇg mô i tương quan giư a tư đa nh gia bản thân va kê t qua ho c tâ p cu a ho c sinh lơ p 5. Đưa ra như ng kê t luâṇ và kiến nghị nhằm giu p các em học sinh co thể tư đa nh gia bản thân phu hơ p hơn, kê t quả học tập tốt hơn. Keywords: Tâm lý học; Kết quả học tập; Tự đánh giá bản thân; Tâm lý học trẻ em; Lớp 5; Hà Nội Content MỞ ĐẦU 1. Ly do cho n đề ta i Tự đánh giá bản thân là một hạt nhân cơ bản của nhân cách, thực thi chức năng bảo vệ và ảnh hưởng đến mọi khía cạnh tâm lý của con người. Quá trình tự đánh giá bản thân giu p con người biết mình là ai và đang tồn tại trên thế giới này như thế nào. Những người co tự đánh giá bản thân mình phù hợp với năng lực thực tế thường co sức mạnh tinh thần để vượt qua kho khăn trở ngại trong cuộc sống và đạt được sự hài lòng về bản thân. Việc tự đánh giá quá cao hay quá thấp đều gây nên mâu thuẫn bên trong nhân cách. Các nghiên cứu đã chứng minh rằng những người tự đánh giá bản thân mình là người vô dụng, thấp kém thường không co khả năng cải thiện tình thế mà họ phải đối diện. Lớp 5 là lớp cuối cấp, thời điểm các học sinh đã trải qua một quá trình gần 5 năm kể từ khi bắt đầu bước vào môi trường học tập chính thức. Đây là khoảng thời gian quan trọng để các em nhìn nhận, đánh giá lại bản thân mình về khả năng học tập, giao tiếp và các mối quan hệ xã hội với vai trò, ý nghĩa của mình trong các mối quan hệ này. Tự đánh giá bản thân một cách phù hợp sẽ giu p các em điều khiển, điều chỉnh hành vi của mình va định hình tương lai theo hướng hợp lý, tích cực. Co rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tự đánh giá bản thân của học sinh và một trong những yếu tố quan trọng cần phải kể đến đo chính là kết quả học tập. Ở độ tuổi này, khi mối quan tâm của các em còn chưa được mở rộng như lứa tuổi mà các em sắp bước vào sau đo (lứa tuổi dậy thì) thì hoạt động học tập vẫn là hoạt động chủ đạo của học sinh. Và kết quả học tập chính là một trong số những yếu tố giu p các em nhận biết khả năng và giá trị của bản thân mình. Vậy cụ thể mối tương quan giữa kết quả học tập và tự đánh giá bản thân của học sinh lớp 5 hiện nay là như thế nào?

2 Trên thế giới, từ những năm 70 của thế kỷ trước đến nay, đã co rất nhiều nghiên cứu tìm hiểu mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập của học sinh. Tuy vậy, các nghiên cứu trên thế giới, do những khác biệt về văn ho a, nên không thể phản ánh được thực tế của Việt Nam. Ở nước ta, cho đến thời điểm này chỉ co nghiên cứu của tác giả Đỗ Ngọc Khanh về tự đánh giá bản thân của học sinh trung học cơ sở đề cập đến mối tương quan giữa kết quả học tập và tự đánh giá bản thân của học sinh như một nội dung thành phần [9]. Như vậy, ở Việt Nam, cho đến thời điểm chu ng tôi tiến hành thực hiện đề tài này, chưa co nghiên cứu nào đề cập đến mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập của học sinh lớp 5. Từ những lý do đo, chu ng tôi triển khai đề tài "Mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập của học sinh lớp 5 tại Hà Nội". 2. Đô i tƣơ ng nghiên cƣ u Mô i tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập của học sinh lớp 5 tại Ha Nôi. 3. Mu c đi ch nghiên cứu - Nghiên cư u mô i tương quan giữa kê t qua ho c tâ p va tư đa nh gia bản thân cu a ho c sinh lơ p 5 và các yếu tố co thể ảnh hưởng đến mỗi quan hệ này. - Đê xuâ t gia i pha p đê ta c đôṇg tićh cư c đê n mô i tương quan giư a tư đa nh gia bản thân và kết quả học tập, giu p các em học sinh co tự đánh giá bản thân phù hợp hơn và kết quả học tâ p tô t hơn. 4. Nhiêṃ vu nghiên cứu - Nghiên cư u ly luâṇ : hê thô ng ho a môt sô vâ n đê ly luâṇ cơ ba n vê mô i tương quan giư a tư đa nh gia bản thân va kê t qua ho c tâ p cu a ho c sinh lơ p 5. - Nghiên cư u thư c tiêñ: Điê u tra thư c traṇg mô i tương quan giư a tư đa nh gia bản thân va kê t qua ho c tâ p cu a ho c sinh lơ p 5. - Đưa ra như ng kê t luâṇ va kiê n nghi go p phâ n giu p ca c em ho c sinh co tư đa nh gia bản thân phu hơ p hơn, kê t qua ho c tâ p tô t hơn. 5. Kha ch thê nghiên cứu 290 học sinh lơ p 5 tại 3 trươ ng tiê u ho c trong đia ba n Ha Nôi. 6. Pha m vi nghiên cứu - Vê nôi dung: Luâṇ văn tâ p trung va o mô i tương quan giư a tư đa nh gia bản thân va kê t qua ho c tâ p cu a ho c sinh lơ p 5. - Vê thơ i gian: Đê ta i đươ c thư c hiêṇ trong 6 tháng: tư tha ng 7 năm 2011 đến tháng 1 năm Thơ i gian thư c hiêṇ điê u tra đươ c chia tha nh 2 đơṭ, cách nhau 3 tháng: Thời điểm 1: tháng 10/2011: nghiên cư u tự đánh giá bản thân của học sinh lớp 5 tại Hà Nội vào đầu năm học (lần 1). Thời điểm 2: tháng 1/2012: nghiên cư u tự đánh giá bản thân của học sinh lớp 5 tại Hà Nội khi kết thu c học kỳ 1 và học sinh đã biết kết quả học tập của mình (lần 2). - Vê đia điê m: Tại 3 trươ ng tiê u ho c trên đia ba n Ha Nôi : trươ ng tiê u ho c dân lập Đoa n Thị Điểm, trươ ng tiê u ho c công lập Tha nh Công va trường tiểu học dân lập Đồng Nhân. Chu ng tôi lựa chọn 3 trường tiểu học trên để đảm bảo mẫu nghiên cứu của chu ng tôi co những học sinh thuộc trường dân lập cũng như công lập. 7. Gia thuyê t nghiên cƣ u Nghiên cứu của chu ng tôi là nghiên cứu mang tính dự báo. Giả thuyết chu ng tôi đặt ra là: tự đánh giá bản thân và kết quả học tập của học sinh lớp 5 tại Hà Nội co mối tương quan với nhau: 2

3 - Tự đánh giá bản thân của học sinh co sự thay đổi qua 2 thời gian nghiên cứu cách nhau 3 tháng. - Sự thay đổi này chịu ảnh hưởng trực tiếp của kết quả học tập. 8. Phƣơng pha p nghiên cƣ u - Phương pha p nghiên cư u văn ba n, tài liệu - Phương pha p điê u tra bă ng ba ng ho i, bao gồm: Thang đo tư đa nh gia bản thân Toulouse, phiên bản việt Nam Kết quả học tập: điểm trung bình tất cả các môn học của học kỳ 1 - Phương pha p xư ly sô liêụ 9. Đo ng go p mơ i cu a nghiên cƣ u - Đây la môt trong như ng luâṇ văn tha c sy đâ u tiên nghiên cư u vê mô i tương quan giư a kê t qua ho c tâ p va tư đa nh gia cu a ho c sinh lơ p 5. - Luâṇ văn go p phâ n la m sa ng to mô i tương quan giư a kê t qua ho c tâ p va tư đa nh gia của học sinh lớp 5 tại Hà Nội. 10. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được trình bày trong 3 chương. Chƣơng 1: Cơ sở lý luận Chƣơng 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu Chƣơng 3: Kết quả nghiên cứu CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu mô i tƣơng quan giữa tự đa nh gia va kết qua ho c tập Mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập a. Những quan điê m cho rằng không có tƣơng quan giữa tự đa nh gia ba n thân va kết qua ho c tập Các tác giả Simon và Simon (1975), Hansford va Hattie (1982), Zimmerman, Copeland, Shope và Dielman (1997), Wilma, Patrick và Josep (2005) đã nhận thấy mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập rất thấp. b. Những quan điê m cho rằng có mô i tƣơng quan chặt chẽ giữa tự đa nh gia ba n thân va kết qua ho c tập Các tác giả Kifer (1973), Dorle, Rubin và Sandidge (1977), Davies và Brember (1999) đã nhận thấy co mối tương quan chặt chẽ giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập của học sinh. Tại Việt Nam, tác giả Đỗ Ngọc Khanh (2005) đã đưa ra kết luận: Các học sinh co học lực yếu co mức độ tự đánh giá bản thân về học tập, cảm xu c và đạo đức thấp nhất và mức độ này của các em tăng lên dần theo mức độ tăng của xếp hạng học lực. Như vậy, hiện nay, các nhà khoa học vẫn chưa co được một kết luận ngã ngũ về mối tương quan này Cơ chế tác động trong mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập a. Quan điê m cho rằng không có mô i tƣơng quan đa ng kê giữa tự đa nh gia ba n thân va kết qua ho c tập McFarlin và Blaskovich (1981) cho rằng sự thực hiện và thành công bị ảnh hưởng bởi những nỗ lực nên co rất ít sự khác nhau về thành công giữa những người co tự đánh giá bản thân cao và những người co tự đánh giá bản thân thấp. 3

4 Robinson và Tayler (1991) cho rằng học sinh giải quyết với những đe doạ tự đánh giá thấp do kết quả học tâ p thấp bằng cách giữ mình ở ngoài quan niệm văn hoá cho rằng chu ng không tốt khi đi học. Tác giả Harter (1998) cho rằng những học sinh co kết quả học tập thấp, co thể bảo vệ tự đánh giá của mình bằng cách giảm sự đầu tư trong lĩnh vực học tập, thay vào đo sẽ đầu tư vào những lĩnh vực khác mà các em co thể làm tốt như mối quan hệ liên nhân cách hay trong lĩnh vực thể thao. b. Những quan điê m cho rằng có mô i tƣơng quan giữa tự đa nh gia ba n thân va kết qua ho c tập Holly (1987): 1, Cảm giác vô giá trị co thể dẫn đến trầm cảm và trầm cảm co thể hạn chế việc học tập; 2, Nỗi sợ thất bại co thể khiến cho học sinh chùn bước, trái lại, đối với những học sinh co tự đánh giá cao, các em sẵn sàng nắm lấy cơ hội thử thách; 3, Thất bại liên tiếp cộng với cảm giác bất tài co xu hướng làm cho các em cảm thấy chán nản và mất tinh thần Những yếu tố ảnh hưởng đến mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập a. Văn hoa b. Giới ti nh c. Tầm quan tro ng của việc ho c tập đô i với mỗi ca nhân 1.2. Một sô kha i niệm cơ ba n của đề ta i Tự đánh giá bản thân Định nghĩa khái niệm tự đánh giá bản thân a. Kha i niệm đa nh gia Người Hy Lạp cổ đại coi oikeiosis hay tự yêu bản thân như mục tiêu cuối cùng và ý tưởng tự biết bản thân như là một cách thức để biết về Chu a. Sau đo, thuật ngữ tự đánh giá bản thân, trong tiếng Anh là self esteem được sử dụng lần đầu tiên trong từ điển tiếng Anh Oxford từ những năm và no đã được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau. Theo quan điểm thông thường tại Việt Nam thì đánh giá là nhận thức cho rõ giá trị của một người hoặc một vật. Từ những quan điểm trên có thể thấy rằng khái niệm đánh giá chỉ việc định giá về giá trị của một con người, một sự vật, một hiện tượng. a. Kha i niệm tự đa nh gia ba n thân Trong tâm lý học thế giới hiện nay, các tác giả đưa ra ba quan điểm khi định nghĩa về tự đánh giá bản thân. Tự đa nh gia ba n thân nhƣ năng lực: William James (1890) là người đi đầu trong quan điểm này. Tự đa nh gia ba n thân nhƣ gia trị: Morris Rosenberg (1965) là tác giả co quan điểm chủ chốt trong vấn đề này. Tự đa nh gia ba n thân gồm ca năng lực va gia trị: Năm 1969, Nathaniel Branden định nghĩa tự đánh giá bản thân co hai khía cạnh liên quan đến nhau: cảm giác về khả năng tự thực hiện và cảm giác về giá trị cá nhân. Trong bô i ca nh văn hoa Việt Nam, tác giả Đặng Hoàng Minh đã đưa ra cách hiểu về tự đánh giá bản thân như quá trình cá nhân co những phán xét, đánh giá về bản thân mình, về sự thể hiện, khả năng và tính cách của mình. 4

5 Từ điển Tâm lý học của Vũ Dũng: Tự đánh giá bản thân là giá trị, ý nghĩa mà cá nhân tự xác định cho bản thân no i chung cũng như các khía cạnh riêng lẻ của nhân cách, của hoạt động, của hành vi". Trong phạm vi nghiên cứu đề tài, chu ng tôi cho rằng tự đánh giá bản thân là quan điểm và thái độ của cá nhân hướng tới giá trị của chính bản thân mình trong nhiều khía cạnh khác nhau của nhân cách Quá trình phát triển và cơ sở hình thành tự đánh giá bản thân a. Qua trình pha t triê n tự đa nh gia ba n thân Khi một đứa bé mới ra đời, no chưa co ý thức về mình như một cá thể riêng lẻ của loài người và vì vậy chưa thực sự co tự đánh giá bản thân. Khi người xung quanh tương tác với chu ng, chu ng mới ý thức về sự tồn tại của mình. Ở tuổi chập chững biết đi, trẻ nhìn chính mình thông qua con mắt của người khác mà đặc biệt là cha mẹ. Đến trước tuổi đi học, tự đánh giá bản thân của trẻ phát triển về mặt thể chất. Khi bước vào tiểu học, tự đánh giá bản thân ở giai đoạn này là về việc chu ng quản lý nhiệm vụ học tập ở trường, chơi thể thao, ngoại hình, các mối quan hệ bạn bè. Ở tuổi vị thành niên, tự đánh giá bản thân co thể bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi về ho c môn và cơ thể. b. Cơ sở cho qua trình hình tha nh tự đa nh gia ba n thân Một sô quan điê m cho rằng những yếu tô bên trong mỗi con ngƣời chi nh la nền ta ng cho việc hình tha nh tự đa nh gia ba n thân của mình. Laurence Steinberg (1993) cho rằng ở nữ, khi bước vào tuổi dậy thì, những thay đổi về cơ thể là yếu tố ảnh hưởng đến tự đánh giá của các em. Shower (1992) cho rằng sự hợp nhất giữa các suy nghĩ tiêu cực và tích cực co ảnh hưởng đến tự đánh giá. Ca c yếu tô bên ngoa i: C.H. Cooley (1902) cho rằng tư đánh giá của chu ng ta về giá trị của bản thân mình dựa trên sư đánh giá ma chu ng ta tưởng tượng rằng người khác co về chúng ta. Mead (1934) cho rằng con người tiếp thu những ý tưởng, thái độ của những người quan trọng với họ để hình thành tự đánh giá bản thân. Sự kết hơ p hai yếu tô bên trong va bên ngoa i Coopersmith (1967) đưa ra bốn yếu tố đo ng go p vào quá trình phát triển tự đánh giá bản thân: thái độ tôn trọng và chấp nhận mà trẻ nhận được từ những người quan trọng khác; trải nghiệm về thành công - thân phận và vị trí của trẻ trong môi trường sống của mình; định nghĩa của trẻ về thành công và thất bại - điều phản ánh kinh nghiệm riêng của trẻ; thái độ chung của trẻ hướng tới những phản hồi tiêu cực hoặc làm giảm giá trị Cấu trúc tự đánh giá bản thân Co hai cách tiếp cận về cấu tru c hay tính toàn thể của tự đánh giá bản thân: thứ nhất, tự đánh giá bản thân như bức chân dung thống nhất toàn thể về con người; thứ hai tự đánh giá bản thân như bức chân dung nhiều chiều với những thành tố độc lập. Robins, Hendin và Trzesniewski (2001) đã phát triển một thang đo toàn thể về tự đánh giá để chứng minh quan điểm tự đánh giá bản thân như một cấu tru c tổng thể. Susan Harter (1979) đã chia tự đánh giá bản thân của trẻ thành 5 yếu tố: 1) Tự đánh giá tổng quát; 2) Tự đánh giá về học tập; 3) Tự đánh giá về thể chất; 4) Tự đánh giá về giao tiếp xã hội; Khi nghiên cứu về tự đánh giá bản thân của học sinh trung học phổ thông, tác giả Đỗ Ngọc Khanh đã sử dụng thang đo của Harter và thích nghi vào văn hoá Việt Nam. Tác giả đã bổ sung thêm khía cạnh đạo đức. 5

6 Các nhà tâm lý học Pháp đã xây dựng một thang đo tự đánh giá bản thân gồm co 5 thành phần là xã hội, học đường, thể chất, tình cảm và tương lai. Sau đo, thang đo này đã được tác giả Đặng Hoàng Minh thích nghi tại Việt Nam, bổ sung thêm thành tố gia đình và thu được một thang đo tự đánh giá bản thân gồm co 3 khía cạnh khác nhau là gia đình, thể chất và học đường - xã hội [26] Tính bền vững của tự đánh giá bản thân a. Những quan điê m cho rằng tự đa nh gia ba n thân không có ti nh bền vững Robins, Trzesniewski, Tracy, Gosling và Potter (2002), tự đánh giá bản thân co thể được định hình từ khi còn bé nhưng no tiếp tục thay đổi và phát triển trong suốt cuộc đời một con người. Leary và đồng nghiệp (1995) cho rằng tự đánh giá bản thân liên quan đến tình trạng mối quan hệ của một người với người khác. b. Những quan điê m cho rằng tự đa nh gia ba n thân có ti nh bền vững Tác giả Kernis (1993): tự đánh giá bản thân dao động lên xuống xung quanh một đường ổn định bền vững. c. Một sô ca c ta c gia kha c cho rằng ti nh bền vững của tự đa nh gia phu thuộc va o nhiều yếu tô kha c nhau Brown và Mankowski cho rằng một thay đổi nhất thời trong trạng thái tâm lý dẫn đến sự thay đổi nhất thời tương đương trong tự đánh giá bản thân Phân loại tự đánh giá bản thân Chris Mruk đã đưa ra một biểu đồ về tự đánh giá và chia tự đánh giá bản thân thành những loại khác nhau. Tự đánh giá bản thân thấp Tự đánh giá bản thân cao Tự đánh giá bản thân dựa trên giá trị Tự đánh giá bản thân dựa trên năng lực Vai trò của tự đánh giá bản thân trong phát triển nhân cách Tự đánh giá bản thân cho chu ng ta biết rằng chu ng ta là ai và chu ng ta sống trên đời này như thế nào. No hoạt động trong cả các tình huống, trải nghiệm, trạng thái tồn tại tích cực và tiêu cực. Trong những năm đầu của thập niên 70 của thế kỷ trước, người ta đã khẳng định rằng tự đánh giá bản thân là nguyên nhân ảnh hưởng đến hầu hết các khía cạnh trong đời sống của con người. Tự đánh giá bản thân co mối quan hệ với các yếu tố như trầm cảm, hạnh phu c, hành vi chống đối xã hội Kết quả học tập Định nghĩa Good (1973) đã định nghĩa kết quả học tập là thái độ, kiến thức hoặc kỹ năng trong học tập được đánh giá bởi điểm số của các bài kiểm tra hay các bài tập do giáo viên đưa ra [32]. Theo quan điểm của chúng tôi, kết quả học tập là thành tích mà cá nhân đạt được trong học tập, được đánh giá bằng các bài tập hoặc các bài kiểm tra tại trường lớp, là tiêu chuẩn để đánh giá năng lực học tập của con người Những yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tập Các tác giả đã nhận thấy nhiều yếu tố khác nhau ảnh hưởng tới kết quả học tập của học sinh: 1, Bối cảnh văn hoá; 2, Trường học; 3, Điểm cá nhân Cách thức đánh giá kết quả học tập 6

7 Đối với học sinh lớp 5, kết quả học tập của học kỳ 1 thể hiện ở điểm thi cuối kỳ của các em. Co 3 môn học quan trọng nhất ảnh hưởng đến việc xếp loại học lực của các em đo là: Toán, tiếng Việt và Sử địa Đặc điê m pha t triê n tâm ly của ho c sinh lớp Đặc điểm phát triển tâm lý chung của học sinh lớp 5 a. Sự pha t triê n của ca c qua trình nhận thức Ở tuổi học sinh diễn ra một sự phát triển toàn diện về các quá trình nhận thức. Trong đo đáng kể nhất là sự phát triển của tri giác, sự tập trung, trí nhớ, tưởng tượng, tư duy. b. Sự pha t triê n của xúc ca m - ý chí Đời sống xu c cảm, tình cảm của học sinh khá phong phu, đa dạng và cơ bản là mang tính tích cực. Tâm trạng sảng khoái, vui tươi thường bền vững, lâu dài là biểu hiện vốn co ở học sinh. c. Sự pha t triê n nhân ca ch Sự phát triển nhân cách của học sinh chủ yếu diễn ra và bị chi phối bởi hoạt động chủ đạo là hoạt động học tập. Vào độ tuổi lớp 5, những tấm gương, những lời đánh giá của bạn bè bắt đầu co ý nghĩa lớn trong việc nhìn nhận, đánh giá bản thân. Đo là cơ sở quan trọng của tính tự đánh giá bản thân, no cho phép phân tích một cách hợp lý khách quan những phán đoán và hành vi của trẻ - một phẩm chất nhân cách quan trọng Tự đánh giá bản thân của học sinh lớp 5 Co rất nhiều lý thuyết cho rằng giai đoạn trẻ em từ 6 hay 7 tuổi đến 11 hoặc 12 tuổi là giai đoạn trong đo tự đánh giá bản thân của cá nhân co sự phát triển mạnh mẽ. Harter va Whitesell (2003) cho rằng: giai đoạn từ 7 đến 11 tuổi là khoảng thời gian quyết định nhất đối với sự phát triển tự đánh giá bản thân của trẻ vì đo là khi trẻ khám phá, được biết đến, được nhận dạng với khả năng và những đặc điểm của chính mình. Tự đánh giá bản thân của trẻ thường liên quan đến đánh giá các chức năng xã hội, thể chất và nhận thức [35]. Theo Erikson, ở giai đoạn từ 7 đến 11 tuổi, trẻ phát triển ý thức về sự chăm chỉ và học cách hợp tác với những người khác. Những nhà nghiên cứu theo quan điểm của Erikson lưu ý rằng cảm giác về năng lực và tự đánh giá đo ng vai trò quan trọng cốt yếu trong sự phát triển tự đánh giá bản thân lành mạnh của trẻ. Khi gặp vấn đề với tự đánh giá thì co nhiều yếu tố khác nhau giu p hoặc cản trở sự phát triển tinh thần, sự tự đánh giá bản thân của trẻ. Đo là những vấn đề về gen, cách quan sát và giáo dục của cha mẹ, sự quan tâm và chối bỏ của giáo viên, sự hỗ trợ của những trẻ khác, nền văn hoá của trẻ nhấn mạnh tính cá nhân hay những giá trị cộng đồng. Tổng kết lại co thể thấy rằng ở giai đoạn này, khả năng tự nhận thức về bản thân mình và người khác của các em đã được nâng cao. Trải nghiệm thất bại hay thành công trong các mối quan hệ và trong lĩnh vực học tập trong năm năm học đầu tiên của cuộc đời go p phần hình thành cho các em những ý niệm về bản thân mình và cảm giác về giá trị. Co thể thấy đây là giai đoạn mà tự đánh giá bản thân của trẻ em cần được quan tâm nghiên cứu. CHƢƠNG 2 TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 7

8 2.1. Gia thuyết nghiên cứu Nghiên cứu của chúng tôi là nghiên cứu mang tính dự báo. Giả thuyết nghiên cứu của đề tài được xác định: Tự đánh giá bản thân và kết quả học tập của học sinh lớp 5 tại Hà Nội co mối tương quan với nhau: - Tự đánh giá bản thân của học sinh co sự thay đổi qua 2 thời gian nghiên cứu cách nhau 3 tháng. - Sự thay đổi này chịu ảnh hưởng trực tiếp của kết quả học tập. Để chứng minh cho giả thuyết nghiên cứu trên, chúng tôi tiến hành xác định các biến nghiên cứu của đề tài là: - Biến độc lập (independent variables): tự đánh giá bản thân của học sinh lần 1, giới tính, trường, cán bộ lớp, hoạt động ngoại khoá. - Biến phu thuộc (dependent variables): tự đánh giá bản thân của học sinh lần 2. - Biến trung gian (mediator): điểm trung bình học tập 2.2. Thiết kế nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu văn bản tài liệu Hồi cứu những tài liệu có nội dung về: Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi Phương pháp xử lý số liệu a. Ti nh tƣơng quan b. So sa nh hai gia trị trung bình c. Phân ti ch phƣơng sai ANOVA d. Phân ti ch hồi quy e. Mô hình tuyến ti nh chung Công cụ nghiên cứu Thang đo tự đánh giá bản thân Trong đề tài này, chu ng tôi lựa chọn thang đo tự đánh giá bản thân của Toulouse (1994) đã được tác giả Đặng Hoàng Minh thích ứng vào Việt Nam. Tác giả Đặng Hoàng Minh đã thích nghi thang đo này thu được là 1 thang đo co 13 câu trải rộng qua cả ba nhân tố gia đình (6 câu), thể chất (4 câu) và học đường xã hội (3 câu). Độ hiệu lực của toàn thang đo là 0,78, của nhân tố tự đánh giá bản thân về gia đình là 0,82, tự đánh giá bản thân về thể chất là 0,74, tự đánh giá bản thân về học đường xã hội là 0,44 [26]. Ba ng cấu trúc tự thang đo đa nh gia ba n thân Gia đình Gia đình tôi yêu thương tôi. Thể chất Trong gia đình, mọi người không nghĩ đến tôi. Tôi co một vị trí quan trọng trong gia đình. Tôi luôn cảm thấy mình là người thừa trong gia đình tôi. Tôi tin là gia đình tôi sẽ tốt hơn nếu không có tôi. Tôi ước là mình được sinh ra trong gia đình khác. No i chung, tôi nghĩ là mọi người đều thấy tôi ưa nhìn. Tôi thấy mình vụng về, hậu đậu, tay chân lóng ngóng, thừa thãi. Tôi tự hào về cơ thể mình. Tôi thấy rằng cơ thể của mình rất cân đối. 8

9 Học đường xã hội Kết quả học tập không tốt rất dễ làm tôi nản chí. Ở trường, khi tôi không hiểu điều gì, tôi không dám nói ra. Trong nhóm, tôi có cảm giác cô độc, một mình. Những câu hỏi được chu ng tôi in nghiêng là những câu hỏi trái chiều Kết quả học tập Kết quả học tập là bảng điểm cuối kỳ của học sinh lâ y từ giáo viên chủ nhiệ m của các lớp học mà chu ng tôi nghiên cứu. Đối với học sinh lớp 5, co 3 môn học chính là: toán, văn và sử địa (hai môn sử địa được gộp điểm làm một). Do vậy, chu ng tôi đã thu thập điểm số của 3 môn này Quy trình nghiên cứu Thời gian 1: Đo tự đánh giá bản thân của học sinh lần 1 vào thời điểm đầu năm học (tháng 10/2011). Thời gian 2: Đo tự đánh giá bản thân của học sinh lần 2 sau 1 tuần công bố kết quả học tập cuối học kỳ 1 (tháng 1/2012) Khách thể nghiên cứu Tổng số khách thể nghiên cứu là 290 học sinh lớp 5 tại 3 trường tiểu học trên. Cụ thể là 107 học sinh trường Thành công, 90 học sinh trường tiểu học Đồng Nhân và 93 học sinh trường tiểu học Đoàn Thị Điểm. Đặc điê m của kha ch thê nghiên cứu: - Về mặt giới tính: số lượng khách thể nam và nữ tương đương nhau với 146 học sinh nam và 144 học sinh nữ. - Cán bộ lớp: Trong tổng số mẫu khách thể nghiên cứu, co 66 học sinh là cán bộ lớp và 224 học sinh không phải là cán bộ lớp. - Điê m trung bình: chu ng tôi chia khoảng điểm theo quy định chung về học lực với điểm 6 7 (học lực trung bình), 7 8 (học lực khá), 9 10 (học lực giỏi). Kết quả cho thấy, 24.5 % học sinh đạt điểm trung bình, 50.3 % học sinh đạt loại khá, 13.0% học sinh đạt điểm giỏi. - Hoa t động ngoa i khoa : 72,1% học sinh co tham gia hoạt động ngoại khoá, 15,8% học sinh không tham gia hoạt động ngoại khoá nào 2.3. Tổ chức nghiên cứu Địa bàn nghiên cứu Địa ba n nghiên cứu: Trường tiểu học công lập Thành Công B (quận Ba Đình, Hà Nội) với 1700 học sinh, trường tiểu học dân lập Đoàn Thị Điểm (quận Từ Liêm, Hà Nội) với 3000 học sinh và trường tiểu học dân lập Đồng Nhân (quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) với 700 học sinh Tiến trình thực hiện nghiên cứu Nghiên cứu tài liệu và lựa chọn phương pháp nghiên cứu Khảo sát thực trạng - Thời gian 1: tháng 10 năm 2011 Bƣớc 1: Liên hệ với ban lãnh đạo của 3 trường tiểu học, lựa chọn ngẫu nhiên các lớp tham gia vào nghiên cứu. 9

10 Bƣớc 2: Liên lạc với giáo viên chủ nhiệm để trao đổi về thời gian và cách thức tiến hành nghiên cứu. Bƣớc 3: Thực hiện phát phiếu vào thời gian sinh hoạt lớp. - Thời gian 2: tháng 1 năm 2012 Làm việc với giáo viên chủ nhiệm để phát phiếu lần 2 cũng vào giờ sinh hoạt lớp và thu thập dữ liệu về điểm số của học sinh từ giáo viên chủ nhiệm Làm sạch và xử lý dữ liệu a. Trong công đoạn làm sạch dữ liệu, chu ng tôi thực hiện một số thao tác sau: - Mã hoá lại các câu theo hướng trái chiều, bao gồm những câu sau: - Kiểm tra các trường hợp bị thiếu (missing data) - Kiểm tra các trường hợp ngoại lai (outliers) bằng biểu đồ và sắp xếp biến (Sort Case) - Kiểm tra và loại bỏ những khách thể không thực hiện đủ hai lần đo tự đánh giá bản thân. Số liệu chu ng tôi thu được gồm co 345 khách thể, sau khi loại bỏ những khách thể không cần thiết như trên, chu ng tôi còn 290 khách thể. b. Trong công đoạn xử lý số liệu, chu ng tôi sử dụng các thống kê mô tả, tính trung bình, tính tương quan, phân tích phương sai, sử dụng mô hình tuyến tính chung phục vụ mục đích nghiên cứu của đề tài. CHƢƠNG 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Thực tra ng tự đa nh gia ba n thân của ho c sinh lớp 5 ta i Ha Nội Thực trạng tự đánh giá bản thân của học sinh lớp 5 vào đầu năm học (lần 1) Mức độ tự đánh giá bản thân của học sinh lớp 5 vào đầu năm học (lần 1) Điểm trung bình tự đánh giá bản thân tổng thể của học sinh là 3,94 (gần với mức phần nào đồng ý trên thang đo tự đánh giá bản thân). Độ lệch chuẩn là 0,62 no i lên rằng mức độ phân tán điểm trung bình về tự đánh giá bản thân của học sinh thấp. Như vậy, nhìn chung học sinh co tự đánh giá bản thân tương đối đồng nhất và đạt mức độ trung bình khá. Trong số các khía cạnh của tự đánh giá bản thân thì trong lĩnh vực gia đình, học sinh tự đánh giá mình cao nhất với điểm số trung bình là 4,38. Xếp sau nhân tố gia đình là hai nhân tố tự đánh giá bản thân về học đường xã hội với = 3,88 và tự đánh giá bản thân về thể chất với = 3,31. Như vậy, học sinh co xu hướng đánh giá bản thân mình tương đối cao trong khía cạnh gia đình. Điều này đồng nghĩa với việc trong môi trường gia đình, các em cảm thấy được yêu thương, quan tâm, được chấp nhận và co giá trị. Trái với mức độ tự đánh giá bản thân về mặt gia đình là mức độ tự đánh giá bản thân về mặt thể chất. Điểm trung bình của khía cạnh tự đánh giá bản thân về thể chất ( = 3,31) nằm ở mức ranh giới giữa hai mức đối lập nhau là đồng ý và không đồng ý trên thang đo tự đánh giá bản thân. Điều này chứng tỏ học sinh không thực sự tự tin về đặc điểm cơ thể, ngoại hình của mình. Tự đánh giá bản thân về mặt học đường xã hội xấp xỉ với mức độ phần nào đồng ý trên thang đo của chu ng tôi khi co giá trị trung bình = Con số này chỉ ra rằng trong môi trường học đường và các nho m xã hội, học sinh cũng co xu hướng đánh giá bản thân hướng theo hướng tích cực hơn là hướng tiêu cực. Tự đánh giá bản thân ở khía cạnh học đường xã hội của học sinh lớp 5 ở mức giữa so với hai khía cạnh trên, tức là mức trung bình khá với điểm trung bình = 3,88. 10

11 Những yếu tố ảnh hưởng đến tự đánh giá bản thân của học sinh lớp 5 đầu năm học (lần 1) a. Giới ti nh Kết quả cho thấy yếu tố giới tính không hề ảnh hưởng đến tự đánh giá bản thân tổng thể của học sinh hay các khía cạnh tự đánh giá bản thân về mặt gia đình, thể chất và học đường xã hội. Giá trị F thu được đều rất nhỏ và các giá trị p đều lớn hơn 0,05. Mối quan hệ giữa giới tính và tự đánh giá bản thân tổng thể co giá trị F = 0,15 và giá trị p = 0,70 > mức ý nghĩa là 0,05. Điều này phản ánh sự bình đẳng về giới trong cảm nhận về giá trị và năng lực bản thân giữa nam và nữ, cũng như phản ảnh phần nào sự bình đẳng về giới trong xã hội hiện nay. b. Trƣờng ho c Từ kết quả thu được, chu ng tôi nhận thấy co sự khác biệt về tự đánh giá bản thân tổng thể, ở khía cạnh gia đình và học đường xã hội giữa các trường với nhau. Khi chạy kiểm định về sự khác biệt lần lượt giữa hai trường với nhau, chu ng tôi thu được các kết quả: Co sự khác biệt về tự đánh giá bản thân tổng thể giữa trường Đoàn Thị Điểm và trường Đồng Nhân (p = 0,03), trường Đồng Nhân và trường Thành Công (p =0,03). Như vậy, giữa hai trường tiểu học dân lập là Đoàn Thị Điểm và Đồng Nhân cũng co sự khác biệt về tự đánh giá tổng thể lần 1. Điều này cho thấy rằng sự giống nhau về tính chất trường dân lập (môi trường học tập cởi mở hơn và sự đo ng go p, vai trò của phụ huynh với nhà trường lớn hơn so với các trường tiểu học công lập) không mang lại kết quả tự đánh giá tổng thể tương tự nhau giữa hai trường này. Bên cạnh đo, giữa trường Thành Công và trường Đồng Nhân cũng co sự khác biệt về tự đánh giá tổng thể. Trong tự đánh giá bản thân theo khía cạnh trường học, giữa trường Đoàn Thị Điểm và trường Đồng Nhân, trường Đồng Nhân và Thành Công co sự khác biệt co ý nghĩa về mặt thống kê với giá trị p lần lượt là 0,01 và 0,06 (khi xét mức ý nghĩa p < 0,1). Giữa trường Đoàn Thị Điểm và trường Đồng Nhân (p = 0,02), trường Đồng Nhân và trường Thành Công (p = 0,04) co sự khác biệt co ý nghĩa thống kê về tự đánh giá bản thân trong khía cạnh học đường xã hội. Trường Đồng Nhân là trường dân lập với số lượng học sinh tương đối ít (700 học sinh) cho cả 5 khối lớp, không phải là trường co tiếng tăm như trường Đoàn Thị Điểm hay trường Thành Công. Co thể vì vậy mà những học sinh học tại trường này cảm thấy ít tự tin về giá trị và năng lực của bản thân mình hơn hai trường tiểu học còn lại. c. Ca n bộ lớp Việc co phải là cán bộ lớp hay không không ảnh hưởng đến tự đánh giá tổng thể cũng như tất cả các mặt tự đánh giá bản thân của học sinh. Khi tìm hiểu ảnh hưởng của việc co phải là cán bộ lớp hay không tới tự đánh giá bản thân tổng thể của học sinh, chu ng tôi thu được giá trị F = 0,03, p = 0,87. Các khía cạnh của tự đánh giá bản thân cũng đều không chịu ảnh hưởng của yếu tố cán bộ lớp với các giá trị p > 0,05. Những học sinh không phải là cán bộ lớp chưa chắc đã phải là người không co năng lực. Hơn thế nữa, tuy không phải là cán bộ lớp nhưng các em nhận thấy mình làm tròn nghĩa vụ của người học trò, cảm thấy hài lòng với bản thân thì điều này cũng là một yếu tố tích cực tác động đến tự đánh giá của các em. Còn với những em học sinh tuy là cán bộ lớp, các em co thể đánh giá bản thân mình cao về vị trí trong lớp học nhưng về những mặt khác, các em cũng chỉ như những bạn còn lại trong lớp và vì vậy, tự đánh giá bản thân của các em nhìn chung cũng tương đồng với những bạn không phải là cán bộ lớp. d. Tham gia ca c hoa t động ngoa i khoa 11

12 Việc tham gia các hoạt động khác không ảnh hưởng đến tự đánh giá bản thân của học sinh. Độ tin cậy của biến này không cao vì công cụ chỉ quan tâm tới những hoạt động tích cực (các môn thể dục, thể thao (bo ng đá, cờ vua, cầu lông ) hay nghệ thuật (vẽ, nhạc, hoạ )) mà chưa chu ý đến những hoạt động tiêu cực (chơi game, hu t thuốc, sử dụng đồ uống co cồn, cá độ ). Đây là hạn chế của đề tài, do đo kết quả chu ng tôi thu được không no i hết lên được mối quan hệ giữa việc tham gia những hoạt động khác ngoài học đường với tự đánh giá bản thân của trẻ. Như vậy, trong thời gian đầu năm học, khi chu ng tôi tiến hành điều tra tự đánh giá bản thân của học sinh lớp 5 lần 1, kết quả thu được cho thấy tự đánh giá bản thân của học sinh ở mức trung bình khá Thực trạng tự đánh giá bản thân của học sinh lớp 5 khi kết thúc học kỳ 1 (lần 2 sau 3 tháng) Mức độ tự đánh giá bản thân của học sinh lớp 5 khi kết thúc học kỳ 1 (lần 2 sau 3 tháng) Điểm trung bình tự đánh giá bản thân tổng thể của học sinh khi nghiên cứu lần 2 là 3,87 (gần với mức phần nào đồng ý trên thang đo tự đánh giá bản thân). Độ lệch chuẩn là 0,65 no i lên rằng mức độ phân tán điểm trung bình về tự đánh giá bản thân của học sinh thấp. Như vậy, nhìn chung khi kết thu c học kỳ 1, học sinh co tự đánh giá bản thân tương đối đồng nhất và đạt mức độ trung bình khá. Tự đánh giá bản thân của học sinh về gia đình chiếm vị trí cao nhất với điểm trung bình là 4,36. Xếp sau tự đánh giá bản thân về gia đình là tự đánh giá bản thân về học đường xã hội ( = 3,81) và tự đánh giá bản thân về thể chất ( = 3,16). Từ đo, chu ng tôi ru t ra kết luận học sinh co xu hướng đánh giá cao bản thân mình trong khía cạnh gia đình nhưng lại đánh giá thấp bản thân mình trong khía cạnh thể chất. Số liệu thu được cho thấy hầu hết các câu trong nhân tố tự đánh giá bản thân về mặt gia đình đều được học sinh lựa chọn với số điểm trung bình tương đối cao. Nhìn chung, các em học sinh lớp 5 vẫn co đánh giá bản thân của mình trong lĩnh vực gia đình tương đối tốt. Tự đánh giá bản thân của học sinh ở khía cạnh thể chất khi được nghiên cứu sau 3 tháng vẫn ở mức ranh giới giữa cao và thấp ( = 3,16). Cảm giác mình là người ưa nhìn được các em học sinh đánh giá thấp nhất: = 2,80 và mức độ đánh giá cao nhất cũng chỉ dừng lại là = 3,52 với câu no i Tôi cảm thấy mình vụng về, hậu đậu, tay chân lo ng ngo ng, thừa thãi. Số liệu này cho thấy học sinh chưa thực sự tự tin về đặc điểm thể chất của mình. Sau 3 tháng nghiên cứu, tự đánh giá bản thân ở khía cạnh học đường xã hội của học sinh lớp 5 vẫn ở mức giữa so với hai khía cạnh trên, tức là mức trung bình khá với điểm trung bình = 3, Những yếu tố ảnh hưởng đến tự đánh giá bản thân của học sinh lớp 5 vào cuối học kỳ 1 (lần 2 sau 3 tháng) a. Giới ti nh Kết quả phân tích số liệu cho thấy sự khác biệt về giới tính không ảnh hưởng đến tự đánh giá bản thân tổng thể của học sinh hay các khía cạnh tự đánh giá bản thân về mặt gia đình, thể chất và học đường xã hội. Giá trị F thu được đều rất nhỏ và các giá trị p đều lớn hơn 0,05. Mối quan hệ giữa giới tính và tự đánh giá bản thân tổng thể co giá trị F = 0,00 và giá trị p = 0,96 > mức ý nghĩa là 0,05. Điều này cho thấy không co sự khác biệt về giới tính đối với tự đánh giá bản thân. b. Trƣờng ho c 12

13 Khi dùng phân tích phương sai ANOVA, chu ng tôi nhận thấy co sự khác biệt co ý nghĩa thống kê giữa các trường về tự đánh giá bản thân tổng thể và tự đánh giá bản thân khía cạnh học đường xã hội. Khi kiểm tra cụ thể sự khác biệt giữa từng cặp, chu ng tôi nhận thấy sự khác biệt co ý nghĩa về mặt thống kê trong tự đánh giá bản thân tổng thể (p = 0,08) và tự đánh giá bản thân về học đường xã hội giữa (p = 0,01) trường Đoàn Thị Điểm và trường Đồng Nhân. Kết quả về sự khác biệt này được trình bày tại bảng 3.18 và 3.19 c. Cán bộ lớp Vị trí trong lớp (hay no i khác đi việc co phải là cán bộ lớp hay không) không ảnh hưởng đến tự đánh giá tổng thể cũng như tất cả các mặt tự đánh giá bản thân của học sinh. Khi tìm hiểu ảnh hưởng của sự khác biệt giữa việc co phải là cán bộ lớp hay không tới tự đánh giá bản thân tổng thể của học sinh, chu ng tôi thu được giá trị F = 0,35, p = 0,55. Các khía cạnh của tự đánh giá bản thân cũng đều co giá trị p > 0,05. d. Tham gia ca c hoa t động ngoa i khoa Số liệu thu được chỉ ra không co sự khác biệt nào trong tự đánh giá bản thân của học sinh giữa những em co tham gia hay không tham gia những hoạt động khác. Với tự đánh giá bản thân tổng thể, khi chạy phân tích phương sai chu ng tôi thu được giá trị F = 0,00, p = 0,95. Những con số này cho thấy tự đánh giá bản thân tổng thể không bị ảnh hưởng bởi việc học sinh co tham gia các hoạt động ngoài nhà trường hay không. Những khía cạnh của tự đánh giá bản thân cũng co chung kết quả như vậy Kết qua ho c tập của ho c sinh lớp 5 ta i Ha Nội Kết quả xử lý số liệu của chu ng tôi cho thấy điểm trung bình chung học tập của học sinh khối lớp 5 trên địa bàn Hà Nội rất cao với = 9,27, điểm số không co sự phân hoá cao, độ lệch chuẩn co giá trị 0,64 < 1. Trong số các môn học được chu ng tôi thu thập điểm số là toán, tiếng Việt, sử địa thì môn tiếng Việt co điểm số thấp nhất với = 9,06, sử địa là môn co điểm số cao nhất với = 9,58. Những con số này cho thấy phần lớn học sinh đều đạt điểm gần như tối đa trong các môn thi cuối kỳ. Chu ng tôi nhận thấy co một sự chênh lệch đáng kể về sự khác biệt điểm số theo trường với giá trị F = 12,70 và p = 0,00. Điều này no i lên hoặc là năng lực học tập của học sinh giữa ba trường co sự khác biệt đáng kể hoặc là quá trình đánh giá kết quả học tập của học sinh tại ba trường không giống nhau và không cùng phản ánh được năng lực thực sự của học sinh trong trường mình. Yếu tố giới tính cũng tạo nên sự khác biệt về mặt điểm số với giá trị F = 4,25 và p =0,04. Khi so sánh điểm trung bình của hai nho m nam và nữ, chu ng tôi nhận thấy nho m nam co điểm trung bình là 9,19, thấp hơn điểm trung bình của nho m nữ là 9,34. Giữa những học sinh giữ vai trò là cán bộ lớp và những học sinh không phải là cán bộ lớp không co sự khác biệt về tự đánh giá bản thân nhưng lại co sự khác biệt về kết quả học tập với giá trị F = 23,51, p = 0,00. Trong đo, điểm số trung bình của học sinh là cán bộ lớp là 9,59 và điểm trung bình của học sinh không phải là cán bộ lớp là 9,18. Sở dĩ co sự khác biệt như vậy vì trong môi trường lớp học, các giáo viên chủ nhiệm thường co xu hướng lựa chọn những em học sinh co khả năng học tập tốt để làm cán bộ lớp. Trong trường hợp những em co thành tích học tập không tốt nhưng lại tích cực tham gia các hoạt động của lớp và làm tốt vai trò cán bộ lớp của mình thì co thể giáo viên sẽ cộng vào điểm học tập cho các em. Khi xem xét biến còn lại là co tham gia các hoạt động khác hay không, chu ng tôi nhận thấy không co sự ảnh hưởng của các biến này đến kết quả học tập với giá trị F = 0,49, p = 0,48. Điều này phần nào cho thấy học sinh đã biết cân bằng giữa hoạt động học tập và những 13

14 hoạt động khác để những hoạt động này không ảnh hưởng đến kết quả học tập của bản thân mình. To m lại, kết quả học tập của học sinh tại 3 trường tiểu học mà chu ng tôi đã nghiên cứu là rất cao. Các yếu tố giới tính, trường, cán bộ lớp ảnh hưởng tới kết quả học tập mà học sinh đạt được. Yếu tố tham gia các hoạt động khác không ảnh hưởng đến kết quả học tập của học sinh Mô i tƣơng quan giữa tự đa nh gia ba n thân va kết qua ho c tập của ho c sinh lớp 5 ta i Ha nội Sự thay đổi tự đánh giá bản thân của học sinh lớp 5 tại Hà Nội qua ba tháng Co sự thay đổi về mức độ tự đánh giá bản thân tổng thể (t = 1,81 và p = 0,07) và tự đánh giá bản thân về thể chất (t = 2,84 và p = 0,01). Tự đánh giá bản thân về gia đình (t = 0,41 và p = 0,68) và học đường xã hội (t = 0,93 và p = 0,35) không thay đổi. Điểm trung bình tự đánh giá bản thân tổng thể đã giảm từ 3,94 xuống 3,87 và tự đánh giá bản thân về mặt thể chất đã giảm từ 3,31 xuống 3,19. Sự thay đổi về tự đánh giá bản thân khía cạnh thể chất co thể được lý giải như sau: vào đầu năm học, học sinh vừa trải qua một mùa hè được chơi đùa thoải mái, vui vẻ, chưa chịu áp lực nhiều của việc học tập nên nhìn chung về mặt thể chất, các em còn cảm thấy mạnh khoẻ và tự tin với cơ thể của mình. Đến thời điểm cuối năm học, khi đã trải qua những kỳ thi vất vả, căng thẳng, các em cảm thấy mệt mỏi hơn nên không còn tự tin vào những đặc điểm thể chất của mình nhiều như trước đây nữa Ảnh hưởng của kết quả học tập đến sự thay đổi tự đánh giá bản thân của học sinh lớp 5 tại Hà Nội Tương quan giữa tự đánh giá bản thân của học sinh lớp 5 với kết quả học tập Kết quả nghiên cứu cho thấy không co mối tương quan nào co ý nghĩa giữa tự đánh giá bản thân vào đầu năm học (r = -0,019 và p = 0,753) hay cuối học kỳ 1 (r = 0,74 và co giá trị p = 0,206) với điểm trung bình học tập của học sinh. Kết quả mà chu ng tôi tìm thấy tương tự với kết quả mà một số tác giả đi trước như Simon (1975), Hansford và Hattie (1982), Wilma Vial/e, Patrick C. L. Heaven và Josep Ciarrochi (2005) đã tìm được. Như đã trình bày, khi phân tích về kết quả học tập, chu ng tôi nhận thấy không co sự phân hoá về mặt điểm số giữa các học sinh với nhau. Điểm trung bình học tập của học sinh rất cao = 9,27 với độ lệch chuẩn là 0,64 chứng tỏ mức độ phân tán của điểm nhỏ. Như vậy, dù kết quả học tập như thế nào cũng không tác động trực tiếp đến tự đánh giá bản thân của học sinh. Khi tìm hiểu tương quan giữa lần lượt từng khía cạnh của tự đánh giá bản thân lần 1 và lần 2 với kết quả học tập, chu ng tôi cũng nhận thấy chỉ co tự đánh giá bản thân về mặt gia đình và học đường xã hội với kết quả học tập co tương quan nhỏ lần lượt là r = 0,11 và 0,10. Các yếu tố còn lại không co sự tương quan với kết quả học tập Khả năng dự báo tự đánh giá bản thân của kết quả học tập ở học sinh lớp 5 Kết quả học tập không dự báo tự đánh giá bản thân tổng thể, tự đánh giá bản thân về thể chất hay học đường xã hội của học sinh lớp 5 cong co thể dự báo tự đánh giá bản thân khía cạnh gia đình tuy rằng khả năng dự báo không cao (t = 1,88, p = 0,06 < p = 0,1). Chu ng tôi lý giải nguyên nhân của hiện tượng này từ go c độ tình yêu co điều kiện mà cha mẹ dành cho con cái. a. Kha năng dự ba o tự đa nh gia tổng thê của ho c sinh lớp 5 khi có tƣơng ta c giữa giới ti nh va kết qua ho c tập Sự tương tác giữa biến giới tính và kết quả học tập co thể dự báo yếu tự đánh giá bản thân tổng thể lần 2 của học sinh (F= 1.84 và p = 0,07 < 0,1). Với cùng một mức độ điểm số 14

15 nhưng ở hai giới khác nhau thì lại co tự đánh giá bản thân khác nhau. Kết quả chu ng tôi tìm được co phần tương đồng với quan điểm của tác giả Cynthia Brogan (1998) khi cho rằng giới tính là yếu tố ảnh hưởng đến mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập. b. Kha năng dự ba o tự đa nh gia ba n thân tổng thê va tự đa nh gia về ho c đƣờng xã hội của ho c sinh lớp 5 khi có tƣơng ta c giữa hoa t động ngoa i khoa va kết qua ho c tập Yếu tố hoạt động khi kết hợp với kết quả học tập cũng co thể dự đoán ở mức độ yếu cho tự đánh giá bản thân no i chung và tự đánh giá về khía cạnh học đường - xã hội no i riêng. Khi coi tự đánh giá bản thân tổng thể là biến phụ thuộc chịu sự tác động của tương tác giữa hai biến tham gia hoạt động khác và kết quả học tập chu ng tôi thu được giá trị F = 1,93 và p = 0,07 < p = 0,1. Kết quả của chu ng tôi tương đồng với nhận định của Harter (1998) về cơ chế bảo vệ tự đánh giá bản thân bằng cách đầu tư năng lực và thời gian vào những khía cạnh khác trong cuộc sống mà học sinh co thể thành công cao hơn Ảnh hƣởng của kết qua ho c tập đến sự thay đổi tự đa nh gia ba n thân ở ho c sinh lớp 5 Kết quả học tập không ảnh hưởng tới sự thay đổi tự đánh giá bản thân tổng thể của học sinh (F= 1,15 và p = 0,23 > 0,1). Mặc dù tự đánh giá bản thân tổng thể của học sinh co sự thay đổi nhỏ (xem bảng 3.27) song sự thay đổi đo không chịu sự tác động của kết quả học tập. Sự thay đổi tự đánh giá bản thân về thể chất chịu sự tác động quan trọng của kết quả học tập (F=1,75 và p = 0 < 0,1). Như vậy, kết quả học tập ảnh hưởng đến sự thay đổi tự đánh giá bản thân về mặt thể chất. Mặc dù kết quả học tập của học sinh khá cao song tự đánh giá bản thân về mặt thể chất lại giảm. Điều này xảy ra là do để đạt được kết quả học tập cao, học sinh đã phải chịu nhiều áp lực trong quá trình thi cử, phải nỗ lực nhiều để đạt được thành tích học tập mong đợi, do đo, các em cảm thấy mệt mỏi, giảm năng lượng và sức lực về mặt thể chất. Kết quả là thành tích học tập ảnh hưởng đến sự thay đổi tự đánh giá bản thân về mặt thể chất của học sinh. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận Qua quá trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn, chu ng tôi ru t ra một số kết luận như sau: Về thực tra ng tự đa nh gia ba n thân của ho c sinh lớp 5 ta i Ha Nội Tự đánh giá bản thân tổng thể của học sinh lớp 5 qua hai lần nghiên cứu của chu ng tôi đều ở mức trung bình khá (gần với mức Phần nào đồng ý trong thang đo tự đánh giá bản thân). Với cả hai lần nghiên cứu, trong các khía cạnh của tự đánh giá bản thân thì tự đánh giá bản thân về gia đình được học sinh đánh giá cao nhất, đạt mức phần nào đồng ý trên thang đo tự đánh giá bản thân. Điều này chứng tỏ các em cảm thấy được yêu thương, tôn trọng và co giá trị trong gia đình mình. Trong khi đo, tự đánh giá bản thân về mặt thể chất co điểm trung bình thấp nhất. Kết quả này chỉ ra rằng học sinh chưa thực sự tự tin với ngoại hình và đặc điểm thể chất, vận động của bản thân. Khi tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ tự đánh giá bản thân của học sinh, chu ng tôi thu được kết quả như sau: Trong số các yếu tố được chu ng tôi nghiên cứu, ngoài yếu tố trường, những yếu tố khác như giới tính, tham gia hoạt động ngoại khoá, cán bộ lớp không ảnh hưởng tới mức độ tự đánh giá bản thân của học sinh. Về sự khác biệt giữa các trường trong tự đánh giá bản thân: trong lần nghiên cứu thứ nhất, chu ng tôi nhận thấy sự khác biệt co ý nghĩa giữa trường tiểu học Đồng Nhân và hai trường tiểu học còn lại trong tự đánh giá bản thân tổng thể và tự đánh giá bản thân về gia đình và học đường xã hội. Khi nghiên 15

16 cứu về tự đánh giá của học sinh lớp 5 lần 2, chu ng tôi nhận thấy sự khác biệt co ý nghĩa trong tự đánh giá bản thân tổng thể và tự đánh giá bản thân về học đường xã hội giữa trường tiểu học Đồng Nhân và trường tiểu học Đoàn Thị Điểm. Về kết qua ho c tập của ho c sinh lớp 5 ta i Ha Nội Nhìn chung, kết quả học tập của học sinh lớp 5 tại Hà Nội ở mức rất cao với sự phân hoá về điểm số nhỏ. Yếu tố trường học và giới tính, việc là cán bộ lớp ảnh hưởng tới sự khác biệt về điểm số của học sinh. Cụ thể: trường Đoàn Thị Điểm co điểm số cao nhất, tiếp đến là trường Đồng Nhân và trường Thành Công và học sinh nữ co điểm số cao hơn học sinh nam. Yếu tố tham gia các hoạt động ngoại khoá không ảnh hưởng đến điểm số của các em. Về mô i tƣơng quan giữa tự đa nh gia ba n thân va kết qua ho c tập Qua kết quả thu được sau 3 tháng nghiên cứu trường diễn, chu ng tôi nhận thấy co sự thay đổi yếu về mức độ tự đánh giá bản thân tổng thể và sự thay đổi đáng kể về tự đánh giá bản thân khía cạnh thể chất của học sinh. Tự đánh giá bản thân về gia đình và học đường - xã hội không thay đổi. Mức độ tự đánh giá bản thân về mặt thể chất và tự đánh giá bản thân tổng thể đã giảm đi sau 3 tháng từ đầu năm học đến cuối học kỳ 1. Kết quả này phần nào tương đồng với giả thuyết ban đầu của chu ng tôi cho rằng co sự thay đổi về tự đánh giá bản thân qua hai thời gian nghiên cứu cách nhau 3 tháng. Bên cạnh đo, kết quả của đề tài còn chỉ ra rằng không co mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân tổng thể, tự đánh giá bản thân về thể chất và học đường - xã hội ở cả hai lần nghiên cứu với kết quả học tập của học sinh lớp 5 tại Hà Nội. Giữa tự đánh giá bản thân về gia đình lần 2 và kết quả học tập co tương quan yếu. Điều này trái ngược với giả thuyết chu ng tôi đặt ra ban đầu là co mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập của học sinh lớp 5. Khi kiểm tra khả năng dự báo tự đánh giá bản thân của kết quả học tập, chu ng tôi nhận thấy kết quả học tập không co khả năng dự báo tự đánh giá bản thân tổng thể, tự đánh giá bản thân về học đường xã hội và thể chất của học sinh lớp 5. Tuy vậy, kết quả học tập co khả năng dự báo tự đánh giá bản thân về gia đình của các em với mức độ dự đoán yếu. Qua phân tích mô hình tuyến tính chung, chu ng tôi nhận thấy sự tương tác giữa một số yếu tố với kết quả học tập co thể dự báo ở mức độ yếu tự đánh giá bản thân của học sinh. Cụ thể như sau: 1, Sự tương tác giữa giới tính và kết quả học tập co thể dự báo mức độ yếu tự đánh giá bản thân tổng thể lần 2 của học sinh: với cùng một mức độ điểm số nhưng ở hai giới khác nhau thì tự đánh giá bản thân lại trái ngược hoàn toàn với nhau; 2, Sự kết hợp giữa việc tham gia các hoạt động khác và điểm số co thể dự báo ở mức độ yếu tự đánh giá tổng thể và tự đánh giá về học đường xã hội lần 2 của học sinh: khi kết quả học tập không được như mong đợi, học sinh đầu tư thời gian và năng lực cho những hoạt động khác để đảm bảo tự đánh giá của mình không bị giảm su t; Khi kiểm tra ảnh hưởng của kết quả học tập đến sự thay đổi tự đánh giá bản thân của học sinh sau 3 tháng, chu ng tôi nhận thấy kết quả học tập không ảnh hưởng tới sự thay đổi tự đánh giá bản thân tổng thể của học sinh nhưng ảnh hưởng tới sự thay đổi tự đánh giá bản thân về thể chất. Điều này cho thấy để đạt được kết quả học tập cao, học sinh đã phải nỗ lực nhiều khiến cho các em bị suy giảm về mặt thể chất và làm cho các em không còn tự tin về sức khoẻ, ngoại hình của mình như thời điểm đầu năm học nữa. Kết quả là tự đánh giá bản thân của trẻ về thể chất giảm đi dưới ảnh hưởng của kết quả học tập. Ha n chế của đề ta i Bên cạnh những kết quả tìm được, đề tài chu ng tôi đã thực hiện còn co một số hạn chế như sau: 16

17 Mục đích nghiên cứu của chu ng tôi là nhằm tìm hiểu mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập, xem xét ảnh hưởng của kết quả học tập tới sự thay đổi tự đánh giá bản thân của học sinh lớp 5. Tuy vậy, trong thiết kế nghiên cứu, chu ng tôi chưa loại bỏ được những biến nhiễu ảnh hưởng đến mối quan hệ này như kỳ vọng của trẻ và của cha mẹ vào kết quả học tập của các em. Trong phần thiết kế bảng hỏi, biến hoạt động ngoại khoá co độ hiệu lực bên trong không cao vì chỉ đo được những hoạt động mang tính tích cực (thể dục, thể thao, nghệ thuật) mà chưa đề cập đến những hoạt động tiêu cực (chơi điện tử, sử dụng chất kích thích, các hành vi chống đối xã hội). Bảng hỏi theo hình thức tự báo cáo co hạn chế vì thiếu sự kiểm chứng khách quan, khách thể co thể trả lời thiếu trung trực với bản thân do sợ bị đánh giá. 2. Khuyến nghị Từ thực trạng trên, chu ng tôi xin đề xuất một số khuyến nghị như sau: 2.1.Đối với giáo viên và nhà trường Các trường học co thể tăng cường các hoạt động thể dục, thể thao hay các chương trình giáo dục về dinh dưỡng giu p phát triển cơ thể, vo c dáng cho trẻ, giu p trẻ tự tin hơn về ngoại hình của mình. Nhà trường và giáo viên cần tránh tạo nhiều áp lực cho học sinh để tránh việc các em cảm thấy mệt mỏi, giảm năng lượng và mất tự tin hơn về cơ thể mình qua quá trình học tập và thi cử. Bên cạnh đo, nhà trường cần chu trọng hơn đến các hoạt động tích cực như thể dục, thể thao, văn nghệ để mọi học sinh đều co cơ hội tìm kiếm và phát huy năng lực của mình trong nhiều khía cạnh khác nhau, không chỉ là học tập. Từ đo giu p nâng cao tự đánh giá bản thân của học sinh qua nhiều mặt khác nhau trong cuộc sống. Giáo viên cần co những khích lệ phù hợp đối với trẻ trong quá trình giảng dạy trên lớp, chu ý vào những hành động thể hiện sự nỗ lực của trẻ đối với hoạt động học tập, thay vì chỉ chu trọng đến kết quả học tập cuối cùng của trẻ. Đồng thời, giáo viên cũng cần dạy cho trẻ những kỹ năng tự khám phá giá trị của bản thân để các em co tự đánh giá bản thân một cách phù hợp. 2.2.Đối với phụ huynh học sinh Các bậc phụ huynh cần tập trung vào khen ngợi, động viên, củng cố tích cực cho các em trong quá trình học tập, thay vì chỉ chu ý đến kết quả học tập cuối cùng. Đồng thời, cha mẹ cũng cần tránh đặt ra những điều kiện cho tình yêu thương của mình đối với con cái. Thay vào đo co thể giáo dục trẻ về động cơ học tập, những hệ quả tự nhiên và hệ quả logic về điều các em co thể đạt được hay bị mất đi nếu không nỗ lực trong học tập và những hệ quả đo phải co liên quan trực tiếp với việc học. Ngoài ra, các bậc phụ huynh cũng cần chu trọng đến việc chăm so c về mặt thể chất cho trẻ để trẻ cảm thấy hài lòng, tự tin hơn với vẻ bề ngoài của mình Đối với cá nhân hoặc tổ chức tiến hành những nghiên cứu trong tương lai về mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập Các tác giả co thể mở rộng phương pháp nghiên cứu: bên cạnh việc sử dụng thang đo tự báo cáo, các tác giả co thể sử dụng phương pháp quan sát để kết quả thu được không bị chi phối bởi yếu tố chủ quan từ phía khách thể. Các tác giả cần đưa vào những câu hỏi để loại trừ những biến nhiễu ảnh hưởng đến mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập. 17